Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.15 KB, 38 trang )

Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
Khoa: Công nghệ thông tin
Môn: Một số vấn đề về Công nghệ Thông tin

Quyền sở hữu trí tuệ

GVHD: TS.Trần Doãn Vinh
SVTH: Nhóm 4
Đặng Thị Tú Loan
Phạm Minh Đức
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Phạm Văn Hinh
Dương Thị phương Mai Chi
Nguyễn Thị Xuyên

1


Lời nói đầu
Trong thời đại phát triển của nền kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
vấn đề SHTT và bảo hộ quyền SHTT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
chung của nhân loại.Nó đã trở thành một vấn đề kinh tế và pháp lý trọng tâm trong nội bố
của nhiều nước, cũng như trong các thương lượng, tranh chấp quốc tế.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, việc sao chép,
quảng bá nội dung thông tin dưới các dạng thức như văn bản, hình ảnh, âm thanh… ngày
càng trở nên dễ dàng, tồn tại sự vi phạm lớn đối với lĩnh vực phần mềm hay bản quyền
trong văn học nghệ thuật. Để giải quyết được vấn đề một cách thấu đáo thì rất cần sự hợp
tác liên ngành của nhiều lĩnh vực với công nghệ thông tin và bản thân người làm công nghệ
thông tin cũng cần phải cập nhật tri thức của nhiều lĩnh vực khác.Chúng ta cần có một tiếng
nói thống nhất giữa các chuyên gia về công nghệ thông tin và sở hữu trí tuệ. Việc thúc đẩy
sự phát triển văn hóa, tăng cường sức sáng tạo và phát triển kinh tế là những mục tiêu


chung.
Tất cả chúng ta đều muốn sống trong những xã hội tôn vinh và thúc đẩy những giá trị
này. Vì vậy,trong khi bàn luận về sở hữu trí tuệ ngày nay, chúng ta cần nhớ tới vai trò của
việc bảo hộ sở hữu trí tuệ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nhờ có sự hướng dẫn tận tình của thầy Trần Doãn Vinh. Nhóm chúng em hiểu được tầm
quan trọng và vai trò của SHTT trong xu hướng toàn cầu hóa,kinh tế hóa thời đại ngày nay.
Do trong quá trình tìm hiểu mặc dù cả nhóm đã cố gắng hết sức nhưng vẫn còn nhiều thiếu
sót. Mong thầy nhận xét để bài tập lớn của chúng em được hoàn thành tốt hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!

2


MỤC LỤC
4. Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ....................................................................................................................6
5. Các loại hình sở hữu trí tuệ............................................................................................................................7
Một số điều cần biết khi đăng ký....................................................................................................................12

Luật quyền sở hữu trí tuệ.....................................................................................................................13
Quyền sở hữu trí tuệ.......................................................................................................................................13
Quyền tác giả:..................................................................................................................................................13
Quyền liên quan đến quyền tác giả:...............................................................................................................14
Quyền sở hữu công nghiệp:............................................................................................................................14
Quyền đối với giống cây trồng:.......................................................................................................................14

II.1 Quy định chung của pháp luật Việt Nam về quyền SHTT.......................................................15
1.Quyền tự bảo vệ...........................................................................................................................................15
2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ..........................................................................15
3. Giám định về sở hữu trí tuệ........................................................................................................................15
4. Các biện pháp dân sự..................................................................................................................................16

5. Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ............................................................16
6. Bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ................................................................................................................16
7. Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu..................................................................................................................17

II.2 Quyền SHTT trong Công Nghệ Thông Tin................................................................................17
II.2 Luật quốc tế.....................................................................................................................................18
Trung tâm trọng tài và hòa giải của WIPO......................................................................................................20
Quy định WTO về sở hữu trí tuệ..................................................................................................................20

III. Thực trạng sử dụng quyền sở hữu trí tuệ...................................................................................21
b, Nguyên nhân............................................................................................................................................23
b.Các hình thức xâm phạm phần mềm........................................................................................................25
c.Hậu quả của việc xâm phạm phần mềm...................................................................................................29

3


I. Giới thiệu chung về sở hữu trí tuệ
1. Thế nào là SHTT (IP - Intellectual Property)?
Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ – những kết quả từ hoạt động tư
duy, sáng tạo của con người. Đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi vật chất nhưng
có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại. Đó là các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, các công trình khoa học kỹ thuật ứng dụng cũng như các tên gọi, hình ảnh được sử
dụng trong các hoạt động thương mại.
Vì SHTT là kết quả từ hoạt động tư duy sáng tạo của con người nên nó là cái vô hình
nhưng lại trở nên có giá trị dưới dạng sản phẩm hữu hình. Chính vì giá trị có thực của các
đối tượng sở hữu trí tuệ như một tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp mà nó được gọi là “tài sản”, Tuy nhiên quyền hợp pháp với các đối tượng này không
tự động phát sinh mà quyền chỉ được lập theo những thủ tục xác định.

Việc bảo hộ pháp lý tài sản vô hình thông qua SHTT mang lại cho chủ sở hữu độc quyền
sử dụng tài sản đó trong kinh doanh, biến tài sản vô hình thành quyền sở hữu độc quyền
trong một khoảng thời gian nhất định, đây là một trong những lợi ích thiết thực dễ thấy của
sở hữu trí tuệ. Điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh rõ rệt khi cạnh tranh với các đối thủ trên thị
trường.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu tất yếu để thúc đẩy nghiên cứu , sáng tạo , thúc đẩy
phát triển khoa học – công nghệ. Để nghiên cứu ra những công trình khoa học , những sản
phẩm trí tuệ, đòi hỏi các cá nhân, công ty, tổ chức phải bỏ ra không ít công sức và tiền bạc,
thời gian, tiêu tốn cả trí lực và nghị lưc lẫn kinh tế. Chẳng lẽ những kẻ không tạo ra nó lại dễ
dàng được sử dụng thành quả đó để rồi cạnh tranh với chính người tạo ra thành quả đó, thậm
trí tận dụng lợi thế sẵn có để đánh bại người tạo ra thành quả trí tuệ kia; để rồi người tạo ra
4


sản phẩm trí tuệ cùng lắm chỉ được tôn vinh nhưng thật không đủ để bù đắp những tổn thất
bỏ ra khi nghiên cứu. Nếu điều tồi tệ này cứ tự nhiên xảy ra thì chẳng còn động lực để
nghiên cứu, sáng tạo; sẽ không còn ai muốn và đủ sức nghiên cứu, thậm trí có khi người ta
đã nghiên cứu ra nhưng giữ kín không công bố vì sợ bị thiệt thòi. Bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ đem đến sự công bằng cần có.
Không những thế, bản chất của những sản phẩm mang tính sáng tạo là khả năng tạo ra lợi
nhuận cao. Do đó, quản lý tốt vấn đề SHTT có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng doanh thu,
lợi nhuận cũng như các chỉ số tăng trưởng hàng năm của doanh nghiệp. Đối với những
doanh nghiệp đang tìm cách tăng vốn, quản lý SHTT có thể là 1 công cụ hữu ích, bởi nó làm
tăng niềm tin của các nhà đầu tư cũng như các nhà phân tích.
Tóm lại, bảo hộ sở hữu trí tuệ khiến tài sản vô hình trở nên ’hữu hình hơn một chút’ bằng
cách biến chúng thành những tài sản độc quyền

2. Tại sao phải thực thi quyền sở hữu trí tuệ?
Mục đích chính của viêc có được sự bảo hộ sở hữu trí tuệ là giúp công ty của bạn thu
được thành quả từ những sáng chế và sáng tạo của những người lao động trong công ty.

