Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện chi lăng, tỉnh lạng sơn, giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.28 KB, 53 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHI LĂNG,
TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện: Khổng Văn Mạnh
Lớp: Cao cấp lý luận chính trị B4 - 15
Chức vụ: Phó Trưởng ban
Đơn vị công tác: Ban Tổ chức Huyện ủy Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn

Hà Nội, tháng 4 năm 2016


i

LỜI CẢM ƠN
Là học viên được các thầy giáo, cô giáo trong Học viện Chính trị Khu
vực I truyền thụ kiến thức và giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn. Tôi xin trân
trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể các thầy giáo, cô giáo trong Học
viện, những người đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ khóa học.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ tỉnh
Lạng Sơn, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Chi Lăng, Ban Tổ chức Huyện
ủy, Phòng Nội vụ, Phòng Tài chính - Kế hoạch, Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị huyện Chi Lăng, các cơ quan liên quan, các bạn đồng nghiệp đã tạo điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu xây dựng
Đề án tốt nghiệp.
Do phạm vi đề án rộng, với thời gian và trình độ bản thân có hạn, đề án sẽ


không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được các thầy giáo, cô giáo, các
bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để đề án ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2016
HỌC VIÊN

Khổng Văn Mạnh


1

MỤC LỤC

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016................................................................................ I
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................... I


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Cán bộ, công chức là một bộ phận nhân lực đặc biệt trong tổng thể
nguồn nhân lực xã hội, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội. Với mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp, việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức mạnh cả về số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn
hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giữ vai trò hết sức
quan trọng.
Xã, thị trấn là nơi trực tiếp tiếp nhận, chấp hành và thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiệu quả hoạt động

của cấp ủy, chính quyền cấp xã tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, góp phần bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất
nước. Cấp ủy, chính quyền cấp xã không thể đảm nhận được vai trò, nếu thiếu
nhân tố có ý nghĩa quyết định - là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Vì vậy,
việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là nhiệm vụ thường xuyên, có ý
nghĩa quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài, trong điều kiện toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được
các cấp ủy, lãnh đạo cấp tỉnh, huyện quan tâm, đặc biệt là đã kịp thời ban
hành văn bản, xây dựng các chế độ, chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng.
Nhận thức của cán bộ, công chức về đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên, bước
đầu xác định học tập là để đáp ứng yêu cầu công việc, đào tạo, bồi dưỡng theo
vị trí việc làm.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Nghị định của Chính phủ và
các văn bản của tỉnh, huyện Chi Lăng đã có nhiều giải pháp tích cực để


2

nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Các cấp
ủy đảng đã coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, nhằm
không ngừng nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở. Nhìn
chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từng bước được phát triển cả số
lượng và chất lượng. Việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở và
đưa sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng về xã, thị trấn công
tác đã từng bước trẻ hóa và nâng cao trình độ về các mặt của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được
nâng lên cả về trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị và kinh
nghiệm thực tiễn. Hệ thống chính trị cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích
cực, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo,

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần quan trọng
đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Hiện nay, cán bộ cấp xã đang phải tiếp nhận, xử lý một khối lượng công
việc ngày càng nhiều, trong khi nhiều cán bộ ở cấp xã lại chưa qua đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ cơ bản, nhiều chế độ chính sách liên tục được thay đổi,
nhưng ít được bồi dưỡng bổ trợ kiến thức nghiệp vụ, pháp luật, kỹ năng hành
chính, tin học. Việc chậm nắm bắt thông tin, dẫn tới thiếu tính nhạy bén, linh
hoạt trong xử lý công việc, hiệu quả thực thi công vụ còn thấp, chưa đáp ứng tốt
nhất yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo điều hành ở địa phương.
Là Phó Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn,
trong thời gian nghiên cứu, học tập chương trình Cao cấp lý luận chính trị
tại Học viện Chính trị khu vực I, để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Chi Lăng, tôi chọn đề án:
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 làm đề án
tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.


