Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Biểu tượng lúa trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.65 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-------------------

NGUYỄN THN HỒNG NHUNG

BIỂU TƯỢNG LÚA
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
VÀ VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THN NGỌC LAN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan, người đã
tận tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong tổ Văn học Việt
Nam, các thầy cô trong khoa Ngữ Văn và cán bộ thư viện đã tạo điều kiện, giúp đỡ
em trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hồng Nhung



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Khóa luận Biểu tượng lúa trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt
Nam là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có sự tham khảo ý kiến của những người
đi trước, dưới sự giúp đỡ khoa học của TS.GVC Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 4
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................... 5
CHƯƠNG 1 GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG LÚA ...... 6
1.1. Giới thuyết về biểu tượng ................................................................................. 6
1.2. Biểu tượng lúa .................................................................................................. 9
CHƯƠNG 2 BIỂU TƯỢNG LÚA TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ................ 14
2.1. Biểu tượng lúa trong tín ngưỡng dân gian ....................................................... 14
2.1.1. Tín ngưỡng hồn lúa trong khu vực văn hóa Đông Nam Á ............................. 16
2.1.2. Tín ngưỡng hồn lúa trong đời sống văn hóa các dân tộc Việt Nam .............. 19
2.2. Biểu tượng lúa trong nghệ thuật tạo hình dân gian .......................................... 25

2.2.1. Lúa trong hội họa ........................................................................................ 26
2.2.2. Lúa trong điêu khắc ..................................................................................... 27
CHƯƠNG 3 BIỂU TƯỢNG LÚA TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN ................ 30
3.1. Lúa trong truyện cổ dân gian .......................................................................... 30
3.1.1. Lúa trong thần thoại .................................................................................... 30
3.1.2. Lúa trong truyền thuyết ................................................................................ 36
3.1.3. Lúa trong truyện ngụ ngôn.......................................................................... 42
3.2. Lúa trong thơ ca dân gian ............................................................................... 43
3.3. Sự diễn hóa của biểu tượng lúa từ cội nguồn văn hóa đến văn học dân gian .... 46
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 51
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 53


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa người Việt xuất phát từ nền văn hóa gốc nông nghiệp, nên những
biểu tượng văn hóa xuất hiện từ sự gắn bó với các sự vật xung quanh cuộc sống sinh
hoạt của con người như: biểu tượng nước, rồng, chim, rắn, hoa sen… hay các biểu
tượng trong tín ngưỡng thờ cúng. Cũng như vậy, biểu tượng lúa được phản ánh
trong thế giới ý niệm của người Việt vô cùng phong phú, là biểu tượng cổ truyền từ
xa xưa.
Cây lúa – một hình ảnh rất đỗi quen thuộc, dung dị, hiền hòa đã gắn bó với
người dân Việt Nam bao đời nay. Cánh đồng xanh ngát trải dài mênh mông tận
chân trời, lấp lánh cánh cò trong nắng vàng, từ lâu đã trở thành một biểu tượng của
thôn quê Việt Nam và rộng hơn nữa là đất nước, con người Việt Nam. Cùng với
thời gian, cây lúa ngày càng khẳng định được vị thế của nó trong đời sống sinh hoạt
của con người và trong sự phát triển của đất nước. Cây lúa, từ lúc là hạt giống cho
đến lúc trĩu bông, chín vàng gắn liền với cuộc sống lam lũ “hai sương một nắng”
của người nông dân và hình ảnh người nông dân miệt mài bên thửa ruộng, đã cho ta

nhận ra một vẻ đẹp vô cũng bình dị, vẻ đẹp của sự cần cù, chân chất, yêu lao động.
Là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc, lúa cũng là cây lương
thực chính của người Việt Nam. Không chỉ có giá trị về mặt kinh tế, cây lúa còn
đượ đánh giá cao bởi những giá trị nhiều mặt như lịch sử, văn hóa… Có thể thấy, sự
xuất hiện và phát triển của cây lúa đã hình thành nên một nền văn hóa lâu đời - văn
hóa nông nghiệp, văn hóa lúa nước ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Từ hiện thực, cây lúa trở thành một biểu tượng văn hóa sống động trong đời
sống sinh hoạt của người Việt Nam. Mặt khác, sự có mặt của nó trong các thể loại
văn học dân gian, cũng cho thấy một sự “đồ chiếu” hiện thực và “diễn hóa” nét
nghĩa biểu tượng vô cùng thú vị. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Biểu
tượng lúa trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam làm đối tượng

1


nghiên cứu, nhằm khám phá và “giải mã” nội dung và ý nghĩa biểu đạt của nó đồng
thời thấy được sự sáng tạo độc đáo của tác giả dân gian.
2. Lịch sử vấn đề
Lúa không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất của con người
mà nó còn là một biểu tượng văn hóa Việt. Có thể kể tới một số công trình nghiên
cứu về biểu tượng lúa như:
Tác giả Hoàng Bé trong bài viết đăng trên tạp chí Dân tộc học, số 4 (1987)
Những huyền thoại lúa nước và một số nét về kinh tế-xã hội truyền thống ở người
Tày (1987), đã khái quát “nghề trồng lúa xuất hiện trong lịch sử là tiền đề vật chất
quan trọng nhất dẫn đến sự tăng nhanh dân số và sự hình thành các đơn vị cư trú
như làng, bản. Với cuộc sống hái lượm và săn bắn trước đây, để có được đủ lương
thực, con người phải phân tán thành từng nhóm nhỏ. Nhưng khi nghề trồng lúa ra
đời trong điều kiện công cụ còn thô sơ, yêu cầu của công việc sản xuất buộc các
nhóm người xích lại với nhau, đó cũng là điều kiện hình thành các bản làng. Đây là
điều đã được nhiều nghiên cứu dân tộc học ghi nhận” [1]. Ý kiến của nhà nghiên

cứu đã đề cập đến vai trò quan trọng của nghề trồng lúa trong việc hình thành các
bản làng và văn hóa bản làng.
Cũng trên Tạp chí Dân tộc học, số 5 (2010) Phan Hữu Dật có bài viết Trở lại
tín ngưỡng ma thuật và sự phân loại ma thuật, đã đề cập đến tín ngưỡng thờ hồn lúa
của đồng bào các dân tộc thiểu số. Theo đó, “Việc thờ hồn lúa thể hiện sâu sắc ma
thuật trồng trọt. Người dân rất coi trọng việc bảo vệ hồn lúa, chống lại các loại tà
ma. Vai trò của nữ giới trong việc phát minh nghề trồng trọt nguyên thủy được thể
hiện qua nhận thức của nhân dân về hồn lúa nhập vào bà chủ của gia đình, trở thành
mẹ lúa. Mẹ lúa tượng trưng cho hồn lúa chủ trì việc gieo hạt cũng như gặt lúa.
Trong quá trình làm mẹ lúa, bà chủ phải câm như thóc và tuân thủ một số kiêng kỵ
nhất định. Ai xúc phạm đến mẹ lúa, sinh thực khí của mình sẽ bị đau đớn. Đồng bào
tin rằng trước khi ăn cơm mới, nếu cho thóc hoặc người lạ cùng ăn, hồn lúa sẽ đi
mất” [2;tr.6-7]. Tác giả bài viết đã mô tả khá kỹ lưỡng quá trình thực hiện nghi lễ
hồn lúa trong tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số Việt Nam.