Quyền sở hữu trí tuệ thuộc công ty bạn chỉ có thể mang lại lợi nhuận khi chúng được thực
thi có hiệu quả để hưởng lợi từ thành quả mà bạn vất vả mới có được. Thông thường nguy
cơ của thực thi là sự ngăn ngừa đầy đủ đối với những kẻ xâm phạm quyền tiềm năng.
Tóm lại, đối với công ty của bạn việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết nhằm:
 Duy trì hiệu lực pháp lý quyền sở hữu trí tuệ của mình trước cơ quan công quyền có liên
quan
 Ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền xảy ra hoặc tiếp diễn trên thị trường ,như vậy sẽ
tránh được thiệt hại như mất uy tín đối với khách hàng .
 Đòi bồi thường cho những thiệt hại thực tế ,ví dụ lợi nhuận bị giảm do hành vi xâm phạm
quyền bất kỳ trên thị trường.
Ai có trách nhiệm thực thi quyền sở hữu trí tuệ?
Gánh nặng thực thi quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu đè lên vai chủ sở hữu quyền .Do vậy,việc
thực thi phụ thuộc vào bạn ,với tư cách là chủ sở quyền sở hữu trí tuệ ,trong việc xác định
hành vi xâm phạm hoặc làm giả quyền sở hữu trí tuệ bất kỳ và áp dụng biện pháp nào.
Tuy nhiên,đó cũng là trách nhiệm của quốc gia hoặc chính phủ trong việc thành lập các cơ
quan hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ .Trong một số trường hợp,các cơ quan tư pháp và
hành chính như các cơ quan sở hữu trí tuệ hoặc cơ quan hải quan là các cơ quan thuộc chính
phủ có trách nhiệm giải quyết các hành vi xâm phạm quyền ,như các vụ làm giả nhãn hiệu
hoặc hàng xâm phạm bản quyền.
5


Khi các biện pháp kiểm soát được áp dụng tại các biên giới quốc tế của nước bạn nhằm
ngăn chặn việc nhập khẩu hàng giả nhãn hiệu hoặc quyền xâm phạm quyền tác giả ,các cơ
quan hải quan luôn giữ vai trò chính trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ .Theo quy định
của pháp luật hiện hành ,các cơ quan hải quan có thể hành động một cách chủ động hoặc
theo yêu cầu của chủ thể quyền ,hoặc thực thi lệnh của tòa án.
Hơn thế nữa,ở một số quốc gia,các hiệp hội nghề nghiệp cũng hỗ trợ các thành viên của
mình trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
3. Cách thức khác nhau để bảo hộ quyền SHTT

Tùy thuộc vào bản chất của tài sản vô hình của bạn, luật pháp có những công cụ pháp lý
khác nhau giúp bạn bảo vệ tài sản của mình.
-

Các sản phẩm và quy trình sáng tạo có thể được bảo hộ theo sáng chế và giải pháp
hữu ích ;

-

Các kiểu dáng sáng tạo, gồm cả kiểu dáng dệt may, được bảo hộ theo kiểu dáng công
nghiệp;

-

Thương hiệu được bảo hộ theo nhãn hiệu

-

Mạch bán dẫn được bảo hộ theo thiết kế bố trí hoặc mạch tích hợp bán dẫn ;

-

Chỉ dẫn hàng hóa có chất lượng hay danh tiếng nhất định gắn với xuất xứ địa lý được
bảo hộ theo chit dẫn địa lý ;

-

Bí mật thương mại bảo hộ thông tin bí mật có giá trị thương mại ;

-


Ở hầu hết các nước, tác phẩm văn hóa, nghệ thuật và văn học, kể cả phần mềm máy
tính và sưu tập dữ liệu, được bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.

Một sản phẩm duy nhất có thể được bảo hộ bởi nhiều loại quyền sở hữu trí tuệ khác nhau.
Chính vì vậy, điều quan trọng đối với doanh nghiệp là phải hiểu về hệ thống này và lựa
chọn cách thức bảo hộ các quyền một cách có hiệu quả nhất để tránh các đối thủ cạnh tranh
sao chép và bắt chước.
Ngoài ra, hệ thống quyền sở hữu trí tuệ đang phát triển theo hướng cùng một sản phẩm có
thể được bảo hộ theo các quyền sở hữu trí tuệ khác nhau. Do đó, chúng ta cần xây dựng một
sở hữu trí tuệ hoàn chỉnh cho sản phẩm của chính mình.
4. Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ

6


Quyền sở hữu trí tuệ đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình hình thành
một nền kinh tế toàn diện phát triển và bền vững. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và
công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời sống xã hội
ngày càng khẳng định điều đó. Tuy nhiên, tài sản tri thức là tài sản vô hình và cũng mặc định
như tài sản hữu hình. Vì vậy, sự hình thành, chuyển dịch và chấm dứt, cũng như bảo hộ các
quyền phát sinh từ tài sản vô hình có những điểm khác biệt so với tài sản hữu hình. Do đó,
hầu hết các nước trên thế giới đều ban hành những quy định pháp luật riêng biệt để điều
chỉnh các quan hệ liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển nền kinh tế, văn hóa
và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia, cần phải tiếp tục
nâng cao nhận thức cho người dân, các tổ chức và cá nhân có liên quan, nhằm đưa Luật Sở
hữu trí tuệ vào cuộc sống là điều cần thiết .
Quyền sở hữu trí tuệ đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình hình thành
một nền kinh tế, xã hội toàn diện và phát triển bền vững. Chứng chỉ về quyền sở hữu trí tuệ

là vật chứng bảo đảm cho thành công của mỗi tổ chức, cá nhân khi tiến vào thị trường thế
giới.
Quyền sở hữu trí tuệ giúp:
-

Tạo động lực cho các nỗ lực sáng tạo trí tuệ khác nhau;

-

Dành sự thừa nhận chính thức đối với các nhà sáng tạo;

-

Tạo ra nguồn thông tin quan trọng;

-

Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền công nghiệp và văn hóa nội địa cũng
như thương mại quốc tế.

