Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

skkn một số KINH NGHIỆM xây DỰNG ĐỘNG cơ học tập CHO học SINH yêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.9 KB, 11 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG ĐỘNG CƠ HỌC TẬP
CHO HỌC SINH YẾU
Tác giả: Nguyễn Thị Huệ
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Định 2
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài:
Năm học 2011-2012 là năm thứ hai thực hiện chủ đề năm học “ Tiếp tục
đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” Trong thực tế Phòng
giáo dục - Đào tạo huyện đã và đang chỉ đạo chặt chẽ chương trình dạy học đạt
hiệu quả tốt nhất, tối ưu nhất. Khi tìm hiểu công tác phụ đạo học sinh yếu, nâng
cao chất lượng lớp chủ nhiệm qua nhiều năm dạy học tôi thấy cần phải xây dựng
cho các em học sinh yếu động cơ học tập cho phù hợp để các em có hứng thú
học tập và học đạt kết quả tốt nhất.
II. Lý do chọn đề tài:
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính
cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài rất nhanh
nhưng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí không hiểu gì thông qua các
hoạt động trên lớp. Trong quá trình giáo dục để đạt hiệu quả cao không dễ chút
nào. Khi trong thực tế một lớp học bao giờ cũng có sự chênh lệch về trình độ
tiếp thu của học sinh và nhất là đối với học sinh yếu kém, khiến các em khó vượt
qua để theo kịp với các bạn trong lớp. Vậy là một giáo viên chủ nhiệm làm sao
để thúc đẩy động cơ học tập của sinh yếu. Đó chính là vấn đề mà chúng ta đặt ra
và cần có hướng giải quyết. Từ thực tế trên, sau nhiều năm vận dụng và chọn
lộc, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhằm xây dựng động cơ học tập cho
học sinh yếu.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động dạy học và giáo dục của
giáo viên lớp 2.
2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh yếu khối lớp 2.
-1-



IV. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần vào nâng cao chất lượng giáo
dục của huyện nhà nói chung và của trường nói riêng, đặc biệt là giúp học sinh
yếu kém xác định được động cơ thái độ học tập đúng đắn, qua đó hạn chế học
sinh bỏ học và hoàn thành mục tiêu giáo dục cấp học được qui định trong điều lệ
trường Tiểu học.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
Tăng cường công tác giáo dục đối với HS yếu. Góp phần kéo giảm tỉ lệ HS
có nguy cơ bỏ học.
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Giáo dục là nhằm xây dựng những con người có năng lực, có ý thức cộng
đồng, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có sức khỏe. Trước hết
người giáo viên cần quan tâm xây dựng nề nếp học tập như thế nào để cho các
em muốn đến trường, đến lớp, ham học, có động cơ đúng đắn trong học tập vừa
có hạnh kiểm tốt.
Đảng ta khẳng định mục tiêu phát triển của sự nghiệp giáo dục đào tạo
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Khi các em học sinh đến lớp học, thì dù thế nào đi nữa cũng nhằm thỏa
mãn nhu cầu thấp nhất là có kiến thức hoặc để hiểu biết hơn, giỏi hơn, để sau
này đạt được những vị trí xứng đáng trong xã hội, một tương lai tươi sáng do
chính bản thân tạo ra. Trong nhà trường học sinh phải không ngừng học tập để
nâng cao trình độ học vấn của mình.
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Vào đầu mỗi năm học, học sinh tiếp thu bài còn chậm, chưa tập trung
vào giờ học, ý thức học tập chưa cao, nề nếp chưa tốt do đặc điểm tâm lý lứa
tuổi.


