Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng trong dạy và học toán có lời văn lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.53 KB, 18 trang )

- Họ và tên: Lê Thị Thanh Thúy.
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Minh Đức.
- Tên đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng
trong dạy và học toán có lời văn lớp 2.

1


A. Phần mở đầu :
I –Bối cảnh của đề tài :
Bậc Tiểu học được coi là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục Quốc
dân.Vì thế giáo dục có vai trò rất quan trọng đó là nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ. Bước đầu chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học các bậc học
cao hơn.Vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy, học ở môn Toán nói chung giải
toán có lời văn nói riêng là điều vô cùng cần thiết.
Từ khi nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp Hai đến nay, trong quá trình giảng
dạy tôi nhận thấy việc giải toán có lời văn giáo viên và cả học sinh vẫn còn lúng
túng. Cụ thể trong năm học 2010-2011 vừa qua đa số học sinh còn nhầm lẫn rất
nhiều khi thực hiện giải toán có lời văn. Từ đó dẫn đến hiệu quả chất lượng
không như mong muốn.
II. Lí do chọn đề tài :
Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới đánh
giá kết quả học Toán của học sinh Tiểu học.
Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng
quan trọng, nó giúp cho học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không
gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng
nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương
pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển ốc
thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác các
kiến thức, kĩ năng môn Toán ở Tiểu học còn ứng dụng nhiều trong đời sống thực


tế.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy Khối lớp 2, tôi thấy: Toán có lời văn
có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở Tiều học. Các em được làm
quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1, đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời
giải cho phép tính. Có thể nói đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh khi
học về giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với một số em
vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép
2


tính, đáp số. Vì vậy đây cũng là một vấn đề mà bản thân tôi luôn băn khoăn.
Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời
giải hay, phép tính đúng. Điều đó còn đòi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực
không mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp.
Thực tế qua nhiều năm giảng dạy ở khối 2, tôi nhận hấy học sinh khi khi
giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các
em thường lúng túng khi đặt câu câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm
phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải
đúng hoặc đặt câu lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều
khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện
các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1,2 sẽ là một khó khăn đối với giáo viên trực
tiếp giảng dạy ở lớp 1,2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn, ngay ở việc
giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề. Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa
hiểu được đề, chưa trả lời được câu hỏi giáo viên nêu: Bài toán cho biết gì?...
Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời
giải. Những nguyên nhân trên không thể đỗ lỗi về phía học sinh 100% được mà
phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của người thầy.
Đây cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài này “ Một số biện pháp nâng cao
chất lượng trong dạy và học toán có lời văn lớp 2”, mong tìm ra những giải pháp

nhầm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói
riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với
các giải toán có lời văn khó và phức tạp hơn ở các lớp trên.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
- Vấn đề mà đề tài này đề cập đến là những khó khăn mà học sinh lớp Hai
thường gặp khi giải các bài toán có lời văn.Thực hiện từ năm học 2010 - 2011.
- Đề tài nhằm nghiên cứu những vướng mắc mà học sinh lớp Hai thường
gặp khi giải các bài toán có lời văn và biện pháp khắc phục giúp học sinh rèn kĩ
năng học Toán.
IV. Mục đích nghiên cứu :
3


Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề : Trình độ nhận thức
của học sinh không đồng đều. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm
tắt, đặt đề toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, lựa
chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích
hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ
năng diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động,
ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán. Vì thế phải có
phương pháp khắc sâu kiến thức để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giúp học
sinh có thể giải các bài toán được tốt và thông qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả dạy và học Toán lớp Hai.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu :
- Hệ thống lại các kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã được
học ở lớp Hai.
- Rèn cho học sinh kĩ năng xác định các dạng toán cơ bản đã học từ đó
giúp học sinh tự tin hơn khi giải các bài toán có lời văn.
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận :

1.1 Cơ sở lý luận:
- Phó tiến sĩ Kiều Đức Thành (Vụ Giáo dục Tiểu học) cho rằng: “Toán
học giúp con người giải quyết các bài toán thực tế. Các bài toán thực tế được
diễn đạt bằng lời văn, từ đó có tên gọi: bài toán có lời văn”.
Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ
những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một
cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học
chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để
từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Môn Toán ở bậc Tiểu học nói chung và khối Hai nói riêng đóng một vai
trò quan trọng trong việc đánh giá trình độ kiến thức của học sinh. Một phần lớn
thời gian học toán của học sinh dành cho việc giải các bài toán có lời văn. Biết