2


Nguyễn Thị Huế với bài viết Thần thoại về nguồn gốc cây lúa và sự phản
ánh nét văn hóa nông nghiệp lúa nước các dân tộc Việt Nam [6] đăng trên Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 1 (2011) bàn về nguồn gốc của cây lúa trong thần thoại các
dân tộc Việt Nam. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra những nét văn hóa nông nghiệp như
các tín ngưỡng, lễ hội nông nghiệp có liên quan đến biểu tượng lúa như tín ngưỡng
hồn lúa, tín ngưỡng ăn cơm mới…
Nguyễn Thị Mai Quyên trong bài viết đăng trên Tạp chí Nhân lực Khoa học
xã hội, số 10 (2015) Không gian và xã hội nhìn từ dân tộc Tày [13] đã trình bày
khái quát một số thần thoại về biểu tượng lúa của người Tày và có sự liên hệ với
thần thoại về lúa của các dân tộc khác như Mường, Thái. Qua đó cũng nói lên vai
trò quan trọng của cây lúa trong đời sống vật chất và tinh thần của người Tày nói
riêng và Việt Nam nói chung.

Biểu tượng lúa, không chỉ xuất hiện trong đời sống của người Việt Nam, mà
rất phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á. Trong mục từ “Lúa gạo” của Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới (tái bản năm 2015) – Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã
viết: “Giống như lúa mì ở châu Âu, gạo là thức ăn chính ở châu Á, như vậy cũng có
cùng một ý nghĩa tượng trưng và thuộc về nghi lễ”. Nhà nghiên cứu còn chỉ ra:
“Lúa gạo có nguồn gốc thiêng liêng. Không những người ta đã biết đến truyền
thuyết về quả bầu nguyên thủy trong đó có cây lúa và các giống người nữa, mà cây
lúa còn giống như thứ thức ăn trời cho trong sa mạc, mọc lên và làm đầy các vựa
thóc một cách tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đông đều nói đến điều này” [28;
tr.530].
Như vậy, có thể thấy biểu tượng lúa đã nhận được sự quan tâm của một số
nhà nghiên cứu song chưa có công trình nào xem Biểu tượng lúa trong đời sống văn
hóa và văn học dân gian Việt Nam là một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt. Vì thế,
từ những gợi mở của người đi trước, chúng tôi sẽ tiếp cận và phân tích một cách hệ
thống biểu tượng lúa trong đời sống văn hóa cũng như sự diễn hóa, biến đổi của nó
trong văn học dân gian, từ đó hình dung rõ nhất về đời sống tinh thần của nhân dân
ta qua những biến thiên lịch sử.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát biểu tượng lúa trong văn hoá và văn học dân gian Việt Nam nhằm
phát hiện nội dung biểu đạt và ý nghĩa sâu xa của nó.
- Nghiên cứu sự diễn hóa biểu tượng văn hóa lúa trong văn học dân gian, thể
hiện quan niệm thNm mĩ của người bình dân xưa.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Giới thuyết về biểu tượng, biểu tượng lúa.
- Làm rõ ý nghĩa của biểu tượng lúa trong văn hóa dân gian: tín ngưỡng dân

gian, nghệ thuật tạo hình dân gian (điêu khắc, hội họa…).
- Khám phá các nét nghĩa của biểu tượng lúa trong văn học dân gian Việt
Nam qua một số thể loại tiêu biểu.
- Phân tích diễn hóa của biểu tượng lúa từ cội nguồn văn hóa đến văn học
dân gian Việt Nam.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng lúa trong văn hóa và văn học dân gian
Việt Nam.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Tư liệu: Khảo sát trong văn hóa dân gian: tín ngưỡng dân gian, nghệ thuật
tạo hình dân gian (điêu khắc, hội họa…). Khảo sát trong kho tàng văn học dân gian,
qua các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, ca dao…
của người Việt. Ngoài ra để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi có sử dụng các tài
liệu văn hóa, văn học dân gian của Trung Quốc, Ấn Độ,…
- Nội dung: Chúng tôi đi từ những vấn đề chung nhất để thấy rằng: Biểu
tượng lúa trong văn hóa dân gian của người Việt giữ vị trí quan trọng và thiêng
liêng. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đặc biệt quan tâm đến sự diễn
hóa của biểu tượng lúa trong các thể loại văn học dân gian.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn để nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương
pháp sau:

4


- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của khóa luận

+ Đóng góp về mặt khoa học:
- Cung cấp một cách hệ thống về mặt lí thuyết và thực tiễn về biểu tượng lúa
trong văn hóa và văn học dân gian của người Việt, ý nghĩa của nó.
- Cung cấp nguồn tài liệu chi tiết và đáng tin cậy về biểu tượng lúa trong văn
hóa và văn học dân gian Việt Nam.
+ Đóng góp về mặt thực tiễn:
- Góp phần làm rõ những nét độc đáo về biểu tượng văn hóa lúa trong tín
ngưỡng dân gian và nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt. Qua đó, khẳng
định những nét văn hóa truyền thống vẫn tồn tại trong ý thức của người Việt đến tận
ngày nay.
- Thấy được sự diễn hóa của biểu tượng lúa từ đời sống văn hóa đến văn học
dân gian một cách độc đáo, phù hợp với quan niệm và sự sáng tạo của tác giả dân
gian. Qua đó góp phần nâng cao ý thức giữ gìn vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính
của khóa luận gồm ba chương sau:
- Chương 1: Giới thuyết về biểu tượng, biểu tượng lúa.
- Chương 2: Biểu tượng lúa trong đời sống văn hóa.
- Chương 3: Biểu tượng lúa trong văn học dân gian.