3

2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nhằm mục tiêu tạo sự chuyển biến sâu sắc về nội dung, phương pháp
đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
đủ về số lượng, nâng cao kiến thức, kỹ năng về quản lý; chuyên môn, nghiệp
vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo tiêu chuẩn chức danh, tiêu chuẩn ngạch
công chức, nâng cao đạo đức công vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu từ năm 2016 đến năm 2020, 100% cán bộ, công chức cấp

xã của huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn được đào tạo, bồi dưỡng, trong đó
95% đạt tiêu chuẩn về trình độ các mặt theo quy định.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý, điều hành kinh tế - xã hội và thực thi công vụ ở địa phương
góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- 100% công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở
lên. Trong đó, có từ 40% đến 50% có trình độ đại học.
- 100% công chức cấp xã được bồi dưỡng kiến thức Quản lý nhà
nước, bồi dưỡng bổ sung kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật
tình hình kinh tế - xã hội, nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (mỗi năm tham gia ít nhất 1 khóa, mỗi khóa
tối thiểu 5 ngày).
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng
- Đối tượng đề án áp dụng: Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã.


4

- Đối tượng (Chủ thể) thực hiện đề án: Ban Tổ chức Huyện ủy Chi
Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Về không gian
21 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
3.3. Về thời gian
Từ năm 2016 đến năm 2020.


5


B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Cán bộ
Cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Trong Từ điển tiếng Việt, “cán bộ” được xác định: là người làm công
tác nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể; (hoặc)
là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với người không có chức vụ. Trong thực tế, khái niệm “cán bộ” có thể được
sử dụng theo nghĩa:
- Trong quân đội, cán bộ là người chỉ huy từ cấp tiểu đội trở lên, hoặc là
các sỹ quan cấp úy trở lên.
- Trong tổ chức Đảng và đoàn thể, cán bộ là người được bầu vào các
cấp lãnh đạo từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo); để phân biệt với
đảng viên thường, với đoàn viên, hội viên; hoặc là những người làm công tác
chuyên trách, được hưởng lương trong các tổ chức Đảng, đoàn thể.
- Trong cơ quan Nhà nước, “cán bộ” thường được hiểu chung là công
chức, viên chức (cán bộ Nhà nước).
Theo Khoản 1, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức: Cán bộ là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.



6

Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó
bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Theo Luật cán bộ, công chức, Nghị định số 92/2009/NĐ - CP của
Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã”, gồm:
Cán bộ cấp xã gồm có 11 chức vụ sau đây:
a) Bí thư, phó bí thư đảng ủy;
b) Chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân;
d) Chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch hội nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức hội nông dân
Việt Nam);
h) Chủ tịch hội cựu chiến binh Việt Nam.
1.1.1.2 Công chức
Theo định nghĩa ban đầu, công chức để chỉ những người làm việc trong
cơ quan hành chính, thực hiện chức năng chuyên môn trong bộ máy nhà nước
(được gọi là công chức hành chính); còn viên chức là người làm việc trong cơ
quan tổ chức sự nghiệp (còn được gọi là công chức sự nghiệp). Tóm lại, khái
niệm “công chức” để chỉ những người làm việc trong bộ máy nhà nước (hành
chính hoặc sự nghiệp), được hưởng lương theo ngạch bậc từ ngân sách nhà
nước, do cơ quan nhà nước chi trả.

Sau này, khái niệm “công chức” được mở rộng trong đội ngũ những
người hoạt động, làm việc trong hệ thống chính trị, thực hiện công tác


7

chuyên môn, nghiệp vụ trong tổ chức Đảng, đoàn thể và cơ quan Nhà nước,
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo quy định chung của Nhà
nước. Theo tinh thần đó, Luật cán bộ, công chức đã xác định: Công chức là
công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức cấp xã gồm có 07 chức danh sau đây:
a) Trưởng công an;
b) Chỉ huy trưởng quân sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);

đ) Tài chính - kế toán;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội.