5. Các loại hình sở hữu trí tuệ
5.1. Bản Quyền
7


Bản quyền là quyền tác giả ( tổ chức, cá nhân) đối với các tác phẩm mà họ sáng tạo ra
hoặc sở hữu, nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của tác giả. Tác phẩm ở đây bao gồm các tác
phẩm văn học, báo chí,các chương trình máy tính,… Quyền tác giả phát sinh từ thời điểm
tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Đó là quyền được phép sử dụng phần mềm đó một cách hợp pháp. Việc sử dụng phần

mềm không có bản quyền hợp pháp nào cũng được xem như sao chép phần mềm trái phép.
Bảo vệ bản quyền giúp cho chủ bản quyền có quyền kiểm soát nhất định đối với tác phẩm
của mình trong sản xuất, sử dụng , chào bán, hay xuất khẩu,… Trong đó quan trọng nhất là
quyền kiểm soát việc sao chép, điều chỉnh và truyền tải nội dung. Bản chất độc quyền của
bản quyền là chỉ chủ bản quyền mới có thể quyết định ai tham gia vào những hoạt động liên
quan đến nội dung của họ hay mới có quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên việc sở hữu
bản quyền cũng có giới hạn.
Bản quyền được bảo vệ lâu hơn một số hình thức sử hữu trí tuệ khác.
Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc gia để quản lí hệ thống bản quyền. Bản
quyền mang tính chất quốc gia, khu vực, thế giới. Nghĩa là có trường hợp tác phẩm của bạn
được cấp bản quyền ở nơi này nhưng không được cấp bản quyền ở nơi khác, hay có nơi
được coi là cấp bản quyền tính từ thời điểm đăng ký nhưng có nơi lại tính từ thời điểm sử
dụng.
Bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới; nếu ý tưởng hay quy trình được bảo
hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế.
5.2. Bằng sáng chế
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một
vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Nếu giải pháp đó không phải là hiểu biết thông thường,có tính mới và khả năng áp dụng
công nghiệp thì theo Điều 4.12, Điều 58 Luật SHTT , giải pháp đó được cấp Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích. Nếu nó có thêm trình độ sáng tạo thì nó được cấp Bằng độc quyền sáng
chế.
Sáng chế, giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật và giải pháp đó được công nhận là có
tính mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới khi: Thứ nhất, giải pháp kỹ thuật không trùng
với giải pháp kỹ thuật đã được mô tả và đã nộp cho cơ quan cấp bằng độc quyền về sáng chế
hoặc giải pháp hữu ích trước đó. Thứ hai, trước đó giải pháp kỹ thuật này chưa bộc lộ công
khai ở trong hay ngoài nước dưới hình thức sử dụng hay mô tả trong bất kỳ nguồn thông tin
nào mà căn cứ vào đó người có trình độ trung bình có thể thực hiện giải pháp kỹ thuật đó.
Giải pháp kỹ thuật được công nhận có trình độ sáng tạo nếu giải pháp đó là bước tiến sáng
tạo và cho đến ngày ưu tiên của đơn so với trình độ kỹ thuật của trong và ngoài nước, giải

pháp đó không thể tạo ra một cách dễ dàng đối với người có trình độ trung bình về lĩnh vực
kỹ thuật tương ứng.

8


Giải pháp kỹ thuật được công nhận có khả năng áp dụng nếu căn cứ vào bản chất của giải
pháp kỹ thuật được mô tả trong sáng chế, giải pháp hữu ích, có thể thực hiện được giải pháp
đó trong việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm, hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là
nội dung của sáng chế và đạt được kết quả ổn định (Điều 60, Điều 61, Điều 62 Luật SHTT).
Khi được cấp Bằng sáng chế, người phát minh được toàn quyền ngăn chặn người khác
không được áp dụng, sử dụng và bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một
khoảng thời gian nhất định - hầu hết các nước quy định là 20 năm - để đổi lại việc nhà phát
minh phải công bố chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
Việc cấp bằng sáng chế là cần thiết để bảo vệ quyền lợi kinh tế,vị thế của người (tổ chức)
đã đầu tư cả tiền bạc và trí lực để phát minh ra sản phẩm. Có như vậy mới thúc đẩy sự
nghiên cứu , công bố những phát minh, thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển. Việc xin cấp
bằng sáng chế phải được trình bày một cách cụ thể và cẩn thận, do các chuyên gia xem xét.
Hiện nay, nhiều tập đoàn công nghiệp quốc tế đã xúc tiến việc đăng ký các sáng chế liên
quan đến PM của họ tại Việt Nam. Trên con đường hội nhập, có thể nói các sáng chế mới
thực sự là hệ xương sống của ngành công nghiệp PM
5.3. Bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được
bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh; mang lại giá trị và lợi ích kinh tế cho
doanh nghiệp trong cạnh tranh.
Bí mật kinh doanh có thể là các số liệu, dữ liệu, các chương trình, kế hoạch của công ty về
xản xuất sản phẩm, về thị trường mục tiêu,…các bí quyết kinh doanh, quy trình công
nghệ,thiết kế,… chúng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
5.3.1 Những thông tin được coi là bí mật kinh doanh khi đáp ứng các điều kiện sau
1. Không phải là hiểu biết thông thường.

2. Có khả năng áp dụng trong kinh doanh, và khi được sử dụng sẽ tạo lợi thế hơn so với
người không nắm giữ hay sử dụng nó.
3. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để không bị tiết lộ và không dễ
dàng tiếp cận được.
5.3.2 Thực hiện bí mật kinh doanh :
Áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hoá;
Bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí
mật kinh doanh .
5.3.3 Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh
Các thông tin bí mật không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh:
9