5


Chương 1
GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG LÚA
Có thể nói, trong cuộc sống hàng ngày – bất luận là chúng ta có nhận ra hay
không, song trong khi nghĩ suy, nói năng hay trò chuyện với người khác và thậm
chí là cả trong các giấc mơ, mỗi người đều sử dụng các biểu tượng. Biểu tượng,
trước hết, là những hình ảnh của thế giới khách quan, ở bên ngoài con người. Một
màu cờ đỏ búa liềm, một bông hoa hé nở hay một cánh chim bay… tất cả đều là

biểu tượng. Thực tế cho thấy, không chỉ là chúng ta sống trong một thế giới biểu
tượng, mà còn một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta.
1.1. Giới thuyết về biểu tượng
Trong bài “Mở đầu” của Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier
nhấn mạnh : “Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết; xã hội thiếu biểu tượng
là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng là xã hội chết. Một nền
văn minh không còn có biểu tượng thì sẽ chết, nó chỉ còn thuộc về lịch sử”
[28;tr.XXXIII].
Vậy biểu tượng là gì? Trong Tiếng Anh biểu tượng được viết bằng chữ
“symbol”. Thuật ngữ “symbol” được bắt nguồn từ Hi Lạp “Symbolon” có nghĩa là
ký hiệu, lời nói, dấu hiệu, triệu chứng… Cũng có thuyết cho rằng symbol bắt nguồn
từ động từ Hi Lạp “Symballo” có nghĩa là “ném vào một vị trí”, “liên kết”, “suy
nghĩ về”…
Trong tiếng Hán: “Biểu” có nghĩa là: “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu”, để
người ta dễ nhận biết một điều gì đó; “tượng” có nghĩa là “hình tượng”. Biểu tượng
là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng
trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Không chỉ bó hẹp trong phạm vi của văn học – nghệ thuật, biểu tượng còn có
vai trò quan trọng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống của con người và xã
hội. Ngược lại thủa uyên nguyên, khi con người còn sống ở trình độ thị tộc bộ lạc
thì khởi nguyên của biểu tượng là một cái cây hay một con vật làm tôtem để thờ

6


cúng và tôtem đã trở thành biểu tượng chung của họ. Mặc dầu trong cuộc sống
thường nhật cũng không thiếu những xích mích, va chạm riêng, song mỗi khi thờ
cúng thì thần tôtem - tức biểu tượng chung lại nhắc nhở các thành viên rằng: chúng
ta là một. Trong trường hợp cụ thể này, biểu tượng chung cùng với các nghi thức,
nghi trượng, nghi vật, nghi trình… của việc cúng tế tạo thành một thiết chế xã hội

mọi người phải tuân theo, qua đó có tác dụng điều hòa những mâu thuẫn trong nội
bộ để đi tới sự thống nhất của nhóm. Trên tinh thần ấy, có người còn cho rằng sự ra
đời của thế giới xã hội được bắt đầu từ các biểu tượng.
Trên thực tế, khái niệm biểu tượng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học xã hội khác nhau trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi xin dẫn ra một số
khái niệm tiêu biểu như sau:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình
ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong
đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [12].
Từ điển thuật ngữ văn học xác định: “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn
giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”
[5;tr.23].
Biểu tượng là sản phNm đặc biệt trong thế giới con người. Khi chưa có biểu
tượng thì con người chỉ sống với thế giới thực tại nhưng khi đã hình thành nên hệ thống
biểu tượng thì con người sống đồng thời với hai thế giới: thế giới thực tại và thế giới
biểu tượng. Bàn về vấn đề này, tác giả của Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã dẫn
chứng một cách sinh động: “Đọc một thần thoại cổ nhiều nghìn năm với cặp mắt của
một nhà phân tích đương đại không phải là phản bội quá khứ, không phải là cấp cho nó
nhiều ánh sáng hơn là nó vốn có, mà thậm chí có thể là lóa mắt vì một nguồn sáng nào
đó. Nhưng lối đọc sinh động đó, linh hoạt trên ngọn lửa của biểu tượng là một phần
cuộc sống của chính người đọc và nó khiến cuộc sống ấy vừa mãnh liệt vừa thực tế
hơn” [28;tr.XLV].

7


Có thể nói, nghiên cứu biểu tượng và những ý nghĩa biểu đạt của nó, từ lâu đã
được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Theo cái nhìn chung, biểu tượng
(symbol) là một thành tố không thể thiếu trong mỗi nền văn hoá. Trong khi đi tìm

một định nghĩa cho văn hoá, các nhà nghiên cứu đã thừa nhận rằng, xét về một
phương diện nào đó, văn hoá là một hệ biểu tượng. Khi chúng ta đề cập đến vấn đề
đặc trưng tư duy của dân tộc hay tâm thức Việt qua vốn từ vựng nói chung và qua
biểu tượng “lúa” trong tín ngưỡng, văn hóa hay thần thoại và truyền thuyết nói
riêng là muốn đặt vấn đề này trong mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư
duy, hay ngôn ngữ và văn hoá; trong đó ngôn ngữ được xem là “hiện thực trực tiếp
của tư tưởng”, và biểu tượng là “sự phóng chiếu” văn hoá dân tộc.
Trước khi tìm hiểu một cách kỹ càng hơn về biểu tượng “lúa”, chúng tôi
quan niệm biểu tượng là những hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện
quan niệm thNm mĩ, tư tưởng của từng tác giả, từng thời đại, từng dân tộc và từng
khu vực cư trú. Theo định nghĩa giản dị của K.G.Jung “biểu tượng là một cái gì,
ngoài ý nghĩa vốn có của nó, còn hàm chứa một ý nghĩa khác, tức ngoài nghĩa đen
còn có nghĩa bóng” [Dẫn theo 28]. Để tạo nên các biểu tượng, nghĩa đen, nghĩa biểu
vật của các từ ngữ, các kí hiệu sẽ không được khai thác, ở đây, chủ yếu nghĩa bóng,
nghĩa biểu cảm của ngôn ngữ, của kí hiệu được phát huy tác dụng. Nếu như “Lúa”
là biểu tượng văn hoá Việt Nam; “chú gà trống” là biểu tượng của văn hoá Pháp thì
từ ngữ “lúa”, “gà trống” biểu hiện cho biểu tượng trống đồng và gà trống đã mất đi
cái nghĩa biểu vật mà thay vào đó là lớp nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng. Như vậy,
biểu tượng là những sự vật, hình ảnh, hiện tượng,... có giá trị biểu trưng. Nghĩa là
lấy một sự vật hiện tượng nào đó để biểu hiện có tính chất tượng trưng, ước lệ một
cái gì đó mang tính trừu tượng. Khi một sự vật hiện tượng có giá trị biểu trưng thì
nó sẽ gợi lên trong ý thức người bản ngữ sự liên tưởng khá bền vững. Chẳng hạn,
“rồng” là biểu tượng văn hoá của các nước châu Á; “màu trắng” biểu trưng cho lòng
thanh sạch, trinh khiết ở một số nước châu Âu… Sự liên tưởng như thế lại không
xảy ra trong tư duy của những quốc gia khác. Đối với văn hoá Âu châu, “rồng”
không phải là con vật thiêng, mà chỉ là con quỷ dữ luôn gây hại cho loài người