8

Số lượng cán bộ, công chức cấp xã, phường được bố trí theo loại
đơn vị hành chính cấp xã, phường. Cụ thể:
a) Cấp xã loại 1: không quá 25 người.
b) Cấp xã loại 2: không quá 23 người.
c) Cấp xã loại 3: không quá 21 người.
1.1.1.2. Đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo là quá trình truyền thụ khối lượng kiến thức mới một cách có hệ
thống, để người công chức thông qua đó trở thành người có trình độ cao hơn
trước đó. Như đào tạo hệ cao cấp lý luận chính trị, đào tạo cử nhân hành chính
và các chuyên gia đầu ngành. Chương trình của đào tạo gắn liền với một trình
độ học vấn ở một cấp độ nhất định. Vì vậy, sau một quá trình đào tạo mỗi
người học được cấp bằng.
Bồi dưỡng là quá trình hoạt động làm tăng thêm kiến thức mới cho
những người đang giữ chức vụ, đang thực thi công việc của một ngạch, bậc
nhất định, để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Khối lượng, kiến thức,
kỹ năng được quy định tại các chương trình, tài liệu phải phù hợp với từng đối
tượng công chức. Kết quả của các khóa bồi dưỡng, người học sẽ nhận được
chứng chỉ ghi nhận kết quả.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức là
quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ dưới các
hình thức khác nhau cho công chức, phù hợp với yêu cầu giải quyết có chất
lượng công việc được Nhà nước giao, do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công
chức thực hiện. Quan niệm này mang tính thực tiễn của Việt Nam và cũng

phù hợp với khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng trong Từ điển tiếng Việt do Nhà
xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2004: Đào tạo, bồi dưỡng là làm tăng năng
lực và phẩm chất cho người được đào tạo, bồi dưỡng.
Đào tạo, bồi dưỡng là một giải pháp quan trọng trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán


9

bộ, công chức cấp xã phải có tác động điều chỉnh các hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng, làm cho các hoạt động này có tác động tích cực, góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, từ tuyển chọn, nhận xét, đánh giá
cán bộ đến quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, bổ
nhiệm, miễn nhiệm và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ. Trong các
khâu đó công tác đào tạo, bồi dưỡng là một thể thống nhất, có quan hệ mật
thiết, chặt chẽ với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau vì thực hiện tốt khâu này
sẽ là tiền đề và cơ sở để thực hiện tốt các khâu khác. Trong các khâu trên có
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, mỗi khâu có vai trò, vị trí
quan trọng khác nhau, nên không tuyệt đối hóa hay coi nhẹ bất cứ khâu nào.
Đề án đề cập đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
là việc tạo điều kiện cho những cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng được về
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm, còn thiếu các văn bằng
chứng chỉ theo quy định. Cán bộ trong diện quy hoạch các chức danh cán bộ
chủ chốt cấp xã; giữ các chức danh chủ chốt nhằm đào tạo, bồi dưỡng năng
lực quản lý, lãnh đạo toàn diện, rèn luyện kỹ năng cần thiết trong lãnh đạo,
chỉ đạo thực tiễn ở cơ sở, giúp cho cán bộ có thêm kiến thức thực tế và phát
triển nhanh, toàn diện hơn.
Nội dung của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã được

xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích
cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng
và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức; hướng tới mục tiêu tạo được sự
thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nhấn mạnh: "Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm nhằm