1. Bí mật về nhân thân;
2. Bí mật về quản lý nhà nước;
3. Bí mật về quốc phòng, an ninh;
4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.
Bí mật kinh doanh được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí
mật kinh doanh dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại thì phải trả tiền.
5.3.4 Bí mật kinh doanh thường bị đánh cắp do :
1. Các nhà thầu, công nhân thời vụ => khó quản lí.
2. Nhân viên không trung thành , thường thay đổi công ty, nghề nghiệp => họ sẽ mang
những thông tin, công nghệ có giá trị vận dụng ở nơi làm việc mới thường là các đối thủ
cạnh tranh của công ty cũ.
3. Các đối tượng ăn cắp, tội phạm chuyên nghiệp.
4. Bị mất các thiết bị lưu trữ như USB, CD,…
5. Bị hacker tấn công
6. Gián điệp kinh tế
5.3.5 Để bảo vệ bí mật kinh doanh cần :
Nhận dạng bí mật kinh doanh: Cân nhắc khi quyết định coi một thông tin là bí mật kinh

doanh . Xem xét và đặt ra các câu hỏi như: Thông tin đó đã được biết đến ngoài Công ty hay
chưa?, Nhân viên và những người khác có liên quan đến Công ty đã biết đến một cách rộng
rãi chưa?, Đã tiến hành các biện pháp bảo đảm tính bí mật của thông tin đó chưa?,…
Xây dựng chính sách bảo vệ: Chủ động tạo ra một cơ chế thuận lợi để bảo vệ và thực thi
quyền đối với bí mật kinh doanh.
Giáo dục nhân viên : Được thể hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong nhiều giai
đoạn khác nhau và phải được coi là một mấu chốt quan trọng cho việc bảo vệ bí mật kinh
doanh
Hạn chế tối đa số người tiếp cận thông tin nếu có thể : Giới hạn tối đa số người được tiếp
cận thông tin : Chỉ người nào cần biết thông tin để làm việc mới được biết thông tin.
Đánh dấu các tài liệu theo trình tự riêng biệt
Cách ly và bảo vệ về mặt vật lý : Lưu giữ và có khóa riêng biệt, có bức tường lửa, phần
mềm chống xâm nhập vi rút : Giám sát kiểm tra các giao diện thông tin gửi nhận: email, lưu
các file gửi đi, gửi đến ...
10


Có quan hệ dựa trên nền tảng pháp lý chặt chẽ với bên thứ ba: Cần có hợp đồng bảo mật,
hợp đồng không tiết lộ, hạn chế việc tiếp cận theo nhu cầu cần biết .Bên thứ ba là các tư vấn,
cố vấn, lập trình viên,…
5.4. Nhãn hiệu
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau.
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu thỏa mãn cả 2 điều kiện dưới đây:
- Nhãn hiệu phải được thể hiện bằng dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là chữ cái, từ
ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hay kết hợp các yếu tố này, bao gồm một
hoặc nhiều màu sắc. Dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
- Nhãn hiệu phải được ký và Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ là Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu. Chủ sở hữu có toàn quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ.

- Nhãn hiệu hàng hóa là yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp cần phải nghĩ tới khi chuẩn
bị đưa một sản phẩm mới ra thị trường. Nó phải được người tiêu dùng dễ dàng nhận biết ở
sản phẩm . Dưới đây là một số nhãn hiệu đặc trưng cho một số loại sản phẩm hay được
người tiêu dùng biết tới :

Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Trên thực
tế sẽ có nhiều sản phẩm khác nhau đáp ứng cho cùng một nhu cầu, chẳng hạn cùng là nước
11


giải khát nhưng có rất nhiều sản phẩm khác nhau như trà xanh không độ, C2,....Khi đó,
người tiêu sẽ chọn tùy theo sở thích, thói quen và thường thì họ sẽ chọn sản phẩm có thương
hiệu đạt chuẩn để đảm bảo chất lượng, tin cậy, an toàn. Khi đó, nhãn hiệu sẽ giúp người tiêu
dùng phân biệt sản phẩm muốn mua, cần mua. Như thế, nhãn hiệu nên có tính khó làm giả.
Thời hạn bảo hộ độc quyền nhãn hiệu là 10 năm và có thể gia hạn theo nhiều chu kỳ 10 năm
tiếp theo.
-

Một số điều cần biết khi đăng ký

 Đăng ký lần đầu tiên
Để đăng ký một tác phẩm, hãy gửi 3 yếu tố sau trong cùng một phong bì gồm:
 Mẫu đơn đăng ký được điền đúng và đầy đủ
 Phí làm hồ sơ không được hoàn trả cho mỗi bản đăng ký
 Một bản lưu không được hoàn trả của tác phẩm cần đăng ký.
 Yêu cầu chung về bản lưu
Yêu cầu về bản lưu khác nhau trong từng tình huống cụ thể. Tiếp theo là những yêu cầu
chung về bản lưu.
- Nếu tác phẩm chưa được xuất bản, cần nộp bản sao hay một bản lưu giữ âm thanh đầy đủ.
- Nếu tác phẩm lần đầu tiên được xuất bản ở Mỹ vào hoặc sau ngày 1/1/1978, cần nộp hai

bản sao hoặc bản lưu giữ âm thanh hoàn chỉnh của lần xuất bản tốt nhất.
- Nếu tác phẩm lần đầu tiên được xuất bản ở Mỹ trước ngày 1/1/1978, cần nộp hai bản sao
hoặc bản lưu giữ âm thanh của lần xuất bản đầu tiên.
- Nếu tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên ở một nước khác, cần nộp bản sao hay một bản
lưu giữ âm thanh đầy đủ của tác phẩm khi xuất bản lần đầu.
- Nếu gửi nhiều tác phẩm thì tất cả các bản đăng ký, bản lưu tác phẩm và các khoản phí cần
được gửi trong cùng một bao gói. Nếu có thể, các bản đăng ký cần được đính cùng với
bản lưu tương ứng. Đánh số mỗi bao gói (ví dụ 1 trên 3, 2 trên 4) để thuận lợi cho việc xử
lý.
 Yêu cầu bản lưu đặc biệt
Có những yêu cầu bản lưu đặc biệt cho các loại tác phẩm khác nhau. Sau đây là những ví
dụ điển hình cho những ngoại lệ về yêu cầu bản lưu chung:
- Nếu tác phẩm là chương trình máy tính đã xuất bản hoặc chưa xuất bản, yêu cầu bản lưu
là bản sao có thể thấy được bằng mắt thường của 25 trang đầu và 25 trang cuối mã nguồn
của chương trình. Nếu chương trình có ít hơn 50 trang, bản lưu là bản sao toàn bộ chương
trình. Để biết thêm thông tin về việc đăng ký cho chương trình máy tính, bao gồm bản lưu
12


cho những chương trình sửa đổi và điều khoản bí mật thương mại, xem Thông tư 61,
Đăng ký bản quyền cho chương trình máy tính.
- Nếu tác phẩm ở dạng CD-ROM, yêu cầu bản lưu là bản sao đầy đủ của tác phẩm đó, tức
là CD-ROM, phần mềm tác nghiệp và hướng dẫn sử dụng đi kèm. Nếu là đăng ký cho
chương trình máy tính trên CD-ROM, bản lưu cần có thểm bản in của 25 trang đầu và 25
trang cuối của mã nguồn chương trình.
- Nếu bạn không chắc về yêu cầu bản lưu đối với tác phẩm của mình, hãy viết thư hoặc gọi
điện cho Cục Bản quyền và mô tả tác phẩm bạn muốn đăng ký.
 Lệ phí
Các khoản lệ phí đăng ký sẽ được chuyển trả cho Cục Bản quyền dưới dạng hối phiếu, tức
là séc, lệnh chuyển tiền, hoặc hối phiếu ngân hàng. Đề nghị không chuyển tiền mặt. Các hối