8



trong các truyện cổ tích; “màu trắng”, trái lại, trong văn hoá Á Đông, nó lại liên
tưởng đến sự tang tóc, chết chóc. Rõ ràng, biểu tượng là tấm gương phản chiếu văn
hoá dân tộc, và dĩ nhiên nó là thành tố không thể thiếu cấu thành bản sắc văn hoá
dân tộc. Nhưng theo Jean Chevalier “biểu tượng không được nhận thức theo tư duy
khoa học mà thường qua kênh tư duy khác, “tư duy biểu tượng”. Nghĩa là, nghĩa
biểu tượng, nghĩa biểu trưng không tồn tại trong văn bản, mà nằm ở liên văn bản,
ngoài văn bản, được lí giải, được liên hệ với những đặc tính văn hoá và lịch sử của
dân tộc. Hay nói cách khác, nó được phản ánh, được phóng chiếu qua văn hoá.
Từ những đặc trưng trên của biểu tượng, chúng tôi vận dụng vào việc phân
tích biểu tượng “lúa” trong tâm thức người Việt. Qua đó chỉ ra những Nn ngữ văn
hoá và lối tư duy đặc trưng của người Việt trong đời sống.
1.2. Biểu tượng lúa
Việt Nam, quốc gia có nền văn hoá bản địa Đông Nam Á, nơi đó, nhiệt đới
gió mùa, nông nghiệp lúa nước, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên,... là những đặc trưng
hình thành “văn hoá lúa nước”, “văn hoá trọng tĩnh” để khu biệt với các nền văn
hoá du mục, “văn hoá lửa”, “văn hoá trọng động” như các nước phương Tây. Sự
khu biệt này phần lớn dựa trên hệ thống biểu tượng văn hoá được xem là những
“mẫu gốc” của một nền văn hoá bản địa. Và nếu “trống đồng” được xem là biểu
tượng văn hoá của các nền văn hoá Đông Nam Á thì đi theo hệ thống biểu tượng đó,
biểu tượng “lúa” “rồng”, biểu tượng “chim lạc”,... cũng thường xuyên xuất hiện trên
các trống đồng quốc bảo của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Điều này lí giải
tại sao khi lúa được xem là hình ảnh biểu tượng của một nền văn hoá nông nghiệp
và được xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn Việt Nam. Biểu tượng lúa luôn là hình
ảnh gần gũi, thân thương và vô cùng ý nghĩa. “Lúa” là một phần của tâm hồn người
Việt. Bởi trong đời sống văn hoá dân gian, tục ngữ, thành ngữ thường liên tưởng
đến “lúa”, ca dao dân ca cũng xuất hiện biểu tượng “lúa” (Thân em như chẽn lúa
đòng đòng /Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai) rồi đến câu chuyện trong thần
thoại hay truyền thuyết cũng có xuất hiện hình ảnh lúa. Đối với một nền nông
nghiệp lúa nước như Việt Nam thì “lúa” là biểu tượng gần gũi quen thuộc nhất.


9


Người Việt Nam cách đây hàng vạn năm đã biết thuần dưỡng cây lúa dại
thành cây lúa nước; chuyển từ săn bắn, hái lượm sang nền văn minh nông nghiệp
trồng trọt và chăn nuôi. Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa
nước. Truyện cổ dân gian Cây lúa của dân tộc Kinh, truyện Bó khâu quang của dân
tộc Tày đều có nội dung giống nhau, nói về quá trình thuần dưỡng cây lúa. Một cô
bé đi cắt lúa, gặt xong khóm này, tiến lên gặt khóm khác thì gốc lúa ở khóm gặt rồi
lại nảy sinh ra khóm mới. Gặt mãi không xong, cô ngồi khóc và cầu cứu đến Bụt.
Bụt hiện lên và bày cho cách làm lúa đã gặt xong không trổ bông nữa. Đó là quá
trình chọn lọc nhân tạo và trồng tỉa của con người qua nhiều năm.
Đối với cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, cây lúa là tất cả cuộc sống của họ.
Thần Lúa vì vậy là vị thần thiêng liêng nhất. Người dân Đông Nam Á có niềm tin
mãnh liệt vào hồn lúa. Họ cho rằng nếu hồn lúa bay đi thì sẽ mất mùa. Trong con
mắt người dân Đông Nam Á, hồn lúa rất đẹp. Với người Malaysia, hồn lúa được gọi
âu yếm là “chú bé chín tháng”, “công chúa mặt trời” hoặc “công chúa pha lê”.
Người ta luôn cầu khấn để hồn lúa ở lại với cây lúa, ở lại với xóm làng của họ. Còn
ở Java (Indonesia) thì cây lúa được coi là hiện thân của nữ thần Dewi Sri, do đó nó
thuộc đẳng cấp cao hơn hẳn các cây lương thực khác. Ở Thái Lan, thần Lúa được
rước vào các nhà kho và giữ “ngài” ở đó cho đến tận mùa sau.
Thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh là thiên anh hùng ca của dân tộc ngợi ca tổ
tiên ta đã thắng lũ lụt, giành lấy những vùng đất màu mỡ ven sông để trồng lúa.
Người Việt cổ sùng bái tự nhiên: trời, đất, thần mưa, thần sấm, thần gió... Họ cũng
sùng bái cây lúa. Nhiều dân tộc miền núi có tập quán thờ ông bà Lúa, như dân tộc Kà
Tu ở Thừa Thiên - Huế dành chỗ đẹp nhất trong bếp làm nơi thờ lúa. Một số đồng
bào Tây Nguyên khi phát nương làm rẫy cũng tuân thủ nhiều điều kiêng kỵ. Già làng
làm lễ cúng Giàng rồi mới ra chỉ nương cho phát. Nếu thấy hiện tượng dây leo không
bình thường là điềm “Ông Lúa, bà Lúa không cho ăn nên tìm nương khác”.
Có những tín ngưỡng liên quan đến cây lúa. Người ta thờ thần lúa, gọi vía

lúa, rước mạ, rước lúa. Người Khơme kể rằng, xưa kia khi lúa chín thóc bay về kho,
người không mất công gặt nữa. Nhưng một ngày kia, có hai vợ chồng sống cạnh

10


kho thóc, cãi nhau gây ra tiếng ồn khó chịu, làm phiền thần Lúa. Thần Lúa bỏ đi.
Phải nhiều lần mời mọc khó khăn thần Lúa mới chịu về. Nhưng trong thời gian đó,
nạn đói xảy ra ở vùng ấy. Và từ đó về sau, người phải mất công gặt hái mang về.
Có nhiều lễ “Rước mẹ Lúa xuống đồng” ở các dân tộc. Khấn vái buổi lễ này,
chủ tế đọc bài khấn sau:
Cầu cho cây mạ làng ta tốt như dâu
Lúa tốt bằng đầu
Bông cái bằng bông lau
Bông con bằng bông sậy
Tiếng đồn đã dậy
Hỏi: lúa làng nào?
Thì nói: lúa làng ta nhé.
Lại có những lời cầu nguyện vừa thiêng liêng, vừa có thoáng chút nụ cười:
Hú ông Lúa, bà Lúa
Cỏ lên cỏ úa
Lúa lên lúa xanh
Tốt hơn láng giềng
Cao lên bằng cổ
Trổ lên bằng đầu
Bông như đuôi trâu
Bông như đuôi nghé
Bông nào be bé
Thì bằng đuôi voi
Bông nào loi thoi

Cũng bằng đuôi ngựa
Hạt nào rụng rựa
Cũng bằng bình vôi.
Ba con gà lôi
Không khiêng nổi một hạt thóc.