-2-


2. Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình,
còn phó thác cho nhà trường.
3. Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế.
III. Các biện pháp để tiến hành và giải quyết vấn đề:
A/ Nguyên nhân dẫn đến học yếu:
Do tình hình khó khăn hiện nay, còn một số phụ huynh ít quan tâm đến việc
học của các em. Các em đến trường phụ huynh còn phó thác cho giáo viên. Các
em còn nhỏ chưa có ý thức trong học tập thậm chí các em không hề xem bài hay
học bài ở nhà. Là giáo viên thì ai ai cũng phải biết : “ Muốn giáo dục con người
thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Để giáo dục đạt hiệu quả người giáo viên
phải hiểu sâu sắc các em. Từ đó mới có thể đặt ra những tác động sư phạm thích
hợp và cụ thể với từng đối tượng học sinh.
*Việc đầu tiên: Giáo viên phải hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu –
kém. Để nắm được tình hình học sinh trong lớp của mình chủ nhiệm, tôi sử dụng
nhiều cách thức và nhiều biện pháp khác nhau, điển hình như:
+Thông qua nghiên cứu lý lịch học sinh giáo viên sẽ nắm được hoàn cảnh
gia đình, nghề nghiệp của phụ huynh, gia đình đông con hay ít con, phụ huynh
có quan tâm giáo dục con cái hay không, địa bàn cư trú của các em…
+Thông qua nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: Học bạ, sổ liên lạc, khảo sát
chất lượng học sinh đầu năm. Giáo viên sẽ nắm được mặt mạnh cũng như mặt
hạn chế của học sinh. Trong quá trình dạy giáo viên cần phải phát hiện kịp thời
các lỗ hỏng kiến thức của học sinh.
Ví dụ: Trong phân môn Tiếng việt khi chúng ta dạy các em qua phần đọc
vần, nếu ta không dạy cho các em đọc âm tốt thì các em không thể nào học được
phần vần.
+Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, cá tính và những hạn chế khuyết điểm

trong học tập của từng học sinh thông qua giáo viên lớp 1 và phụ huynh học
sinh. Ví dụ: đớt, cà lâm, đọc yếu, viết chậm, viết sai chính tả, cẩu thả, học không
tập trung, đùa nghịch trong giờ học…..

-3-


+ Giáo viên luôn quan tâm, trao đổi, lắng nghe ý kiến của học sinh, phụ
huynh học sinh. Hướng dẫn học sinh nói lên những mong muốn trăn trở của
mình. Từ đó giáo viên sẽ nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, sở thích, thái độ
trong quan hệ của học sinh với mọi người. Và cũng từ đây giáo viên sẽ phát huy
sở trường của học sinh, từ đó kích thích các em học tập. (Ở lớp tôi đang chủ
nhiệm có một em học sinh sống với bà ngoại đã già, mẹ thì đi làm ở thành phố
Hồ Chí Minh, em phát âm không chuẩn nên các bạn trong lớp cười ầm lên mỗi
khi em đọc. Có bạn khuyên về nhà nhờ bà chỉ cho, tôi thấy được sự buồn tủi trên
gương mặt em vì ba không có, mẹ lại đi làm xa, bà thì lớn tuổi đâu có dạy em.
Nắm được điều đó, vào giờ tập đọc tôi mời em đọc và phát biểu thật nhiều còn
các bạn khác có nhiệm vụ sửa lại cho em, chỉ cần phát biểu có ý đúng hay đọc rõ
một tí thì tôi đề nghị lớp biểu dương cái đúng để kích thích và động viên em, để
từ đó em cảm thấy thích thú và càng cố gắng nhiều hơn trong học tập. Chính
nhờ vào sự cố gắn của em để được thầy cô và các bạn khen thì sức học của em
sẽ tự nâng dần lên).
+ Thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt được sự quan tâm
giáo dục hay thờ ơ của họ. Từ đó có sự tư vấn và phối hợp giữa giáo viên và phụ
huynh để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp… Ví dụ: ở lớp tôi có vài em
chữ viết rất xấu, viết bài rất ẩu, sai chính tả rất nhiều. Tôi đã mời phụ huynh của
em vào và hỏi xem cách dạy bài ở nhà cho em, qua đó tôi nắm bắt và đánh giá
được sự quan tâm dạy dỗ của gia đình đối với các em . Từ đó tôi đã trình bày
việc học ở lớp của em và hướng dẫn gia đình cách dạy cho các em học ở nhà,
nên tập lại cho em viết nhiều lần bài tập đọc. Đồng thời kết hợp với việc kiểm