10

trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công
việc được giao".
1.1.2. Chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã
1.1.2.1. Chất lượng và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Chất lượng” được dùng theo 2 nghĩa: 1. Cái tạo nên
phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc (đánh giá chất lượng sản
phẩm. Nâng cao chất lượng giảng dạy). 2. (chuẩn mực, id) như chất (ng.3) 1.
“Chất lượng” ở đây được dùng theo nghĩa thứ nhất, chứ không phải là “chất”
theo nghĩa triết học: là tổng thể nói chung những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật;
cái làm cho sự vật này phân biệt với sự vật khác; phân biệt với “lượng”.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là cái tạo nên giá trị của công tác đào tạo, bồi
dưỡng. Vì vậy, Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng: là tổng hợp chất lượng của các
yếu tố cấu thành, là mức độ đạt được so với mục đích, yêu cầu đề ra và biểu hiện
tập trung nhất ở đối tượng sau tác động của công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã: là tổng
hợp chất lượng của các yếu tố cấu thành, là mức độ đạt được so với mục đích,
yêu cầu đề ra và biểu hiện tập trung nhất ở chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã sau tác động của công tác đào tạo, bồi dưỡng.

1.1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
Chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng được thể hiện qua các tiêu chí
như: chất lượng chương trình giảng dạy và mức độ phù hợp giữa chương trình
giảng dạy đó với năng lực cần có của đội ngũ giảng viên; chất lượng giáo
trình và mức độ phù hợp với chương trình giảng dạy, đáp ứng yêu cầu năng
lực của đội ngũ cán bộ cấp xã và có tính thực tiễn cao, phản ánh đầy đủ các
nội dung lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
1

Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1998, tr.144.


11

và quan điểm của Đảng, Nhà nước; chất lượng của phương pháp giảng dạy
thể hiện ở việc vận dụng linh hoạt và đa dạng các phương pháp giảng dạy
khác nhau; chất lượng của việc tổ chức các hệ lớp đào tạo cũng như chất
lượng cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập.
1.1.2.3. Yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhìn bề ngoài có thể là đơn giản,
nhưng khi đi sâu nghiên cứu, phân tích khá phức tạp. Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: lịch sử, chính trị, kinh tế, văn
hoá, con người, phương tiện, điều kiện học tập, nghiên cứu…Việc đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong quá
trình cải cách hành chính và đổi mới phương thức quản lý hiện đại không chỉ
đơn thuần là vấn đề chi tiết hoá nội dung và cơ cấu khoá học cũng như việc
xây dựng các kế hoạch riêng lẻ cho các nhóm đối tượng. Nó liên quan tới
chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trước mắt và lâu dài,
cụ thể và trực tiếp chịu tác động bởi các yếu tố sau:

Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, lãnh đạo quản lý; đội ngũ cán bộ,
giảng viên và học viên.
Nhận thức đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của con
người. Nhận thức giúp các cá nhân và cộng đồng định hướng cho hành vi của
mình. Mặt khác, nhận thức cũng giúp con người điều chỉnh hành vi bản thân
trong quá trình hoạt động thực tiễn, để đạt được các mục tiêu đã định hoặc để
các hành vi đó phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của
người đứng đầu địa phương, cơ sở, người đào tạo, bồi dưỡng và người được
đào tạo, bồi dưỡng. Lãnh đạo, quản lý, giảng viên, học viên có nhận thức
đúng tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã, mới có sự quan tâm đúng mức, có tinh thần,


12

thái độ giảng dạy, học tập nghiêm túc. Ngược lại, nếu nhận thức của đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên và học viên chưa đúng, chưa thấy được
tính cấp thiết, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã, chắc chắn chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã sẽ thấp,
dẫn đến hoạt động của chính quyền cơ sở kém hiệu quả.
Thứ hai, nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng phải gắn
với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức cấp xã.
Nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã thiết thực, phù hợp với từng đối tượng và loại hình đào tạo. Nội
dung đào tạo, bồi dưỡng trang bị được cả kiến thức và yêu cầu về phẩm chất
đạo đức, cả lý luận và thực tiễn, cả kiến thức cơ bản và kỹ năng thực hành,
phương pháp dạy đổi mới, khoa học sẽ tác động tích cực đến chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Thứ ba, môi trường xã hội và cụ thể hơn là môi trường làm việc, điều