11


Tín ngưỡng cây lúa còn thấy ở lễ hội đền Hùng, ở dấu tích trên trống đồng,
trong dân gian và cả trong triều đình, được xem như công việc của Nhà Nước. Theo
sử cũ thì hằng năm, vào ngày mùng bốn tháng Giêng âm lịch, sau khi tế thần Tiên
Nông, nhà vua đích thân cày một luống cày trên ruộng tịch điền. Lê Đại Hành là ông
vua đầu tiên tổ chức lễ cày ruộng tịch điền. Lễ này, sau một thời gian dài bị mai một
đã được khôi phục.
Một sứ thần Pháp ở triều đình An Nam (Huế) đã mô tả lại lễ tịch điền ở Huế
như sau: Hoàng đế với cả triều đình đi cày ruộng tịch điền một cách long trọng. Cày
được sơn son thếp vàng, do một con bò được phủ vải vàng kéo. Trước ông vua, hai
quan đại thần dắt bò trong áo đại lễ thêu kim tuyến và đội mũ cánh chuồn. Ngày ấy,
những người An Nam ở gần đó đều đến dự lễ và rất lấy làm phấn khởi.
Chúng ta đã biết đến chuyện Lang Liêu dâng bánh chưng bánh giầy lên vua
cha, bày tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Đó là sản phNm của lúa nếp. Chúng ta còn nghe đến
cốm làng Vòng (Hà Nội) nổi tiếng. Cốm Vòng có màu xanh, thơm dẻo. Khi giã
cốm, người ta giã kèm một ít lá mạ để nhuốm màu xanh. Và lúa nếp phải được gặt
đúng lúc để cốm không khô. Cốm là món quà quí để những chàng trai chưa vợ
mang đi chạm ngõ, ăn hỏi... với ý nghĩa “hồng cốm tốt đôi”.
Chúng ta lại nhớ đến hương lúa trong cưới xin:
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Văn minh lúa nước cũng tạo nên một nền văn học dân gian phát triển. Đây là

câu đối đáp của trai gái làng:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Cô gái đã trả lời:
Ánh trăng em chả thiếu gì
Anh có thóc giống em thì đổi cho.
Cũng từ cây lúa, chàng trai “phàn nàn” về mối tình không được đáp lại:
Ngày đi lúa chửa chia vè

12


Ngày về, lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về, em đã con bồng con mang.
Lại có chàng trai đi sát chủ đề không chút do dự:
Nồi cơm kẽo với nồi canh
Quả bí trên giàn kẽo với tôm he
Kẹo lạc kẽo với nước chè
Cô em cò kè kẽo với anh đây.
Cây lúa và những chế phNm từ lúa (thóc, xôi, cơm, bánh…) có mặt ở khắp
nơi trong đời sống thực tại và được phản ánh trong những sáng tác nghệ thuật ngôn
từ dân gian, với những nét nghĩa biểu đạt khác nhau.
Tiểu kết: Với việc xác định nội hàm khái niệm “biểu tượng”, chúng tôi tiến
hành tìm hiểu biểu tượng lúa trong văn hóa, văn học dân gian Việt Nam. Bước đầu
khảo sát, có thể thấy, từ một loại cây lương thực có tác dụng nuôi sống con người,
cây lúa đã trở thành một biểu tượng văn hóa đặc trưng của người Việt Nam. Cây lúa
với những thuộc tính cơ bản của nó, tượng trưng cho hồn cốt con người Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên, người ta thấy biểu tượng này hiện diện một cách đa dạng
trong đời sống văn hóa, văn học của người Việt Nam từ xưa đến nay.


13


Chương 2
BIỂU TƯỢNG LÚA TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng
10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt
đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công
cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa
Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình… Cũng có những ý kiến cho rằng,
chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối
sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn
hóa làng xã. Nền văn minh lúa nước cũng ảnh hưởng rất sâu sắc đến tín ngưỡng,
phong tục tập quán và nghệ thuật tạo hình của các nước nông nghiệp Đông Nam Á
nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.1. Biểu tượng lúa trong tín ngưỡng dân gian
Cây lúa trong đời sống tâm linh của người Việt Nam có một ý nghĩa vô cùng
đặc biệt. Lòng tôn sùng của con người đối với tự nhiên, đối với cây lúa, một loại
cây lương thực quan trọng đã hình thành nên tín ngưỡng thờ lúa, thờ hồn lúa.
Là cư dân của những quốc gia nông nghiệp, người Đông Nam Á mang đậm
nét văn hóa nông nghiệp lúa nước. Từ xa xưa, họ đã có quan niệm: mọi vật bao giờ
cũng có hai phần, phần xác và phần hồn. Mỗi cây lúa cũng vậy, đều có hồn lúa trú
ngụ. Hồn sẽ mang lại sinh khí, giúp cho cây lúa tươi tốt, đâm bông, trổ hạt. Giống
như con người, cây lúa sẽ chết nếu phần hồn rời bỏ nó. Và theo đó, nghi lễ giữ hồn
cho cây lúa đã xuất hiện rất tự nhiên như bao tín ngưỡng khác của cư dân nông
nghiệp nơi đây. Mỗi nơi, cách gọi về hồn lúa có thể khác nhau như: thần lúa, nữ
thần lúa, mẹ lúa, hoặc công chúa mặt trời… nhưng đều thể hiện lòng tôn trọng của
con người đối với vai trò và vị thế của người phụ nữ.

Là tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng giữ hồn cây lúa cũng có rất nhiều truyền
thuyết giải thích về sự ra đời của nó. Nói về khái niệm hồn ta có: “Từ hồn gợi ý

14


niệm về một quyền năng vô hình: một bản thể khác biệt, phần riêng trong một sinh
thể, hoặc đơn thuần về một hiện tượng sống: vật chất hay phi vật chất; phải chết hay
bất tử; một bản nguyên của sự sống, của tổ chức, của hành động; ngoại trừ những
biểu hiện thoáng qua, bao giờ cũng vô hình và chỉ tự biểu lộ qua hành vi. Nhờ khả
năng huyền bí của mình, nó gợi ý tưởng về một sức mạnh siêu nhiên, về thần linh,
về một trung tâm năng lượng” [28,tr.448]. Các dân tộc trồng lúa, theo tín ngưỡng
vật linh, quan niệm rằng lúa cũng có hồn. Hồn lúa giữ sinh mệnh của lúa; chi phối
của cây lúa và cả mùa trồng trọt. Sau mỗi vụ thu hoạch, khi đã phơi khô thóc rồi,
người ta chuyển toàn bộ vào kho, làm lễ “đóng kho” với nội dung tạ ơn và cầu hồn
lúa giữ gìn tốt kho lúa. Đến mùa sản xuất, thầy cúng làm lễ “mở kho” đánh thức
hồn lúa dậy, mang lúa giống đi gieo trồng. Vì vậy hồn lúa cũng được gọi là mẹ lúa.
Các lễ nghi nông nghiệp hay tín ngưỡng thờ thần nông là các hình thái tôn
giáo của công xã nông nghiệp hay công xã nông thôn. Trong công xã nông thôn có
sự quá độ lịch sử giữa hình thái xã hội không có giai cấp và xã hội có giai cấp. Do
vậy, trong cơ cấu kinh tế của công xã nông thôn có tính chất hai mặt đặc biệt – sự kết
hợp giữa quyền sở hữu tập thể và cá thể. Ở hình thức nguyên thủy của công xã nông
thôn, tính cộng đồng tập thể biểu hiện rất rõ nét. Nó nảy sinh từ cơ sở sản xuất của
công xã, từ kinh tế nông nghiệp với kỹ thuật thô sơ và sự phát triển thấp của sức sản
xuất. Do đó mà có sự hạn chế quan hệ của con người trong quá trình sản xuất vật
chất, có nghĩa hạn chế tất cả các mối quan hệ của người với người và giữa người với
tự nhiên. Hạn chế đó được phản ánh vào các hình thức của lễ nghi nông nghiệp gắn
liền với việc thờ thần nông. Nguồn gốc của các lễ nghi nông nghiệp chính là ở sự bất
lực của người làm nông nguyên thủy trước thiên nhiên. Các cây trồng không phải bao
giờ cũng thu được kết quả như ý muốn: mùa màng bị phụ thuộc vào những điều kiện