phiếu phải là loại có thể chiết khấu được thông qua một tổ chức của Mỹ mà không cần dịch
vụ hoặc phí chuyển đổi, phải thanh toán được bằng đô-la Mỹ và đánh số thứ tự theo quy
định của Hiệp hội ngân hàng Mỹ. Không chấp nhận các lệnh chuyển tiền quốc tế và lệnh
chuyển tiền qua bưu điện thuộc loại chỉ chiết khấu được ngay tại bưu cục.
Nếu Cục Bản quyền nhận được một bản séc dùng để thanh toán lệ phí đăng ký nhưng séc
là loại không rút tiền ra được, Cục Bản quyền sẽ hủy bản đăng ký và thông báo cho người
chuyển séc. Lệ phí nộp hồ sơ đăng ký bản quyền gốc, đăng ký bổ sung hay gia hạn đều
không được hoàn trả, bất kể cuối cùng có đăng ký được bản quyền hay không. Đề nghị
không chuyển tiền mặt. Cục Bản quyền sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào nếu khoản tiền
mặt để trả lệ phí đăng ký bị mất. Để biết thêm chi tiết, hãy xem Thông tư số 4, Lệ phí đăng
ký bản quyền.

Luật quyền sở hữu trí tuệ
Kỳ họp thứ 8, khóa XI, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam với
những nội dung như sau:
-

Quyền sở hữu trí tuệ

Quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên
quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng
-

Quyền tác giả:

Quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đối tượng
quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa
học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kì phương tiện nào, không phân biệt nội
dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào.
Quyền tác giả đối với chương trình máy tính và sưu tầm dữ liệu:


13


 chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh các mã
lược đồ hoặc bất kì dạng nào khác khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có
khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể.
Chương trình máy tính được bảo hộ như các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học…
 Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển chọn sắp xếp các tư liệu
dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư liệu đó,
không gây thương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó.
-

Quyền liên quan đến quyền tác giả:

Quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Đối tượng quyền liên quan đến
quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn của người biểu diễn; bản ghi âm,ghi hình, cuộc phát
sóng của các tổ chức phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Chủ sở hữu và nội dung quyền đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa
 Quyền đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa thuộc về người đầu
tiên phát tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa đó.
 Quyền đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa gồm quyền thực hiện,
cho phép hoặc cấm người khác thực hiện các hành vi sau:
• Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, nhập khẩu bán cho thuê thiết bị hoặc hệ thống
nhằm mục đích giải mã tín hiệu vệ tinh được mã hóa;
• Thu, phân phối lại tín hiệu đã được giải mã khi không được người nắm giữ
quyền đối với tín hiệu vệ tinh được mã hóa cho phép.
-


Quyền sở hữu công nghiệp:

Quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch
tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Tên thương mại: tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt
chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu
vực.
-

Quyền đối với giống cây trồng:

Quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện
và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu
14


Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với các sản phẩm trí tuệ do con
người sáng tạo. Đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc một
tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại của một sản
phẩm sáng tạo.

II.1 Quy định chung của pháp luật Việt Nam về quyền SHTT
Pháp luật nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam quy định một số điều sau đây về
quyền sở hữu trí tuệ :
-

1.Quyền tự bảo vệ


(Điều 198, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ của mình:
o Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ;
o Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm
dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
o Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ theo quy định;
o Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
-

2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

(Điều 199, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
2.1 Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác
thì tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính
hoặc hình sự.
2.2 Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định.
-

3. Giám định về sở hữu trí tuệ

(Điều 201, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
3.1 Điều này sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn
đề có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
3.2 Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Thẻ
giám định viên sở hữu trí tuệ:
a) Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Thường trú tại Việt Nam;
c) Có phẩm chất đạo đức tốt;
15


d) Có trình độ đại học trở lên về chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực đề nghị cấp thẻ
giám định, đã qua thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực đó từ năm năm trở lên
và đạt yêu cầu kiểm tra nghiệp vụ về giám định.
-

4. Các biện pháp dân sự

(Điều 202, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Toà án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ:
4.1 Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
4.2 Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
4.3 Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
4.4 Buộc bồi thường thiệt hại;
4.5 Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương
mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản
xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh
hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
-

5. Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

(Điều 204, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận,

tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;
b) Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và
những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây
trồng.
2. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.
-

6. Bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ

(Điều 86, Luật Thi hành án dân sự 2008)
1. Quyền sở hữu trí tuệ được bán đấu giá theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản
và pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ.
2. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục bán đấu giá và thẩm quyền bán đấu giá quyền sở hữu
trí tuệ.

16


-

7. Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu

• Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu đối với sáng chế
(Điều 8, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006)
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm trùng hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ
phận (phần) của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
b) Quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;

c) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) của sản phẩm được sản xuất theo quy trình trùng hoặc
tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế.
2. Căn cứ để xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế là phạm vi bảo hộ sáng chế
được xác định theo Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
• Yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
(Điều 9, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006)
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (sau đây gọi là thiết
kế bố trí) có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Thiết kế bố trí được tạo ra do sao chép trái phép thiết kế bố trí được bảo hộ;
b) Mạch tích hợp bán dẫn được tạo ra một cách trái phép theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
c) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm gắn mạch tích hợp bán dẫn.
2. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí là phạm vi bảo hộ quyền
đối với thiết kế bố trí được xác định theo Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn.

II.2 Quyền SHTT trong Công Nghệ Thông Tin
(Điều 69, Luật Công nghệ thông tin năm 2006)
Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin phải thực hiện theo các
quy định sau đây:
1. Tổ chức, cá nhân truyền đưa thông tin trên môi trường mạng có quyền tạo ra bản sao tạm
thời một tác phẩm được bảo hộ do yêu cầu kỹ thuật của hoạt động truyền đưa thông tin và
bản sao tạm thời được lưu trữ trong khoảng thời gian đủ để thực hiện việc truyền đưa thông
tin;
2. Người sử dụng hợp pháp phần mềm được bảo hộ có quyền sao chép phần mềm đó để lưu
trữ dự phòng và thay thế phần mềm bị phá hỏng mà không phải xin phép, không phải trả tiền
bản quyền.

17



Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường công nghệ cao; cung
ứng dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá, định giá, giám định công nghệ cao; tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn kỹ thuật, đầu tư, pháp lý, tài chính,
bảo hiểm, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các dịch vụ khác nhằm thúc đẩy hoạt động công
nghệ cao, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm công nghệ cao.