kiện cơ sở vật chất có tác động tích cực hoặc hạn chế tới đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Môi trường tốt và điều kiện cơ sở vật chất tốt là điều kiện
thuận lợi cho đào tạo, bồi dưỡng và ngược lại.
- Thứ tư, trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, giảng
viên là yếu tố rất quan trọng, làm nhiệm vụ cầu nối truyền tải kiến thức tới
người học, hướng dẫn phương pháp, nội dung kiến thức, giúp cho người học
dễ hiểu biết, rút ngắn được thời gian nhận thức. Có được đội ngũ giảng viên
có trình độ cao, phẩm chất và năng lực tốt là một yếu tố tích cực tác động tốt
tới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Thứ năm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức được cụ thể hoá trong các nghị quyết, quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; trong chính sách về tiền
lương (có yếu tố trả lương theo bằng cấp đào tạo), chế độ bổ nhiệm, khen


13

thưởng, kỷ luật… Từ chính sách, thể chế tác động đến cán bộ, công chức cấp
xã, buộc họ phải suy nghĩ, học tập, phấn đấu tốt hơn.
Thứ sáu, nhu cầu tự hoàn thiện bản thân, năng lực của cán bộ, công
chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng, luôn có nhu cầu hoàn
thiện bản thân mình, mong muốn và cố gắng nhận thức thế giới được nhiều
hơn, tạo cho mình các năng lực, kỹ năng làm việc và sử dụng nó một cách tốt
hơn, có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, nhằm thỏa mãn
những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Bên cạnh đó, các yếu tố về nhân cách và uy tín của giảng viên, uy tín
của nhà trường cũng ảnh hưởng, tác động đến chất lượng, hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị

Cơ sở chính trị của đề án là chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trong
thời gian qua, đặc biệt là từ Đại hội IX đến nay; các quan điểm này được thể
chế hóa thành chính sách của Nhà nước.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng
định: Nhiệm vụ hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi
trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi
tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và
kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức
theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán
bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái
hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng,
đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.


14

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn (Hội
nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa IX) xác định: Nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực
tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy
sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với
cán bộ cơ sở. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng xác định: thực hiện các
giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức; cơ cấu lại độ ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo
yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Văn kiện

Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII tiếp tục xác định: Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức; đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm,
thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình
độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Tiếp
tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng
cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn nhiệm kỳ 2015 2020 xác định: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, nâng
cao chất lượng và từng bước chuẩn hóa cán bộ theo quy định của Trung ương.
Thực hiện công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ lâu dài của tỉnh, chú trọng
cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng phát


15

triển. Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
đảm bảo tiêu chuẩn chức danh theo quy định.
Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Chi Lăng nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác
định: Thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đánh giá
quy hoạch cán bộ, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện công
tác luân chuyển cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính kế thừa và phát triển.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức xã, thị trấn
đạt chuẩn theo quy định, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
1.2.2. Cơ sở pháp lý

- Luật cán bộ, công chức (2008).
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào
tạo, bồi dưỡng công chức.
- Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Bộ Tài
chính Quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2011 của Chính phủ về
công chức xã, phường, thị trấn.
- Hướng dẫn số 2788/HD-BNV ngày 29/7/2011 của Bộ Nội vụ về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã giai đoạn 2011 - 2015 thực hiện Quyết định
số 1956/QĐ-TTg.
- Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã,
phường, thị trấn.