mà người làm nông không thể khắc phục được. Con người phải viện đến sự phù hộ,
giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên. Từ đó ra đời các nghi lễ ma thuật…
Việc tạo ra các hình ảnh vật linh – sự nhân cách hóa cây cối, đất đai và sự
phì nhiêu là những hiện tượng phổ biến, mà điển hình là “tín ngưỡng lúa”, tín
ngưỡng hồn lúa, tín ngưỡng “Mẹ lúa”. Những người nông dân canh tác lúa đối xử

15


với cây lúa như là đối xử với một linh vật. Trước khi cấy lúa họ làm lễ cầu được
mùa, khi thu hoạch họ cũng phải tiến hành các nghi lễ nhất định. Ví như trước khi
gieo lúa họ chọn lấy những hạt giống tốt nhất – được để dành từ vụ mùa trước, trịnh
trọng đem trồng ở thửa ruộng tốt nhất; những hạt thóc này sẽ là “mẹ lúa” mà người
ta cầu nguyện. Khi gặt lúa họ lại chọn những bông to nhất đã nhắm trước để gặt, đó
cũng là hiện tượng “mẹ lúa”. Và hiện tượng “mẹ lúa” sau này được chuyển sang
người đàn bà chủ nhà của mỗi gia đình bằng tập tục trước khi gieo trồng hay gặt hái
bà chủ là người gieo các hạt giống hay cấy những cây mạ đầu tiên, và cũng là người
gặt những bông lúa đầu tiên. Các hội hè, tế lễ, các hội làng, hội xuân gắn với hoạt
đồng nông nghiệp thường tiến hành vào những ngày quan trọng trong nông lịch:
ngày đầu vụ, ngày nghe tiếng sấm đầu tiên, ngày bắt đầu của mùa mưa, ngày đuổi
súc vật ra đồng cỏ,… Còn sự sùng bái các thần có liên quan đến nghề nông gồm có:
thần núi rừng, thần sinh sản, thần sấm, thần thổ địa, thần cỏ cây, những địa điểm
thiêng,…
Đối với các dân tộc làm nương rẫy, lễ nghi nông nghiệp giữ vai trò quan trọng
hàng đầu trong đời sống tín ngưỡng. Lúa là cây lương thực chính và quan trọng bậc
nhất trong các các loại cây lương thực. Lúa được coi là linh hồn trong lao động sản
xuất và sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt. Có thể nói chính nghề nông trồng
lúa nước đã nảy sinh ra hầu hết các lễ hội cổ truyền ở Việt Nam, trong đó có lễ hội
giữ hồn lúa. Tín ngưỡng hồn lúa rất phổ biến ở một số dân tộc thiểu số Việt Nam như
người Nam Đảo và Môn – Khơ Me ở Trường Sơn – Tây Nguyên, người La Chí ở Hà

Giang, Lào Cai; người Ê – Đê, người Dao Đỏ,… và ở mỗi nơi tín ngưỡng thờ hồn lúa
mang đặc trưng và những nét đẹp văn hóa khác nhau.
2.1.1. Tín ngưỡng hồn lúa trong khu vực văn hóa Đông Nam Á
Với quan niệm: mọi vật được tạo nên bởi hai phần (phần vỏ và phần hồn), cư
dân ở vùng Đông Nam Á luôn cho rằng trong mỗi cây lúa đều có hồn lúa trú ngụ ở
trong đó. Hồn làm cây lúa tốt tươi, đâm bông trổ hạt. Hồn chính là sự sống của lúa.
Cây lúa sẽ chết nếu hồn rời khỏi nó. Tín ngưỡng hồn lúa được phản ánh trong nhiều
huyền thoại, thần thoại, truyện cổ tích,… rất phổ biến trên toàn khu vực Đông Nam

16


Á. Nhưng chỉ ở các lễ hội nông nghiệp chúng mới được thực hành. Việc thực hành
tín ngưỡng hồn lúa thông qua các lễ hội nông nghiệp diễn ra vào đầu mùa gặt hoặc
đầu mùa gieo hạt, thời điểm mà theo quan niệm của các cư dân ở đây, hồn lúa rất dễ
bay đi do phải thay đổi chỗ ở. Đây cũng là lúc người nông dân nhàn rỗi nên có điều
kiện tổ chức lễ hội, mặt khác đó cũng là những lúc cần “xả hơi” sau một thời gian
lao động vất vả.
Những lễ hội gắn với cây lúa và vòng đời của cây lúa hay qui trình trồng cây
lúa thể hiện ở ba giai đoạn chính: giai đoạn xuống đồng, giai đoạn lúa chửa và giai
đoạn thu hoạch. Đây chính là một trong những nét tương đồng của các lễ hội trong
vùng: lịch lễ hội phụ thuộc vào lịch nông nghiệp, tức phụ thuộc vào vòng đời của
cây lúa. Vào mùa gặt, để giữ hồn cho cây lúa, các cư dân Đông Nam Á thường tiến
hành những nghi lễ đón hồn lúa trên các thửa ruộng thiêng. Ruộng thiêng là thửa
ruộng được gieo trồng đầu tiên và được gặt sau cùng. Đây là nơi mà trong lúc gặt,
người nông dân đã cNn thận dồn tất cả các hồn lúa vào đó. Để hồn lúa có chỗ “tạm
trú”, tránh những ám hại của ma quỷ. Mặt khác để tỏ lòng kính trọng hồn lúa, trên
các thửa ruộng thiêng, người nông dân dựng những chiếc lều nhỏ bằng tre có dán
giấy trang kim rất đẹp. Sau những nghi lễ cầu khấn để mời hồn lúa ở lại với cây lúa,
ở lại với cộng đồng, những nhánh lúa đầu tiên trên thửa ruộng thiêng được nhẹ