tra và giúp đỡ hàng ngày của giáo viên, sau một tháng tôi thấy chữ viết của các
em có tiến bộ, chính tả ít sai hơn. (lưu ý không nên đòi hỏi ngay ở các em là viết
phải đẹp và bằng như các bạn trong lớp mà cần cho các em thời gian học tập và
rèn luyện, dần dần chữ viết các em tiến bộ là đã thành công).
* Bước tiếp theo tôi phân loại và nhận thấy có 3 nguyên nhân chính dẫn đến
yếu – kém trong học tập ở các em.
1/ Do hoàn cảnh gia đình.
-4-


2/ Do mất căn bản.
3/ Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập hay nói thông thường là học sinh
lười học, không chăm chỉ chuyên cần.
Tất cả các nguyên nhân trên tác động vào quá trình học tập của học sinh.
Dẫn đến các em chán học, lơ là, đến trường cho có lệ, học không có mục đích ,
kết quả cuối cùng là học tập sa sút đi dần đến yếu –kém.
B/ Nội dung:
Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu
học để làm gì? Vì sao phải học?
Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như
sau:
+ Động cơ mang tính xã hội: Học để sau này góp phần xây dựng đất nước,
xây dựng quê hương.
+ Động cơ mang tính cá nhân: Học vì lợi ích riêng của mình, muốn hơn
người, muốn sau này có vị trí cao trong xã hội…
+ Động cơ bên trong: xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm
được kiến thức, vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học.
+ Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt, muốn thầy cô và cha mẹ
vui lòng…
Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học,

học sinh học tập để có kết quả tốt. Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc
học, có hứng thú trong học tập. Động cơ tạo nên động lực học đó chính là nhân
tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh.
C/ Biện pháp:
Ứng với từng nguyên nhân trên, kết hợp với nội dung vừa nêu, tôi xin đề ra
những biện pháp thiết thực hữu hiệu sau:
1/ Học sinh yếu do hoàn cảnh gia đình:
Gia đình là môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Trước tiên
là ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy, giáo dục gia đình là một “điểm
mạnh”, là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song mỗi gia
-5-


đình có những điểm riêng nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để đảm
bảo được tính thống nhất, toàn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời phát huy
ảnh hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiểu quả. Do đó giáo viên cần:
- Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể
hướng phấn đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…
Thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh.
- Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập
và rèn luyện. Qua đó, giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả
học tập, hạnh kiểm, các mặt tham gia hoạt động…của con em mình thông qua sổ
liên lạc. Giáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện
pháp tác động phù hợp. Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở
kịp thời khi các em có biểu hiện cần uốn nắn.
- Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành
bài học ngay lại lớp. Giao việc làm cụ thể cho từng học sinh diện yếu kém phải
rèn luyện ở nhà, kết hợp với kiểm tra thường xuyên trên lớp việc thực hiện công
việc được giao về nhà của các em.
- Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi cần thiết để bàn bạc biện pháp giáo dục

các em hoặc thông báo sự tiến bộ của các em (không nên lạm dụng).
2/ Học sinh yếu do mất căn bản:
Kiến thức luôn cần có sự xuyên suốt. Do mất căn bản học sinh khó mà có
nền tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới. Để khắc phục tình trạng này, giáo
viên cần:
- Hệ thống hóa kiến thức theo chương trình.
- Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện
tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
-Phân hóa đối tượng học sinh.
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em, bằng nhiều hình thức tổ
chức (thi đua cá nhân, thi đua tổ nhóm, đố vui, giải trí,…). Kết hợp kiểm tra
thường xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm
bài, kích thích hoạt động trí tuệ cho các em.
-6-


- Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng:
+ Xác nhận sự tiến bộ ở học sinh.
+ Kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh .
+ Thúc đẩy hành động theo chuẩn mực.
+ Giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như các
bạn…
+ Sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh.
+ Kèm chế sự bộc phát, tập thói quen chu đáo và cẩn thận.
+ Ngược lại nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo
của học sinh.
Ta thấy rằng, con người luôn luôn có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng
định mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy giáo viên
cần nắm vững đều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập.
3/ Học sinh yếu do lười, học không chăm chỉ, không chuyên cần hoặc chưa

nhận thức được nhiệm vụ học tập:
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do: không học bài, không làm bài
, thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi, không tập trung, lo ra…Để
các em có hứng thú học tập, giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng
các phương pháp dạy học, thay đổi bằng hình thức trò chơi, sử dụng phong phú
đồ dùng học tập … Giúp các em hiểu bài, tự bản thân mình giải quyết các bài
tập. Ngoài ra, giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc nhở và giúp đỡ lẫn nhau
mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải hiểu, một học sinh yếu –
kém không đòi hỏi các em phải giỏi ngay được, mà điều chúng ta mong muốn là
sự tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian trước. Phương pháp này không
dùng để giáo dục học sinh yếu – kém do hoàn cảnh gia đình được.
Ngoài ra, giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh
bằng lời nói, cử chỉ, mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em. Ví dụ: Giáo viên
dùng lời nói nhỏ nhẹ, giải thích cho các em nắm được tầm quan trong của việc
học. Cho các em hiểu được: “ Học phải đi đôi với hành.” Có như vậy các em
mới nắm được kiến thức lâu và tiếp thu các kiến thức mới tốt được.
-7-


Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển
biến tâm lí như thái độ, hành vi, tình cảm…Ví dụ: Học sinh thích thú khi được
đến trường, các em sẽ luôn mong muốn được điểm tốt, được cô giáo khen, được
vui đùa cùng các bạn. Đến trường để được làm bài, chia sẻ ý kiến và suy nghĩ
của mình với bạn bè …
Phương pháp này có hiệu quả nếu giáo viên tác động kịp thời, đúng mức độ
đến từng đối tượng học sinh. Kết quả của sự tác động phụ thuộc vào tình cảm ,
thái độ, nghệ thuật của giáo viên khi tác động. Giáo viên cần phải tạo cho các
em một niềm tin: “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”
Bên cạnh phương pháp giáo dục trực tiếp đến từng đối tượng học sinh. Giáo
viên cần phải phối hợp phương pháp giáo dục tập thể. Dùng dư luận của tập thể

tác động đến đối tượng học sinh cá biệt, xây dựng dư luận tập thể lành mạnh
thành khối đoàn kết, với phương châm: “Sống có trách nhiệm”, thiết lập mối
quan hệ tốt giữa các thành viên, khêu gợi động lực học tập của học sinh vì danh
dự tập thể mỗi thành viên tự giác điều khiển hành vi của bản thân. Ví dụ: Giáo
viên động viên học sinh bằng hoa điểm mười cho các đôi bạn cùng tiến, cho tổ
vào mỗi ngày, và tổng kết tuyên dương sau mỗi tuần. Có như vậy các thành viên
trong tổ mới động viên, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Còn các thành viên ở tổ khác
sẽ cố gắng học tập để đạt kết quả tốt như tổ bạn…Chính dư luận là dấu hiệu
quan trọng nhất đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của tập thể trong đó có
sự tiến bộ của các đối tượng học sinh yếu kém.
Trong quá trình dạy học ta thấy rằng không ít học sinh bi quan, mất niềm
tin, chủ quan…trong học tập, trong sinh hoạt do đặc điểm tâm sinh lí của lứa
tuổi, có lúc ta thấy các em linh động, lại có lúc ù lì chậm chạp…Tất cả các
trường hợp đó, giáo viên phải tận dụng phương pháp này kích thích các em để
các em biết kiềm chế bản thân, làm bớt những biểu hiện quá đà hoặc tạo hứng
thú cho các em đang ù lì trở lại hoạt động vui chơi, hòa đồng với các bạn trong
tổ, trong lớp.