II.2 Luật quốc tế
Việc hội nhập sâu hơn vào các quá trình kinh tế quốc tế được coi là một trong những
nhiệm vụ chiến lược cấp bách và có tầm quan trọng hàng đầu hiện nay của Nhà nước ta. Sau
hơn 25 năm đổi mới, đến nay Nhà nước ta đã thiết lập được một hệ thống bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ khá đầy đủ. Xét ở phương diện lập pháp, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
của Việt Nam không khác biệt nhiều lắm so với các hệ thống hiện có tại nhiều nước, kể cả
các nước phát triển.
Các hiệp ước song phương
Các ký kết hiệp định song phương như:
 Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO:World Intellectual Property
Organization) bắt đầu có hiệu lực từ năm 1970 (Việt Nam trở thành thành viên của WIPO
từ ngày 02/07/1976);
Mục tiêu WIPO: đẩy mạnh hoạt động trí tuệ sáng tạo và tạo điều kiện chuyển giao công nghệ
liên quan đến sở hữu trí tuệ sang các nước đang phát triển nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá.
 Hiệp ước Hợp tác Patent (PCT) được ký tại Washington năm 1970, Việt Nam tham gia từ
ngày 10/03/1993;
 Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1997;
 Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ năm 1999;
Theo cam kết tại các Hiệp định song phương với Hoa Kỳ, Thụy Sỹ và yêu cầu của WTO,
Việt Nam đã gia nhập Công ước Giơ-ne-vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các quy định
của Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ).

 Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
Là công ước bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký kết tại Berne, Thụy Sỹ,
vào năm 1886. Đây là công ước đặt ra các chuẩn mực tối thiểu đối với việc bảo hộ quyền tác
giả và thời hạn bảo hộ. Vì Công ước Berne yêu cầu các thành viên của công ước phải đảm
bảo rằng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại nước mình phù hợp với các quy định
của công ước, do vậy ở một mức độ nào đó Công ước Berne đã tạo ra sự thống nhất trong
việc bảo hộ quyền tác giả ở các quốc gia thành viên của Công ước.
Một số quy định chính của Công ước Berne:
18


 Các tác phẩm đã được bảo hộ ở một quốc gia thành viên sẽ nhận được sự bảo hộ tại
tại các quốc gia thành viên khác tương ứng với sự bảo hộ mà nước đó dành cho công
dân của mình.
 Sự bảo hộ dành cho tất cả các tác phẩm trong các lĩnh vực văn học, khoa học, nghệ
thuật cho dù nó được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào;
 Việc hưởng và thực hiện các quyền đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật
không phải thông qua bất kỳ hình thức đăng ký hoặc một hình thức tương tự và
không phụ thuộc vào việc quốc gia gốc có bảo hộ đối với các tác phẩm này hay
không.
 Việc bảo hộ theo công ước này được áp dụng trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm
sau khi tác giả chết. Tuy nhiên, Điều 7 cũng cho phép bảo hộ trong thời hạn ngắn hơn
trong những trường hợp cụ thể. Đối với các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm nghệ
thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ ngày tác phẩm được tạo ra.
 Việt Nam gia nhập Công ước Berne từ 6/10/2004.
 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;
Công ước Paris áp dụng đối với các quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc, tên gọi nguồn
gốc, chống cạnh tranh không lành mạnh. Công ước này được ký tại Paris năm 1883, hiện có
trên 155 nước thành viên. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở

hữu công nghiệp kể từ ngày 08/03/1949. Những điều khoản chủ yếu của Công ước này tập
trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
 Điều 2 yêu cầu mỗi nước thành viên phải dành cho công dân của các nước
thành viên khác sự bảo hộ đã dành cho công dân của nước mình.
 Trên cơ sở nguyên tắc nộp đơn đầu tiên tại một trong các nước thành viên,
trong một thời hạn nhất định (12 tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu ích; 6
tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá) người nộp đơn có
thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại bất kỳ quốc gia thành viên nào khác. Đơn nộp
trong trường hợp này được coi như được nộp cùng với thời điểm nộp đơn lần
đầu.
 Trong trường hợp một nhãn hiệu đã được đăng ký tại quốc gia gốc, ngoại trừ
những ngoại lệ nhất định, phải được coi là đã nộp đơn và được bảo hộ tại các
quốc gia thành viên khác như được bảo hộ tại quốc gia gốc.
 Các quốc gia thành viên phải từ chối đăng ký và cấm việc sử dụng nhãn hiệu
giả mạo, bắt chước, dịch lại nhãn gốc, hoặc có khả năng gây nhầm lẫn với các
nhãn hiệu được coi là nổi tiếng tại quốc gia đó, hoặc nhãn hiệu có biểu tượng
quốc huy hoặc biểu tượng, tên gọi, chữ viết tắt hoặc biểu tượng của các tổ chức
phi chính phủ được sử dụng trong trao đổi tại Phòng quốc tế của WIPO.

Điều 12 của Công ước yêu cầu mỗi quốc gia thành viên phải thành lập
và duy trì cơ quan cung cấp cho công chúng các dịch vụ công liên quan đến
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá.
 Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng;
19


 Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Việt Nam tham gia từ ngày
8/03/1949 và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid tham gia tháng 10/2006;
 Hiệp ước Washington về sở hữu trí tuệ đối với bố trí mạch tích hợp;
 Hiệp định thương mại về Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) trong hệ thống các hiệp định của

WTO;
Trung tâm trọng tài và hòa giải của WIPO
Trung tâm trọng tài và hòa giải của WIPO là một trong số các cơ quan hỗ trợ và giải quyết
tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ mà không cần khởi kiện tại tòa án.Trung tâm cung
cấp các dịch vụ giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các doanh nghiệp tư nhân, gồm cả
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để tạo điều kiện cho việc ký hợp đồng giữa các bên,trung tâm trọng tài và hòa giải của
WIPO đã cung cấp các điều khoản hợp đồng mẫu liên quan đến việc giải quyết tranh chấp
sau này trong các hợp đồng nhất định.Các điều khoản mẫu của WIPO có thể được tìm thấy ở
nhiều hợp đồng khác nhau liên quan đến sở hữu trí tuệ ,bao gồm sáng chế,bí quyết kỹ
thuật,li-xăng phần mềm,nhượng quyền thương mại,thỏa thuận chung nhãn hiệu,hợp đồng
phân phối liên doanh,hợp đồng nghiên cứu và phát triển,hợp đồng triển khai các công nghệ
nhạy cảm,các sở hữu hợp đồng quan trọng trong việc mua bán và sáp nhập,hợp đồng tiếp thị
dụng cụ thể thao,và các hợp đồng liên quan đến dụng cụ xuất bản,âm nhạc và phim ảnh.
các điều khoản mẫu của WIPO có thể tìm thấy trong các hợp đồng li-xăng có hiệu lực giữa
các bên ở các nước khác nhau .
Quy định WTO về sở hữu trí tuệ
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức quốc tế xử lý các quy tắc thương mại
quốc tế. Mục đích của WTO là thúc đẩy thương mại giữa các nước thông qua việc tạo ra các
điều kiện cạnh tranh bình đẳng và hợp lý. Để đạt được điều đó, WTO khuyến khích các nước
đàm phán nhằm giảm thuế quan và xóa bỏ các hàng rào khác đối với thương mại và yêu cầu
các nước áp dụng các quy tắc chung về thương mại hàng hóa và dịch vụ.
Một tập hợp các quy tắc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong hiệp định
của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ( Hiệp định
TRIPS).
Hiệp định TRIPS có tính ràng buộc đối với tất cả các thành viên của WTO, nhằm thu hẹp
khoảng cách về quyền bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới và đưa chúng vào
khuôn khổ các quy tắc chung của quốc tế (các chuẩn mực và tiêu chuẩn tối thiểu về quyền
bảo hộ sở hữu trí tuệ). Do hiệp định TRIPS yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực và yêu cầu này,
nên các thành viên của WTO có thể ban hành và sửa đổi pháp luật, quy định và thủ tục của