nhàng cắt bằng những chiếc liềm rất nhỏ (chỉ bằng lòng bàn tay người). Việc làm
này hàm ý bày tỏ sự trân trọng của người nông dân với hồn lúa – sự sống của họ.
Theo họ, chỉ cần một sơ ý nhỏ làm tổn thương đến hồn lúa thì hồn lúa sẽ phật
ý bay đi, và năm sau họ sẽ bị mất mùa. Hồn của vạn vật là cái gì đó rất mơ hồ. Hình
dạng hồn của mỗi vật được nhận thức một cách khác nhau do hoàn cảnh sống, do
cảm nhận của giác quan. Với người dân nông nghiệp Đông Nam Á, hồn lúa mang
hình ảnh của người phụ nữ. Có nhiều cách lý giải về điều này. Có ý kiến cho rằng,
kinh tế cơ bản của cư dân nơi đây là trồng trọt, người phụ nữ đã đóng vai trò quan
trọng ở buổi ban đầu trong cuộc sống hái lượm và trồng trọt. Với công việc đó,
người phụ nữ đảm nhận vai trò to lớn, được trân trọng với sự hình thành chế độ mẫu
hệ. Có lẽ thế nên hồn lúa, sinh khí sự sống của cây lúa, đã hóa thân vào họ. Tuy

17


nhiên, nhiều nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á lại có kiến giải khác: chức năng
người phụ nữ là sinh sản, duy trì nòi giống. Điều đó cũng có ở cây lúa. Và như thế,
người phụ nữ chính là biểu tượng thiêng liêng của hồn lúa… Hay nói một cách
khác, tục thờ nữ thần có nguồn gốc sâu xa trong đời sống kinh tế và xã hội. Nền
kinh tế của người Việt và người Đông Nam Á cổ là kinh tế nông nghiệp với phương
thức chính là trồng lúa nước. Từ đời sống đó hình thành những tín ngưỡng và lễ
thức liên quan đến Đất, Nước và cây Lúa... Những yếu tố này được người xưa coi
như thần linh. Do ảnh hưởng quan niệm triết lý Âm - Dương, việc tôn thờ thần Đất,
Nước, Lúa... đều đồng nhất với yếu tố Âm và được nhân hóa thành nữ thần. Vì gắn
với thuộc tính sinh sản ra thóc gạo để nuôi sống, bảo toàn nòi giống, sáng tạo, bảo
trợ và che chở cho sự sống của con người (như: trời, đất, sông nước, rừng núi...) cho
nên các vị thần ấy mang tư cách Mẹ.
Ở Malaysia và Singapor, hồn lúa được gọi là công chúa mặt trời. Sau các
nghi lễ long trọng ở ngoài đồng, công chúa mặt trời được rước về nhà trong một
khung cảnh lộng lẫy. Trong lễ hội này, người ta tuyển chọn một cô gái đẹp, cho mặc

xiêm y màu vàng (biểu tượng cho hạt lúa chín), bố trí ngồi trên chiếc xe dán giấy
trang kim sặc sỡ, xung quanh cô là rất nhiều bó lúa được xếp như là những đóa hoa.
Chiếc xe chở cô gái, biểu tượng của công chúa mặt trời, được đi đầu đoàn xe chở
lúa. Trên tay cô gái là một bó lúa được gặt từ thửa ruộng thiêng. Khi về đến sân
đập, cô gái sẽ chia bó lúa (thường là bảy nhánh) cho các bà mẹ trong làng. Những
người phụ nữ này mang các nhánh lúa được chia, bọc trong một chiếc khăn sạch và
bỏ vào giỏ riêng. Giỏ được coi như một chiếc nôi để hồn lúa nằm. Sau đó, họ cNn
thận đặt chiếc giỏ ấy vào kho thóc của gia đình.
Tại Thái Lan, vào khoảng tháng chín âm lịch, khi mà cây lúa bắt đầu ngậm
đòng kết hạt, người Thái bắt đầu chọn ngày làm lễ cầu nữ thần lúa. Lễ hội diễn ra
rất tưng bừng, náo nhiệt, được tổ chức khá công phu ở ngoài đồng. Người ta lấy
rơm, kết lại thành hình một người phụ nữ rồi đặt ở ngoài đồng cùng lụa là, các lễ
vật khác: bánh chuối, trứng và một nắm cơm; còn có thêm cả phấn, nước hoa và
lược. Họ quan niệm, nữ thần lúa cần trang điểm, chải chuốt bộ tóc mượt mà. Cũng

18


có nơi, họ mặc thêm bộ quần áo mới may cho người rơm. Họ cầu mong nữ thần lúa
sinh sản nhiều lúa, sao cho thóc đầy vựa, cơm đầy nồi.
Tín ngưỡng hồn lúa chính là tín ngưỡng cội nguồn của các tín ngưỡng nói
chung và của các lễ hội cổ truyền nói riêng. Đó đồng thời cũng là cội nguồn tạo ra
những sắc thái tương đồng cho các lễ hội cổ truyện trong toàn vùng Đông Nam Á
nói chung và trong vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên nói riêng. Có thể liệt
kê một số tín ngưỡng liên quan như: tín ngưỡng thờ nước, tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng thờ thần mặt trời, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
2.1.2. Tín ngưỡng hồn lúa trong đời sống văn hóa các dân tộc Việt Nam
Nằm trong cái nôi văn hóa Đông Nam Á, đương nhiên Việt Nam có nhiều
điểm tương đồng về tín ngưỡng hồn lúa, đặc biệt là ở các dân tộc ở Trường Sơn Tây Nguyên, khi mà nếp sống nương rẫy, nếp sống chủ đạo, bao trùm lên toàn bộ
các tộc người trong vùng. Về kinh tế, đó là truyền thống canh tác nương rẫy trên

vùng đất khô của sơn nguyên, một phương thức canh tác bắt con người hoàn toàn
phụ thuộc vào hoàn cảnh tự nhiên, thích ứng nhạy bén với những thay đổi điều kiện
tự nhiên và khí hậu. Kinh tế nương rẫy là nền kinh tế ở trình độ thấp, đời sống con
người thường thiếu thốn và bấp bênh. Nếp sống nương rẫy khiến con người gắn bó
với môi trường rừng núi, nơi sinh tồn của mỗi con người, mỗi làng buôn, tác động
đến đời sống vật chất, cũng như thế giới tinh thần của con người. Có thể nói toàn bộ
đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của các dân tộc Trường Sơn - Tây
Nguyên, từ tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, nghi lễ, đời sống tình cảm của con người
đều gắn bó với rừng núi và nương rẫy, khiến ta có thể nói rằng văn hóa của đồng
bào là văn hóa rừng, văn hóa nương rẫy. Thay đổi nếp sống nương rẫy là thay đổi
tận gốc đời sống của con người nơi đây.
Tín ngưỡng hồn lúa chính là tín ngưỡng cội nguồn của các tín ngưỡng nói
chung và của các lễ hội cổ truyền nói riêng. Đó đồng thời cũng là cội nguồn tạo ra
những sắc thái tương đồng cho các lễ hội cổ truyền trong toàn vùng. Các giá trị văn
hóa - văn nghệ cổ truyền các tộc người Trường Sơn - Tây thể hiện những nguyện
vọng, mong ước của con người trong cơ cấu xã hội công xã nông thôn với nhiều tàn
dư của chế độ công xã thị tộc nguyên thủy. Việc độc canh cây lúa bằng một trình độ