-8-


Tóm lại: Mỗi phương pháp đều có ưu và khuyết điểm riêng, tùy vào tình
hình lớp và đối tượng học sinh mà giáo viên phải linh động và khéo léo lựa chọn
phương pháp sao cho phù hợp, để đạt kết quả cao trong quá trình dạy học.
IV. Hiệu quả cả sáng kiến kinh nghiệm:
Qua việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, tôi nhận thấy đa số đối tượng
học sinh yếu lớp tôi phụ trách tiến bộ rất nhiều so với đầu năm. Điều đặc biệt là
trong mỗi năm học chỉ sau vài tháng thực hiện theo cách làm trên thì đa số phụ
huynh học sinh đều hài lòng vì sức học của con em mình ngày được nâng cao rõ
rệt. Chình nhờ vận dụng sáng kiến trên mà nhiều năm nay lớp tôi phụ trách

không em học sinh nào xếp loại yếu cuối năm. Kết quả được thể hiện như sau:
THỐNG KÊ HỌC SINH YẾU KÉM NĂM HỌC 2010 – 2011
KẾT QUẢ
CUỐI
GIỮA
HKI
HKII
SL
TL
SL
TL

MÔN

SỈ
SỐ

HS
YẾU
ĐẦU
NĂM

Tiếng
việt

24

3

0


0

0

0

0

0

0

0

Toán

24

3

3

13,0

1

4,2

0


0

0

0

GIỮA
HKI
SL TL

CUỐI
HKII
SL
TL

PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
Vào đầu năm học, giáo viên phải kiểm tra khả năng tiếp thu bài của học
sinh để phân loại trình độ học sinh. Tìm hiểu và theo dõi tâm sinh lí của từng đối
tượng học sinh. Động viên các em học yếu thông qua các tấm gương phấn đấu
trong học tập của các lớp đi trước. Tổ chức nhiều trò chơi gây hứng thú cho học
sinh. Lựa cho các em những bài tập phù hợp và sắp xếp từ đơn giản đến phức
tạp. Động viên khuyến khích các em có sự chuyển biến tốt dù chỉ là rất nhỏ.
Trong quá trình rèn cho các em không nên nóng vội mà thật sự diệu dàng, thân
thiện với các em để tạo nên tâm lí thoải mái trong học tập, các em tự tin vào bản
thân và luôn mong muốn đến trường.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
-9-



Đề tài này trước tiên giúp bản thân tôi thực hiện tốt công tác chủ nhiệm
nâng cao chất lượng học lực cũng như việc đổi mới phương pháp giáo dục học
sinh. Góp phần nâng cao chất lượng của trường.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Đề tài này phù hợp với điều kiện thực tế của trường nên dễ áp dụng, có khả
năng nhân rộng trong phạm vi trường.
IV. Kiến nghị đề xuất:
Không có
V. Lời kết:
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được những biện pháp,
áp dụng giảng dạy đạt hiệu quả. Đây là bài học quý giúp tôi hoàn thành tốt quá
trình dạy học và nâng cao chất lượng việc rèn học sinh yếu. Tất nhiên mỗi người
có một phương pháp, một nghệ thuật riêng, nhưng chúng ta điều có chung một
ước mơ là “ trồng người”, kinh nghiệm này tôi đã thực hiện trong những năm
qua đạt kết quả khá cao. Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, rất
mong sự đóng góp của đồng nghiệp và hội đồng thi đua các cấp, để bản thân tôi
rút kết thêm những kinh nghiệm, đưa vào áp dụng trong thời gian sắp tới đạt kết
quả tốt hơn.

An Định, Ngày 6 tháng 2 năm2012
Người viết

Nguyễn Thị Huệ

- 10 -


- 11 -




×