4


giải thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán học
của mỗi học sinh.
Sở dĩ giải toán có một vị trí quan trọng như trên vì có những tác dụng to
lớn và toàn diện như :
- Củng cố kiến thức đã học.
- Phát triển tư duy, sáng tạo.
- Phát huy tính tự lực, độc lập suy nghĩ.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay khi giảng dạy trên lớp một số giáo viên còn sử dụng phương
pháp truyền thống. Phương pháp này không mang lại hiệu quả. Học sinh sẽ thụ
động, mất khả năng sáng tạo. Một số em chưa hứng thú trong quá trình học tập
khả năng phân tích tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa còn hạn chế.
Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai
trò quan trọng. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và

những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt qua khó khăn, đức tính cẩn
thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra
kết quả công việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận
dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời
qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những
ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp các em phát
huy những mặt được và khắc phục những mặt thiếu sót. “ Kiến thức ở trường
được coi như những viên sỏi và trẻ em nhận nó như một món quà ở nhà trường,
chứ không buộc phải nhận nó như một nhiệm vụ”.(Tạp chí GD tập 42 -2010 )
II. Thực trạng của vấn đề :
1.Thuận lợi :
Nội dung sách giáo khoa Toán Hai được soạn thảo hiện đại và cập nhật sự
phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế, tăng cường thực hành vận dụng, gắn
bó với thực tiễn Việt Nam. Hơn nữa nội dung chương trình và sách có tính
thống nhất cao, phù hợp với trình độ phát triển chung của đa số học sinh, tạo cơ

5


hội và điều kiện học tập, phát triển năng lực, góp phần phát hiện và bồi dưỡng
những học sinh có năng lực đặc biệt.
Giáo viên vững về chuyên môn, luôn có ý thức tìm tòi, sáng tạo, nhiệt tình
trong công tác giảng dạy. Các em học sinh phần lớn ham hiểu biết, có ý thức
trong học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức .
2.Khó khăn :
Trong những năm học vừa qua, qua giảng dạy ở trên lớp và dựa trên cơ sở
bài thi của học sinh. Nhìn chung, kết quả giải bài toán có lời văn đạt tỉ lệ rất
thấp. Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì
kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và

hiểu đề còn thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều
thời gian, phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu
câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
+ Do các bài toán có lời văn các em chưa hiểu, chưa nắm vững cách tiến hành
thực hiện giải toán nên các em có thái độ lơ là và chán nản đối với những bài
toán có lời văn. Đặc biệt là ở lời giải, các em lúng túng không biết đặt như thế
nào cho đúng, không xác định được yêu cầu của đề bài hỏi gì? Vì vậy dẫn đến
chất lượng học tập của các em còn hạn chế. Nên cần có biện pháp khắc phục.
Tôi đã lên phương án điều tra, khi dạy đến phần này ở lớp Hai mà
mình giảng dạy 2010 – 2011 như sau:
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu.
Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán của 27 học sinh lớp 24 và thu được kết
quả như sau:
Sĩ số

Giải thành thạo

Kĩ năng giải chậm

Chưa nắm được cách
giải

27 em

6 em = 22,2 %

8 em = 29,6 %

6


13 em = 48.2%


Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có
hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã
mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề :
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần
quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt.
* Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp.
Chính vì vậy , để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên
cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi
học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có
vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên,
nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý
nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng
chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu
ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn
chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học
Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học
sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo.
* Theo chương trình SGK mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải
toán có lời văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp
câu hỏi để hoàn chỉnh đề toán, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và chưa yêu
cầu lời giải hay, chính xác. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không
quá 40 phút, với nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn
luyện nhiều. Vì vậy, khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải toán có

lời văn, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo viên
đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng
cách trình bày, sự trau truốt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu
được những thiếu sót đó của các em , ở những tiết toán có bài toán giải tôi
7


thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu
nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2.
“ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát.
Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”.
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Lớp 2A có :

18 học sinh.

Lớp 2B có :

21 học sinh.

Hỏi cả hai lớp có: ... học sinh?.
- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (bạn)
- Tiếp đó, học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng
lời sau đó nêu cách giải rồi tự giải. ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học
sinh luyện nêu miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán.
Ví dụ: Bài tập 2 (trang 25 - SGK toán 2)
An có:


11 bưu ảnh.

Bình nhiều hơn An: 3 bưu ảnh.
Bình có:

…bưu ảnh?.

- Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời
theo yêu cầu.
Học sinh: An có 11 bưu ảnh. Bình có số bưu ảnh nhiều hơn số bưu ảnh của
An là 3 cái. Hỏi Bình có tất cả có bao nhiêu cái bưu ảnh?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bài giải
Số bưu ảnh của Bình có là:
11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Đáp số: 14 bưu ảnh.
8


3. Áp dụng qua các tiết dạy.
Chương trình Toán lớp 2 mới thường được cho dưới các dạng bài tập sau:
+ Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3
bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?
+ Tháng trước tổ em được 16 điểm mười, tháng này tổ em được nhiều hơn
tháng trước 5 điểm mười. Hỏi tháng này tổ em được bao nhiêu điểm mười?...
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh
các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình

bày bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ
khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn
từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”…
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài
toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đặt câu hỏi đàm
thoại:
“ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán…
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và
dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài
toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép cộng”
nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “tính trừ” nếu
“bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ít hơn”…
Ví dụ:
9


Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7
cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái
đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu
hỏi gợi ý như:

+ Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7
cây)
+ Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam)
+ Muốn biết vườn nhà Hoa có mấy cây cam em làm sao? (Lấy số cây cam
vườn nhà Mai trừ đi số cây cam vườn nhà Hoa)
+ Ta làm phép tính gì? ( Trừ)
+ Lấy mấy trừ đi mấy? (17 – 7)
+ 17 – 7 bằng bao nhiêu? ( 17 – 7 = 10 )
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng
dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với
người dạy. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn các cách hướng dẫn
sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi
của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu
lời giải: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:”
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Vườn nhà Hoa có mấy cây cam?” Để
học sinh trả lời miệng: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:” rồi chèn phép tính
vào để có cả bước giải (gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính):
Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
17 – 7 = 10 (cây cam)
Đáp số: 10 (cây cam).

10


Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các
em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.

Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2
cách trên.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi để cho các em tự
suy nghĩ hoặc thảo luận theo bàn, nhóm ( nếu khó) để tìm ra các câu lời giải
đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn
các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để
có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải:
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu
lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa
học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu
cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng
dẫn, quy định.
- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm
tắt, sau gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có
gạch chân), câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết
hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng
2 -> 3 chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần
đáp số ghi sang phần vở bên phải ( có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết
kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày
để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường
xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương
trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng
trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập…
11



Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết
hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo
nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng
trực tiếp các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho
học sinh làm một số dạng bài tập giải toán có lời văn như sau:
Ví dụ 1: Nam có 6 lá cờ, Hùng có 9 lá cờ. Hỏi cả hai bạn có bao
nhiêu lá cờ?
Không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như
sau:
Tóm tắt
Namcó:

Bài giải

6 lá cờ.

Hùng có:

Cả hai bạn có số lá cờ là:

9 lá cờ.

6 + 9 = 15 ( lá cờ)

Cả hai bạn : … lá cờ?

Đáp số: 15 lá cờ.


Ví dụ 2: Hải có 15 hòn bi, Hải cho bạn 6 hòn bi. Hỏi Hải còn lại bao
nhiêu hòn bi?
Học sinh lớp tôi thực hiện như sau:
Tóm tắt
Hải có:

15hòn bi.

Cho bạn:

6 hòn bi.

Bài giải
Hải còn lại số hòn bi là:
15 – 6 = 9 (hòn bi)

Còn lại: … hòn bi?

Đáp số: 9 hòn bi.

Tiếp tục tiến hành kiểm tra nhiều kĩ năng giải toán của học sinh với
nhiều dạng bài khác nhau, tổng hợp kết quả qua chấm chữa bài cho học sinh tôi
thu được kết quả sau:
- Số bài giỏi:

13 bài.

- Số bài khá:


9 bài.

- Số bài trung bình:

5 bài.

- Số bài yếu:

Không có.

4. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
12


Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm
lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những
em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi
các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi
tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn.
Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ
rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học
sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học
tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có
trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền
đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán,
rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang

trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện
vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có
hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là
kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh,
trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 –
3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập
vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng
nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến
rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :

13


“Giải toán có lời văn” là dạng toán khó đối với học sinh lớp 2 nói riêng và đối
với học sinh Tiểu học nói chung. Một điều đáng mừng là sau khi áp dụng, kết
hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà chất lượng học sinh lớp tôi đã tiến bộ
rất nhiều
Trong năm học trước: (2010 – 2011) có những em khi giải toán còn đặt
câu lời giải như: “Có tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số gà còn lại là:”…
Những lỗi đó đến nay không còn nữa, học sinh lớp tôi không những biết cách
đặt câu lời giải hay, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải
đúng, đẹp.

