Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.42 KB, 29 trang )

Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Thơ Trung Đại Việt Nam được coi là bộ phận văn học gắn liền với một
giai đoạn cực kì quan trọng trong chiều dài lịch sử đất nước ta - giai đoạn nhà
nước phong kiến Việt Nam được xác lập, đi từ chỗ cực thịnh rồi chuyển dần tới
chỗ suy vi. Qua các giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam gắn với từng thời
kì lịch sử của dân tộc, có thể khẳng định được giai đoạn văn học trung đại đã để
lại cho nền văn học Việt Nam một di sản vô cùng quý báu; đồ sộ về khối lượng;
phong phú và hết sức đa dạng về nội dung; đạt tới nhiều đỉnh cao về nghệ thuật.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản này, chúng ta càng thêm gắn bó với truyền
thống cao đẹp của dân tộc. Bởi lẽ như lời khẳng định của cố thủ tướng chính phủ
Phạm Văn Đồng: “Mỗi tác giả với thiên tài của mình và giới hạn của thời đại,
phản ánh một thời kì lịch sử, đánh dấu một bước tiến của văn học, làm giàu
thêm cho tư tưởng, tình cảm và tiếng nói Việt Nam”. Chúng ta có thể tìm thấy
trong di sản này những kho tư liệu quý giá giúp ta có thể nhìn lại được cả một
quá khứ vinh quang nhưng không ít khó khăn, gian khổ của dân tộc, để rồi từ đó
có thể hướng cái nhìn đến hiện tại một cách thấu đáo hơn và hướng đến tương
lai một cách tin tưởng, lạc quan hơn. Đối với nhà trường THCS, di sản này đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách đạo đức cho
người học sinh, giúp học sinh từng bước hướng tới những giá trị chân - thiện mĩ cao đẹp,... thông qua những thành quả nổi bật của người xưa trong lĩnh vực
sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, kết tinh trong các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu.
Việc dạy văn học ở nhà trường nói chung và dạy thơ trữ tình trung đại
theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh nói riêng là một vấn đề
đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học văn cũng như
nhiều giáo viên giảng dạy văn học quan tâm. Thực tế cho thấy ở hầu hết các tác
phẩm thơ trữ tình trung đại trong chương trình Ngữ văn 7 có nhiều điểm tương
đồng cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Mỗi tác phẩm đều chứa đựng trong
nó những giá trị nội dung sâu sắc, phản ánh một cách toàn diện xã hội đương
thời, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm ... của con người một cách


rõ nét. Các tác phẩm thi ca Việt Nam thời kì này cũng đã phần nào chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi nghệ thuật của thơ Đường, ở thi pháp thơ rất đa dạng,
phong phú, phức tạp và nhiều màu sắc về ngôn từ, thể loại.... Hiểu được các bài
thơ này một cách thấu đáo đã là khó, việc giảng dạy như thế nào để học sinh
cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều. Bản thân tôi thiết nghĩ, đó chính là sự
trăn trở, suy tư của không ít giáo viên làm công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7
như chúng tôi.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

1


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

Mặt khác, qua thực tế giảng dạy Ngữ văn 7, nhiều học sinh luôn có tâm lí
không thích học phần thơ trữ tình trung đại, không hứng thú tìm hiểu, khám phá
cái hay, cái đẹp trong các lớp ngôn từ của văn bản... Nhiều học sinh tỏ ra thụ
động khi tìm hiểu văn bản mà không biết hình thành cho mình thói quen chủ
động tìm hiểu khám phá bài học. Phần lớn các em còn thờ ơ, lãnh đạm với tác
phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các em học và tìm hiểu
các bài thơ trong sách giáo khoa cũng bình thường như các bài học khác, không
có chút tình cảm đặc biệt nào đối với mỗi tác phẩm thơ mà các em được tiếp
cận. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một thế giới xa lạ và là một thế giới
không tưởng mà đã gọi là không tưởng thì cũng chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu cho
xong, cho qua một tác phẩm nên vì thế mà có tình trạng nhiều em không thể nhớ
nổi tên tác phẩm thơ trung đại các em vừa được học cách đây vài ngày chứ nói
gì đến chuyện các em có thuộc lòng tác phẩm thơ đó hay không ? Nếu có ai hỏi
các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường thì câu trả lời của các em
cũng chỉ xoay quanh các bài thơ đã học trong sách giáo khoa và sở dĩ các em
thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt có trường