họ liên quan đến việc đăng ký, cấp, thụ hưởng, và thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
các quy định của Hiệp định TRIPS, có thể áp dụng hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.
Hiệp định TRIPS điều chỉnh 5 lĩnh vực lớn là.
 Cách thức áp dụng các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại quốc tế và các
điều ước khác về sở hữu trí tuệ;
20


 Cách thức bảo hộ đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ;
 Cách thức các nước phải thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ trong lãnh thổ
của mình;
 Cách thức giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ giữa các thành viên WTO
 Và những quy định chuyển tiếp trong thời gian hệ thống được áp dụng.
Trong khi hiệp định có thể là rất hữu ích đối với các doanh nghiệp hiểu được các quy tắc
cơ bản của cuộc chơi về sở hữu trí tuệ ở cấp độ quốc tế nhằm kinh doanh hàng hóa được bảo
hộ quyền sở hưu trí tuệ thì vấn đề nằm ở hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của quốc gia
hoặc khu vực quy định các thủ tục đăng ký, cấp, khai thác và thực thi quyền sở hữu trí tuệ .
Vì vậy, là một doanh nghiệp vừa và nhỏ ban đầu nên quan tâm đến pháp luật quốc gia nước
sở tại hoặc khu vực được áp dụng cho quốc gia hoặc các quốc gia mà bạn dự định xuất khẩu
đến hoặc có quan hệ kinh doanh chiến lược với bạn.
Hiệp định WTO có hiệu lực từ ngày 01/01/1995, các nước phát triển có một năm đảm bảo
rằng luật pháp và thực tiễn sở hữu trí tuệ của họ tuân thủ các yêu cầu của Hiệp định TRIPS,
các nước đang phát triển và (theo một điều kiện nhất định) các nền kinh tế chuyển đổi có
năm năm ( đến ngày nhất định thì các nước chậm phát triển có 11 năm (đến ngày
01/01/2006) và đối với một sản phẩm nhất định thì các nước chậm phát triển có thể được gia
hạn thêm 10 năm ( đến ngày 01/01/2016).
Ngoài ra, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực (ngày 01/01/1995), một số nước đang phát
triển chưa bảo hộ sáng chế đối với sản phẩm trong một số lĩnh vực nhất định, ví dụ, lĩnh vực
dược phẩm và hóa chất. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thừa nhận quyền tự do
ngôn luận, tự do xuất bản của công dân, quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ

thuật và bảo đảm quyền tư hữu tài sản cùng quyền lợi của trí thức.

III. Thực trạng sử dụng quyền sở hữu trí tuệ
Tình trạng vi phạm Sở hữu trí tuệ ở các nước trên thế giới rất phổ biến, và mức độ phức
tạp, nghiêm trọng của tình hình xâm phạm bản quyền Sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu
gia tăng
1. Khái quát thế giới
Thế giới tràn ngập hàng giả, hàng nhái: Đây là vấn đề nóng trên thế giới. Số lượng hàng
giả hàng nhái được phát hiện ngày một nhiều – nó xuất hiện trên mọi lĩnh vực từ thực phẩm
(thịt bò Kobe bị làm giả ở Mỹ, mực khô giả ở có xuất xứ từ Trung Quốc,…) công nghệ (điện
thoại, máy tính, linh kiện điện tử… được làm nhái với số lượng lớn tại Trung Quốc), hàng
may mặc .. Ước tính doanh số bán hàng giả hàng nhái lên đến hơn 500 tỉ USD trên toàn thế
giới.
Số vụ vi phạm Sở hữu trí tuệ gia tăng: Bên cạnh sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ
thuật với nhiều bằng phát minh, sáng chế mới ra đời thì cũng có không ít các vụ vi phạm sở
hữu trí tuệ xảy ra. Bởi việc vi phạm này sẽ làm công ty, tổ chức phát triển nhanh, mạnh mẽ
điều này dẫn đến một số lượng lớn các vụ kiện liên quan đến sở hữu trí tuệ xảy ra (vụ kiện
giữa 2 công ty Samsung và Apple ).
21


Sơ đồ tóm tắt các vụ kiện tụng giữa các hãng công nghệ

Vi phạm SHTT gây ra hậu quả chết người: Năm 1995 ở Niger, vắc-xin giả đã không thể bảo
vệ người dân chống lại dịch viêm màng não và gây ra cái chết cho 2.500 người. Năm 1989,
một vụ rơi máy bay ở Na-uy làm 55 người chết, nguyên nhân được cho là do các bộ phận
của máy bay bị làm giả.
Giải quyết, ngăn chặn vi phạm sở hữu trí tuệ:
+ Các quốc gia đều ban hành luật và thi hành luật để đối phó với vi phạm sở hữu trí tuệ.
+ Tham gia vào Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới WIPO: nhằm đảm bảo rằng quyền của

người phát minh và chủ sở hữu tài sản trí tuệ được bảo hộ trên toàn thế giới và rằng các nhà
phát minh và tác giả được công nhận và hưởng thành quả từ tài năng của họ.

2. Trong nước
a, Thực trạng
Ở Việt Nam hiện tại, tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ vẫn rất cao và có xu hướng gia tăng.
Theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả và
xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an, trong 5 năm (2002-2007), lực lượng cảnh sát điều
tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả.
Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán
hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn
hoá – thông tin tiến hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647
cơ sở vi phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy phép
22


kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt hành chính
10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tiến hành thanh tra,
kiểm tra 1.536 cơ sở về chấp hành các quy định sở hữu công nghiệp, xâm phạm quyền sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp và cạnh tranh không lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai phạm,
buộc tiêu huỷ và loại bỏ các yếu tố vi phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và phạt tiền
224.900.000 đồng. Thanh tra Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều
cơ sở kinh doanh máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng các
phần mềm Windows, Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản quyền[1].
Về quyền tác giả: Đây là lĩnh vực có số lượng vụ vi phạm sở hữu trí tuệ lớn nhất. Các ấn
phẩm, xuất bản điện ảnh, nghệ thuật … thường bị sao chép nhiều với số lượng lớn (công
nghiệp sao chép in đĩa lậu, sách báo lậu và được bán tràn lan trên các cửa hàng nhỏ) và
buôn bán tràn lan trên thị trường.
Đối với sở hữu công nghiệp, vi phạm xảy ra phổ biến nhất là với các nhãn hiệu hàng hóa
và kiểu dáng công nghiệp.