16

- Chính phủ nước CHXHCNVN: Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày
08 tháng 4 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Nghị quyết số 37-NQ/TU ngày 13/02/2012 của Tỉnh ủy Lạng Sơn về
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2015 và
những năm tiếp theo.
- Kế hoạch số 34-KH/HU ngày 23/8/2012 của Huyện ủy Chi Lăng về

thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TU ngày 13/02/2012 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm
2015 và những năm tiếp theo.
- Nghị quyết số 111/2013/NQ-HĐND ngày 31/7/2013 của Hội đồng
nhân dân tỉnh Lạng Sơn về chế độ hỗ trợ, khuyến khích đối với cán bộ, công
chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu hút người có
trình độ chuyên môn cao về công tác tại tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số 23/2013/QĐ-UBND ngày 10/10/2013 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Lạng Sơn ban hành quy định về chế độ hỗ trợ, khuyến khích đối với
cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu
hút người có trình độ chuyên môn cao về công tác tại tỉnh Lạng Sơn.
- Kế hoạch số 85/KH-UBND ngày 09/8/2012 của Ủy ban nhân dân
huyện Chi Lăng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các xã, thị trấn đến
năm 2015 và những năm tiếp theo.
- Kết luận số 207 - KL/TU, ngày 06/8/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Lạng Sơn về thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TU ngày 13/02/2012 của
Tỉnh ủy Lạng Sơn về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
đến năm 2015 và những năm tiếp theo.


17

1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Tình hình chung của cả nước
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
các cấp nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
nói riêng đã có chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả quan
trọng. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan, đơn vị, địa
phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
năng động và sáng tạo; tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước. Trình độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn
của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, thích nghi với cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội
ngũ cán bộ, công chức có đóng góp quan trọng trong việc đạt được những
thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước ta gia nhập các nước
đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, bảo đảm vững chắc an ninh,
quốc phòng.
Báo cáo số 2880/BC-BNV, ngày 30/7/2014 của Bộ Nội vụ về kết quả 3
năm thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
giai đoạn 2011-2015 cho thấy, đối với cán bộ, công chức cấp xã và những
người hoạt động không chuyên trách: Đào tạo trình độ chuyên môn cho cán
bộ cấp xã đáp ứng theo tiêu chuẩn quy định đạt gần 75%; đào tạo trình độ
trung cấp chuyên môn trở lên cho 95% công chức cấp xã vùng đô thị, vùng
đồng bằng và 87% công chức cấp xã vùng miền núi; 60% cán bộ cấp xã được
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công
việc; 70% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu
hằng năm; 50% những người hoạt động không chuyên trách cấp xã được bồi
dưỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Đã tiến hành bồi dưỡng cho
gần 286.000 lượt đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.


18

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số cán bộ, công chức, nhất là ở
các địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Một số cấp ủy,
chính quyền địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; vì vậy, một số chỉ
tiêu theo kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo quy định đạt
thấp. Cán bộ, công chức chủ yếu vừa học, vừa làm, còn để công việc chi

phối quá trình học tập. Có tình trạng cán bộ, công chức không muốn đi học;
vì đi học có thể bị sắp xếp, điều chuyển vị trí công tác khác, không “hấp
dẫn” bằng vị trí hiện tại. Cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người dân tộc, vùng
sâu, vùng xa, cán bộ có tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ngại đi học vì
phải đi tập trung, không phụ giúp được cho gia đình. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng mặc dù đã có những đổi mới, nhưng vẫn còn tình trạng chạy theo số
lượng, chưa cử đúng đối tượng đào tạo, học chưa đúng chuyên ngành cần
đào tạo, bồi dưỡng; vì thế, chưa đáp ứng được nhu cầu công việc của cơ
quan, tổ chức. Việc đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ với sử dụng, nhiều
trường hợp được cử đi đào tạo, nhưng không bố trí công việc theo chuyên
ngành đào tạo sau khi tốt nghiệp. Nội dung và chất lượng đào tạo chưa cao,
chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng chưa thật phù hợp với từng đối
tượng cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhìn chung vẫn còn nặng về lý
thuyết, tính ứng dụng không cao, chưa chú trọng tính đặc thù riêng biệt của
từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức. Nội dung và thời lượng khung
cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên tục thay đổi và cải cách,
nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của từng
ngành, từng địa phương, chưa đáp ứng yêu cầu từng vị trí việc làm của cán
bộ, công chức. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chưa
được thực hiện đồng bộ, mới chỉ đào tạo về lý luận chính trị và chuyên
môn nghiệp vụ, chưa chú ý bồi dưỡng về kỹ năng quản lý điều hành, tổ
chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn. Thêm vào