hợp học sinh lại tỏ ra rất “sợ học” thơ Đường, bởi vì có những bài thơ có phiên
âm chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều khó khăn
trong quá trình học và tìm hiểu, mặt khác đôi khi chính cách giảng bài của người
thầy chưa thực sự tạo ấn tượng sâu sắc, muốn khám phá và tìm hiểu cho học
sinh. Chính vì thế mà ở học sinh dần dần mất hứng thú học văn. Từ đó kéo theo
chất lượng học văn ngày càng sa sút
Một lí do nữa có thể nhận thấy đó là trong quá trình giảng dạy các tác
phẩm thơ chữ Hán, khi tiến hành phân tích tác phẩm, đôi khi một số giáo viên
chủ yếu hướng dẫn các em tìm hiểu văn bản dựa theo bản dịch thơ mà sao nhãng
hoặc quên mất bản phiên âm (bản gốc), do đó có nhiều học sinh không thể nhớ
nổi một từ hay một câu thơ hay trong bản gốc. Vì thế, người giảng dạy gặp rất
nhiều khó khăn trong công tác soạn giảng giáo án, phải đầu tư không ít thời
gian và công sức trong việc tìm hiểu, khám phá những cái hay, cái đẹp trong
mỗi tác phẩm văn học để từ đó từng bước tạo ra hứng thú, niềm say mê tìm
hiểu những giá trị đặc sắc chứa đựng trong các tác phẩm thơ trung đại Việt
Nam. Để thực hiện được điều đó thì vấn đề trước mắt được đặt ra là phải có
những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao
trong giảng dạy và học tập thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Đó chính là lí do
thôi thúc tôi nghiên cứu nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm về “Một
số phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy thơ trung đại Việt Nam ở môn
Ngữ văn 7 trong nhà trường THCS” với mong muốn có thể ứng dụng hiệu
quả hơn trong giảng dạy để dạy tốt các bài thơ trữ tình Trung Đại trong
chương trình Ngữ văn 7, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy, học môn ngữ
văn ở trường THCS.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

2


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”


2. Mục đích nghiên cứu.
Qua những lí do đã nêu ở trên, qua khảo sát học sinh và qua tham khảo,
trao đổi cùng đồng nghiệp. Tôi quyết định chọn và thực hiện đề tài sáng kiến
kinh nghiệm về : Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ
trữ tình trung đại trong bộ môn Ngữ văn cho học sinh lớp 7B - Trường THCS
Tiên Lãng" để tiến hành nghiên cứu với mục đích:
+ Giúp học sinh biết khám phá được những kho tàng tri thức văn học vô
giá trong từng tác phẩm thơ trữ tình trung đại.
+ Góp phần nâng cao chất lượng dạy học các giờ học về thơ trữ tình trung
đại. Tạo hứng thú đón nhận và niềm hứng khởi cho người dạy và người học khi
được tiếp cận và làm quen với từng tác phẩm thơ trữ tình trung đại. Từ đó giúp
học sinh biết bồi đắp thêm tình yêu văn học.
+ Phát huy tốt tính trí tuệ và năng lực cảm thụ của giáo viên và học sinh
trong việc dạy và học thơ trữ tình trung đại.
+ Từ việc nâng cao chất lượng giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung
đại trong bộ môn Ngữ văn 7 cho học sinh THCS để từng bước đáp ứng công
cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo
dục hiện nay. Thực hiện mục tiêu kế hoạch, nhiệm vụ mà ngành giáo dục đã đề
ra trong xây dựng đất nước hiện nay đó là: "Không ngừng nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ thành những người phát triển toàn diện để kế tục
sự nghiệp vĩ đại của cha ông ta, thích ứng với yêu cầu xã hội."
3. Thời gian – địa điểm.
3.1. Thời gian:
- Thực hiện trong năm học 2013 - 2014 (Từ 15/8/2013 đến 10/5/2014).
3.2. Địa điểm:
+ Lớp 7B - Trường THCS Tiên Lãng - Tiên Yên - Quảng Ninh.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn.
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, bản thân tôi đã vấp phải không ít khó
khăn, đặc biệt là từ sự ngăn cản của bạn bè, đồng nghiệp trước những thách thức

mà tôi phải vượt qua khi lựa chọn tên đề tài này. Với đề tài này tôi hi vọng sẽ
góp phần giúp học sinh của tôi có thêm niềm đam mê học văn nói chung và có
kĩ năng cảm thụ thơ trữ tình trung đại nói riêng để từ đó khiến cho chất lượng
học tập tác phẩm văn học học thơ trữ tình trung đại của các em ngày càng được
nâng lên.
Căn cứ vào thực tế giảng dạy cùng với kinh nghiệm và những hiểu biết
còn ít ỏi của bản thân về thể loại thơ trữ tình trung đại, tôi cố gắng tìm hiểu
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