- Do sự nổi tiếng của nước mắm Phú Quốc nên có nhiều hãng trong nước và nước ngoài đã
gắn tên sản phẩm của họ bằng nhãn hiệu "Nước mắm Phú Quốc" để dễ dàng tiêu thụ sản
phẩm. hàng năm sản lượng nước mắm Phú Quốc chỉ đạt tối đa 15 triệu lít, nhưng có tới hàng
trăm triệu lít nước mắm mang tên Phú Quốc tung ra thị trường.
- Tên thương hiệu (điển hình là vụ khiếu kiện đặt tên "Vang đỏ Đà Lạt" gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng với sản phẩm có tiếng "Vang Đà Lạt" đã xin bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
- Cũng không kém phần nghiêm trọng là mọi chủng loại sản phẩm hàng hóa đều có hàng
nhái, hàng giả từ hàng tiêu dùng thông thường như thực phẩm, đồ uống, quần áo, giày dép,
đồ dùng vệ sinh cá nhân, đến đồ gia dụng, phương tiện máy móc hoặc các sản phẩm cao cấp,
đặc dụng như mỹ phẩm, dược phẩm... (ví dụ các sản phẩm Sunligh, P/S, Sunsilk, Clear,
Dove và Lifebuoy của hãng Unilever Việt Nam); sao chép kiểu dáng (nhái phông chữ,
thương hiệu, kiểu dáng bao bì tương tự của Công ty Acecook Việt Nam sản xuất và kinh
doanh mì ăn liền; hoặc mang các chỉ dẫn địa lý giả mạo. Công ty Unilever Việt Nam có thời
điểm bị thiệt hại do hàng nhái, hàng giả và buôn lậu lên tới hàng chục triệu USD, trong đó
đã xác định được 90% hàng giả theo các nhãn hàng của Unilever là có xuất xứ từ nước
ngoài.

b, Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ngày một gia
tăng.
Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ luôn tạo ra “siêu lợi
nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng tham gia, kể cả những người lao
động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực góp phần làm nên những
kết quả đáng kể trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, còn phát sinh những yếu
tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần với tính cạnh tranh cao và diễn biến
phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân
23



thấp, giá hàng hoá sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy, nhiều
người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp
“như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp thiếu ý
thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng
làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây
nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm
của nhau để giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại
và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động.
Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của
mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, trong khi trình độ
và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng
còn rất hạn chế. Hiện nay rất ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ,
hầu như chưa có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ
là bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng
quản lý như quản lý tài sản thông thường. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã chú
trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa
nhưng lại quên mất khâu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình ở những khu vực thị
trường đã và sẽ phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn
ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức
năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có những doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh
số và mức tiêu thụ sản phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản
phẩm làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến
khi biết, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, coi như “chấp nhận sống
chung với hàng giả”.
Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn chưa tập
trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2008), Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp

lệnh Giống cây trồng năm 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tố tụng dân sự
năm 2005, Luật Hải quan năm 2002… và trong nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật,
pháp lệnh nêu trên.
Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ lại chưa
thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới
chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ
sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi
nhóm tội về sở hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự với pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành của tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội sản xuất, buôn bán hàng giả
chưa cập nhật được những nội dung mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, chưa phù hợp
với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, như Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ và các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)[4].

24


Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh với
các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc
xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các
cấp, thanh tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường,
hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm[5]. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì
tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng
ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi
năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành chính,
nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại không quá 10 trường hợp. Chưa kể, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật còn hạn
chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng
khoán, công nghệ máy tính…
3. Vi phạm sở hữu trí tuệ trong CNTT

a. Vi phạm bản quyền phần mềm
Xuất hiện cách đây không lâu nhưng các phần mềm máy tính mang đến cho chúng ta nhiều
tiện ích như phần mềm trong kinh doanh giúp tiết kiệm thời gian công sức, các phần mềm
giáo dục mang đến cho chúng ta các kĩ năng từ cơ bản đến các bài học tinh vi, phức tạp; các
chương trình đồ họa được xem là cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp thiết kế; các ứng
dụng của Internet nối kết chúng ta với người sử dụng khác và rất đa dạng các chương trình
máy tính khác giúp chúng ta giải trí.
Như vậy, cùng với văn học, âm nhạc và phim ảnh thì chương trình máy tính là một hình
thức mới của tài sản trí tuệ. Do đó việc bảo vệ phần mềm máy tính cũng được điều chỉnh
trong các văn bản Luật giống như các loại hình âm nhạc, văn chương, phim ảnh và các tác
phầm được bảo vệ quyền tác giả khác có liên quan. Việc sao chép phần mềm bất hợp pháp
không khác gì hành vi sao chép bất hợp pháp các loại hình tài sản trí tuệ khác và hình phạt
dành cho hành vi này cũng giống như hành vi xâm phạm đối với tài sản trí tuệ khác vậy.
Tuy nhiên, có nhiều người vô tình hay cố ý đã thực hiện việc xâm phạm phần mềm. Bất cứ
khi nào bạn sử dụng một phần nhỏ phần mềm không được cấp phép là bạn đang lấy đi thu
nhập từ việc tạo ra phần mềm của họ. Điều quan trọng hơn là bạn lấy đi tính sáng tạo của
nhóm người đã phát triển phần mềm đó ( những người lập trình viên, nhà thiết kế đồ họa…).
Họ đã bỏ ra hàng ngàn giờ làm việc để tạo ra một chương trình đặc biệt.

b. Các hình thức xâm phạm phần mềm


Softlifting

Softlifting là thuật ngữ được dùng khi một người mua một bản sao cấp phép chỉ dành cho
việc sử dụng của một người đối với một chương trình nhưng người này lại tải lên nhiều máy.
Điều này vi phạm điều khoản trong thỏa thuận cấp phép. Ví dụ điển hình nhất cho soflifting
bao gồm: chia sẻ phần mềm với bạn bè, đồng nghiệp và cài đặt phần mềm trên laptop hay
máy bàn mà không được sự cho phép thực hiện trong thỏa thuận cấp phép. Trong môi trường
25



×