19

đó, chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng tuy đã được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hơn so với trước, song
còn thấp và chưa phù hợp.
1.3.2. Đối với huyện Chi Lăng và tỉnh Lạng Sơn

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói chung và huyện Chi Lăng nói
riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao trình độ, năng
lực cho đội ngũ cán bộ, công chức. Việc bố trí cán bộ, công chức tham gia
các lớp đào tạo bồi dưỡng được quan tâm theo hướng thực hiện đúng đối
tượng và nội dung đào tạo, đồng thời gắn với quy hoạch sử dụng cán bộ.
Qua đó, chất lượng cán bộ, công chức cơ sở đã từng bước được củng cố, số
cán bộ, công chức chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng trở về công tác, đã
phát huy được năng lực nghiệp vụ, tham mưu cho cấp uỷ đảng, chính
quyền cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, việc chuẩn hóa cán bộ, công chức cấp xã về trình độ lý
luận, chuyên môn, kỹ năng, năng lực hoạt động có mặt còn hạn chế. Phần
lớn cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng thông qua hình thức
đào tạo tại chức, vừa học vừa làm và các lớp bồi dưỡng tập trung ngắn hạn,
khi học xong các chương trình đào tạo hoặc bồi dưỡng, nắm được những
vấn đề cơ bản về lý luận, nhưng việc áp dụng những kiến thức vào giải
quyết những công việc cụ thể còn nhiều hạn chế.
Vì vậy cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
2. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Chi Lăng là huyện miền núi nằm ở phía Nam tỉnh Lạng Sơn, cách
Thành phố Lạng Sơn hơn 30 km. Phía Bắc giáp huyện Văn Quan và Cao Lộc;


20

phía Tây giáp với huyện Hữu Lũng; phía Đông giáp với huyện Lộc Bình; phía
Nam giáp với huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Huyện có diện tích tự nhiên
hơn 703 km2, địa hình chủ yếu là đồi núi. Huyện có 19 xã và 02 thị trấn, trong

đó có 03 xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (vùng 135); d ân số trên
78 nghìn người, đại bộ phận dân cư là người dân tộc Tày, Nùng sống tập trung
ở các xã, thị trấn. Người Chi Lăng luôn phát huy tinh thần đoàn kết, truyền
thống lịch sử quê hương Chi Lăng anh hùng; chủ động, tích cực, cần cù, sáng
tạo vượt khó trong lao động sản xuất.
Vị trí địa lý và con người Chi Lăng đã tạo nên những nét đặc trưng về
kinh tế, xã hội của Chi Lăng. Cụ thể:
Trong những năm qua, tình hình kinh tế, xã hội của huyện tiếp tục
phát triển, duy trì tăng trưởng kinh tế khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng, nông lâm nghiệp phát triển ổn định; thương mại, dịch vụ có nhiều
chuyển biến tích cực, công nghiệp - xây dựng tiếp tục tăng trưởng khá; kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; thu ngân sách vượt kế hoạch
đề ra. Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, an sinh xã hội được
đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ổn định, ngày càng
được cải thiện. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Chi Lăng lần thứ XXII,
nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra với chủ đề: “Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp,
chủ động, sáng tạo, phấn đấu xây dựng huyện Chi Lăng ngày càng phát
triển”. Trong giai đoạn 2015 - 2020, huyện phấn đấu đạt 18 chỉ tiêu sau:
(1). Phấn đấu giá trị sản xuất bình quân tăng hàng năm từ 13 - 15%, trong
đó: Nông lâm nghiệp - thuỷ sản 10 - 12%, công nghiệp - xây dựng 15 - 17
%, thương mại - dịch vụ 16 - 18%; (2). Cơ cấu kinh tế các ngành: Nông
lâm nghiệp - Thuỷ sản chiếm 30%, Công nghiệp - xây dựng 38%, thương
mại - dịch vụ 32%; (3). GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt từ 45 -