19


canh tác nương rẫy rất thấp dẫn đến vai trò độc tôn của hạt lúa đã được huyền thoại
hóa. Để có được hạt lúa, con người sùng bái các lực lượng thiên nhiên liên quan đến
mưa, được biểu tượng hóa thành các vị thần có hình hài khác nhau. Chẳng hạn
người Ba Na T’Lô ở An Khê biết thờ thần Sấm (Book Glaih), thần Gió (Zạ Kial),
thần Trống sấm (Boh Sơgơr). Họ cũng tin rằng cơn mưa đầu mùa là nước mắt tổ
tiên (Mi dak măt Atau) với lời giải thích rằng ở Trường Sơn - Tây Nguyên mùa khô
là mùa nghỉ ngơi, khi mưa xuống mới làm rẫy, tổ tiên sợ con cháu mải vui chơi nên
khóc làm mưa nước mắt để nhắc mùa làm ăn đã đến.
Còn về sự sùng bái hồn lúa, tinh lúa trong văn hóa các tộc người Trường Sơn

- Tây Nguyên, thường rất phổ biến là câu chuyện truyền thuyết về một thời xa xưa,
khi hạt lúa còn to bằng quả bưởi đến mùa lúa chín chúng tự lăn về nhà. Sau, do lỗi
con người, hạt lúa mới nhỏ như ngày nay, nó “giận” con người nên không tự lăn về
nhà nữa, con người phải đi tuốt lúa đem về. Người Ba Na còn tin rằng hồn lúa nằm
trong thân lúa nên họ thu hoạch bằng tuốt lúa chứ không dùng liềm gặt vì như vậy
sẽ cắt ngang thân hồn lúa và hồn lúa sẽ chết. Do tin có hồn lúa (Zang Sri) nên ngoài
lễ cơm mới, người Ba Na còn làm lễ đóng cửa kho lúa (Teng Ămăng) để mời hồn
lúa về ngủ đông với lúa trong kho chờ mùa sau. Lại do dùng ống tre nứa đựng hạt
giống nên trong ống cũng có hồn lúa vì thế, trong nguyên gốc, nhạc cụ Kloong
Pút chỉ được đánh ngoài rẫy khi trỉa hạt để mời hồn lúa ra rẫy cùng với hạt lúa, lần
thứ hai đánh khi đóng cửa kho lúa để mời hồn lúa vào kho.
Cũng cần phải nói đến một lễ được làm trước mùa gặt, đó là lễ ăn cốm mà ý
nghĩa nguyên thủy là ăn sữa của mẹ Lúa, người Ba Na gọi là Xa mơk, tổ chức với
quy mô lớn không kém gì lễ cơm mới… Vì lúa và các loại ngũ cốc là nhu cầu lương
thực thiết yếu hàng ngày của các tộc người Trường Sơn - Tây Nguyên cho nên việc
thiêng hóa những đối tượng sản phNm từ tự nhiên do con người hái lượm được, sản
xuất được là điều luôn được cộng đồng quan tâm nâng lên hàng thần thánh, chi phối
cuộc sống thường ngày của cộng đồng. Ví như, người Ê Đê có các thần linh liên
quan đến cây lúa và các loại ngũ cốc như: thần bảo vệ nương lúa Aê Mghăn, hai vợ
chồng thần Mlik Leik và Hbia Bao giúp trồng kê đỏ, thần mưa Aê Yut giúp cho
nương rẫy tốt tươi và đảm bảo cho đời sống con người,… Người dân Trường Sơn -

20


Tây Nguyên có thói quen cầu xin, van vái thần linh giúp đỡ trong làm ăn, hôn nhân
với những sự hứa hẹn về lễ vật trả ơn nếu được toại nguyện. Dĩ nhiên, họ cũng tin
rằng, những điều không may mắn xảy ra như dịch bệnh chết chóc, mất mùa đói
kém, gia cảnh sa sút… nhiều khi là do sự trừng phạt của thần linh vì sự thất hứa nào
đó của con người trong việc dâng biếu lễ vật. Tuy phải luôn kính trọng và cầu mong

được thần linh che chở, giúp đỡ, song cũng có lúc con người tỏ ra bất bình với thần
linh, nếu đã cầu xin mà không có kết quả. Thậm chí họ còn có hình thức đánh lừa
và trêu chọc, làm cho thần tức giận mà giáng họa vào vật vô tri, còn mình né tránh
nên không gặp điều xúi quNy, hoặc làm thần linh tức giận mà mưa xuống, v.v.
Ở một phương diện khác, do mưu sinh luôn bấp bênh, các tộc người Trường
Sơn - Tây Nguyên, cậy nhờ vào các hành động ma thuật. Bronislaw Malinowski
cho rằng: “Ma thuật được sử dụng trong hoạt động mưu sinh khi kết quả đạt được là
bấp bênh có may có rủi, có khó khăn và có thuận lợi, có thành công và có thất bại,
có vui mừng và có sợ hãi, có hi vọng và có thất vọng. Và như vậy khi hoạt động
kiếm sống trong điều kiện được bảo đảm, tổ chức lao động hợp lý, kết quả đạt được
là chắc chắn thì khi đó không cần đến ma thuật” [2; tr.4]. Nghề trồng trọt của con
người vốn bắt nguồn từ hoạt động hái lượm, thừa hưởng của cải sẵn có trong tự
nhiên. Hái lượm trong xã hội nguyên thủy là công việc của nữ giới, trong khi săn
bắn là hoạt động của nam giới. Vì hái lượm theo phân công lao động tự nhiên nằm
trong tay phụ nữ, nên nghề trồng trọt sơ khai là sáng tạo của nữ giới. Vì vậy có thể
nói ma thuật trồng trọt gắn trước hết và chặt chẽ với nữ giới. Dưới xã hội nguyên
thủy nghề trồng trọt sơ khai mang lại kết quả bấp bênh nên người ta phải cần đến sự
hỗ trợ của sức mạnh siêu nhiên, tác động đến cây trồng, cho thật nhiều của cải để
nuôi sống con người. Nghề trồng trọt nguyên thủy là nghề trồng trọt bằng tay, ở các
miền nhiệt đới, loại hình kinh tế là nương rẫy. Ma thuật trồng trọt hiện diện ở tất cả
các khâu của quá trình làm rẫy, từ khâu tìm và chuNn bị đất canh tác, gieo hạt, bảo
vệ hoa màu, thu hoạch và ăn cơm mới [2;tr.4].
Trong trồng trọt yếu tố cần hàng đầu là nước. Nếu hạn hán, mùa màng thất
bát, có khi mất sạch. Cho nên ma thuật cầu mưa phổ biến rộng rãi trên khắp các lục

21


×