Phần kết luận :
I.Những bài học kinh nghiệm :
Qua những vướng mắc thực tế và mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp

học tôi lại rút ra được một vài kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp
với lương tâm trách nhiệm của người thầy.
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc rút những vướng mắc,
khó khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết
tốt nhất.
- Mỗi biện pháp giáo dục của các giáo viên phải được thực hiện đúng thời
điểm, đúng nội dung ở từng bài học.
- Không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài
liệu hướng dẫn – tham khảo, không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học
sinh trong lớp được.
- Cần quan tâm động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó
khăn để học tập tốt hơn.
- Trong quá trình hướng dẫn giải toán có lời văn ( Lớp 2) giáo viên cần lưu ý
hơn tới việc hướng dẫn cho các em đặt câu lời giải cho hay, cho xúc tích.Vì việc
thực hiện phép tính các em đều có thể nêu ngay sau khi đọc xong đề toán.
- Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cũng cần
chú ý nhiều đến kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết trong môn Tiếng Việt. Luyện kĩ
14


năng hỏi – đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông hơn, giúp các em dễ dàng
đạt câu lời giải cho bài toán.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,
mỗi dạng toán, tránh để các em sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo viên
trong mọi lúc của giờ học.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần phải tìm ra nhiều biện pháp,
nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp làm việc cá
nhân, làm việc theo nhóm và tập trung chú ý tới cả ba đối tượng để giúp các em

học tốt hơn.
- Người giáo viên luôn luôn cần phải có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thứcđể
đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên
phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tòi các tài liệu có liên
quan…Điều quan trọng là: Lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn của mỗi giáo
viên.
- Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin
rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của
các em lớp 2 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học
tốt hơn ở các lớp sau.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm :
Khi hoàn thành sáng kiến này, cũng là lúc việc ôn tập các dạng toán này
của lớp Hai đang được tập trung thông qua rất nhiều bài ôn tập. Lòng tôi không
khỏi vui mừng phấn khởi vì mình đã tìm ra một hướng đi đúng đắn cho việc
giúp các em cách làm và ghi nhớ sâu hơn cách làm ấy. Nhìn những điểm mười
đỏ chói qua các bài tập toán của học sinh, tôi tin chắc rằng kỳ thi kết thúc năm
học 2011-2012 điều chắc chắn chất lượng môn Toán của lớp tôi sẽ được nâng
lên, thông qua việc tôi đã giúp học sinh nắm kĩ và thực hiện tốt giải toán có lời
văn ở lớp Hai.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai :

15


Với những biện pháp giúp học sinh lớp Hai giảm bớt khó khăn trong việc giải
toán có lời văn là một việc làm hết sức cần thiết giúp các em có thể học tốt hơn,
tự tin hơn.Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp hai chắc chắn sau này
các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng toán khó hơn. Tạo cơ
hội và điều kiện học tập cho học sinh, góp phần phát hiện và bồi dưỡng những
học sinh có năng lực.

Sáng kiến này mang ý nghĩa thiết thực giúp giáo viên tự học tập và có
kinh nghiệm trong dạy toán nói chung và trong việc dạy giải toán có lời văn nói
riêng. Đồng thời nó còn giúp cho giáo viên từng bước nâng cao tay nghề của
mình.
IV.Những kiến nghị, đề xuất :
- Với ngành và nhà trường: Thường xuyên tổ chức những chuyên đề về giải
toán có lời văn để cho tập thể giáo viên chúng tôi được nghiên cứu, học tập lẫn
nhau.
- Với giáo viên: Là giáo viên giảng dạy, tôi mong muốn tất cả chúng ta khi dạy
các dạng toán này phải có sự kiên trì và thời gian không phải một tuần, hai tuần
là học sinh sẽ có khả năng giải toán tốt mà đòi hỏi phải có sự tập luyện, rèn giũa
trong thời gian dài, trong suốt quá trình học tập. Quý thầy cô hãy thử nghiệm lại
những gì mà tôi đã trình bày trong kinh nghiệm này.
Rất mong sự góp ý của Hội đồng khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Tài liệu tham khảo
16


1. Chuyên đề Giáo dục Tiểu học , 2005
2. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
3. Nguyễn Bá Kim, Phương pháp dạy học môn Toán, Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2002.
4. Sách giáo viên Toán 2, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
5. Sách giáo khoa Toán 2, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2003.
6. Thế giới trong ta – CĐ 38+39, 2005.

17



Mục lục
Phần mở đầu

Trang

I. Bối cảnh đề tài

1

II. Lí do chọn đề tài

1

III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

2

IV. Mục đích nghiên cứu

2

V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu

3

Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận

3


II. Thực trạng của vấn đề

4

III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

6

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

12

Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm

13

II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm

14

III. Khả năng ứng dụng, triển khai

14

IV. Những kiến nghị, đề xuất

15

18




×