21

50 triệu đồng/người/năm; (4). Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt
34.600 tấn trở lên; (5). Trồng rừng mới là 1.000 ha/năm; tỷ lệ che phủ rừng

đến năm 2020 đạt 51%; (6). Số xã đạt chuẩn nông thôn mới 8 xã; (7). Tỷ lệ
cứng hoá đường ô tô đến trung tâm xã đến năm 2020 đạt 100%; (8). Hàng
năm tăng thu ngân sách so với dự toán thu từ 9% trở lên; (9). Tổng vốn đầu
tư xã hội giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 10 - 11 nghìn tỷ đồng; (10). Giảm
tỷ lệ hộ nghèo từ 1 - 1,2%/năm trở lên; (11). Số xã, thị trấn đạt bộ tiêu chí
quốc gia về y tế 13 xã, thị trấn; phấn đấu có 7 bác sĩ và 29 giường bệnh
trên 1 vạn dân; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 90%; (12). Phấn
đấu có thêm 10 trường học đạt chuẩn quốc gia; (13). Tỷ lệ lao động qua
đào tạo đến năm 2020 là 52%; (14). Tỷ lệ thôn, khu phố có nhà văn hóa đạt
99%; (15). Tỷ lệ số hộ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch 99,9%, tỷ
lệ số hộ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 95%; (16). Tỷ lệ
chất thải nguy hại được xử lý đạt 95%; (17). Giảm tỷ lệ tai nạn giao thông
cả 3 tiêu chí; (18). Kết nạp mỗi năm 150 đảng viên trở lên; tỷ lệ tổ chức cơ
sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh đến cuối kỳ 65%. Tỷ lệ đảng viên hoàn
thành tốt nhiệm vụ đến cuối kỳ đạt 80% trở lên. Tỷ lệ đảng viên là cán bộ
lãnh đạo quản lý các cấp hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ đến cuối kỳ
đạt 95% trở lên.
Để đạt được các mục tiêu nhiệm kỳ đề ra, huyện Chi Lăng đã triển
khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng công tác cán bộ,
đảm bảo dân chủ, công khai, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, đúng quy trình,
trong đó có giải pháp hàng đầu là tăng cường hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở cơ sở, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã đủ phẩm chất, năng lực thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội tại địa phương.


22

Các yếu tố tác động đến việc xây dựng và thực hiện đề án bao gồm:

Nhận thức của đội ngũ cán bộ, giảng viên và học viên.
Nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với
yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của công tác tổ chức.
Nhân cách và uy tín của giảng viên, uy tín của nhà trường cũng ảnh
hưởng, tác động đến chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nghiệp vụ tổ chức.
Quản lý tốt học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng sẽ tác động tích
cực đến hoạt động thực tiễn của cán bộ làm nghiệp vụ tổ chức sau khi ra trường.
2.2. Thực trạng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
2.2.1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
2.2.1.1. Tình hình chung về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
Đến nay, theo số liệu thống kê (tính đến tháng 12/2015) tổng số cán
bộ, công chức cấp xã toàn huyện là 421 người. Trong đó: cán bộ xã 208
người; công chức xã 213 người.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Chi Lăng
phần lớn là những người có kinh nghiệm công tác, am hiểu tình hình thực
tế của địa phương, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong cộng đồng dân
cư và được nhân dân lựa chọn; có tinh thần đoàn kết, trách nhiệm và tâm
huyết với công việc của địa phương.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng
Sơn đã được cấp uỷ, chính quyền các cấp trong huyện quan tâm củng cố về
mặt tổ chức, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng


×