3


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

phương pháp giảng dạy thơ trữ tình, đó là chú ý đến đặc trưng của thơ. Đặc biệt
quan tâm đến việc khai thác các yếu tố quan trọng cấu thành nên các tác phẩm
thơ trữ tình trung đại. Đó chính là các yếu tố về mặt loại thể, trình tự trữ tình
trong lời giảng, khai thác hình tượng, tâm tư của tác giả hay của nhân vật trữ
tình được gửi gắm trong mỗi tác phẩm. Hình tượng thơ hình thành trong một cấu
tạo ngôn ngữ đặc biệt không giống ngôn ngữ bình thường. Cấu tạo trong ngôn
ngữ đó làm cho hình tượng thơ không chỉ có hoạ mà còn có sự hoà quyện của
chất nhạc. Chính vì thế trong khi giảng, người giáo viên phải truyền đạt kiến
thức đảm bảo cho học sinh vừa hình dung được hình ảnh bài thơ gợi lên vừa
cảm thụ được nhạc điệu của bài thơ mang đến. Nắm được đặc trưng đó, chúng ta
sẽ có một phương hướng chung để đi vào nắm được quy luật chung, tìm ra
phương pháp cơ bản nhất của việc giảng dạy thơ. Phương pháp cơ bản đó sẽ góp
phần hướng dẫn chúng ta trong khi đi tìm những phương pháp cụ thể để giảng
các bài thơ muôn hình muôn vẻ.

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh


4


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Chương 1: Tổng quan.
1.1. Cơ sở lý luận.
- Biện pháp: Cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Ví dụ: Biện
pháp hành chính. Biện pháp kĩ thuật. Có biện pháp đúng.
- Nâng cao: Làm tăng thêm: Nâng cao nhiệt tình cách mạng.
- Chất lượng: là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể
đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn.
- Thơ là một hình thức nghệ thuật dùng từ, dùng chữ trong ngôn ngữ làm
chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một
hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm
mỹ cho người đọc, người nghe.
- Trữ tình: Đây là một tính từ có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách
biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con người trước cuộc
sống.
Ví dụ:
+ Thơ trữ tình.
+ Những làn điệu quan họ mang đậm chất trữ tình”.
- Tác phẩm trữ tình là văn bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả
trước cuộc sống. Thơ là thể loại văn học phù hợp để biểu hiện tình cảm, cảm
xúc, tuy nhiên cũng có thơ tự sự, truyện thơ. Văn xuôi phù hợp với kể chuyện,
tuy nhiên cũng có những loại văn xuôi trữ tình hoặc mang nặng tính chất trữ tình
như tùy bút.
- Thế nào là thơ trữ tình ?

Đây là 1 thể loại thơ ca. Chữ "Trữ tình" là từ Hán Việt, chữ Hán viết 抒抒,
có nghĩa là "bày tỏ tình cảm".
Như vậy "Thơ trữ tình" là 1 thể loại thơ ca có đặc trưng là bày tỏ, nói nên
tư tưởng tình cảm cảu tác giả, thông qua tư tưởng tình cảm phản ánh cuộc sống.
Vì vậy thơ trữ tình không miêu tả quá trình sự kiện, không kể tình tiết đầy đủ
câu chuyện, cũng không miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để
bày tỏ tình cảm (tả cảnh trữ tình)
- Thơ trữ tình Trung Đại:
- Là thể loại văn học được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều
thể thơ, chủ đề viết về tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tình yêu thiên nhiên
và tấm lòng nhân đạo.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

5


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

1.2. Cơ sở thực tiễn
Từ thực tế giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở
trường THCS, phần lớn các giáo viên đều nhận thấy thơ trữ tình Trung Đại là
thể loại văn học tương đối khó, đặc biệt là so với khả năng tư duy còn rất
“non” của đối tượng học sinh lớp 7, hơn nữa các tác phẩm văn học trung đại
được tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX đã cách chúng ta hơn mười thế kỉ, đến
với thế hệ trẻ dưới mái trường phổ thông thế kỉ XXI đã có khoảng cách rất xa
về thời gian. Qua nghiên cứu và giảng dạy, chúng ta đều thấy rõ ở các tác
phẩm thơ trung đại có nhiều bản phiên âm chữ Hán. Phải qua bản dịch nghĩa,
dịch thơ, học sinh mới hiểu được ý nghĩa của tác phẩm. Khó khăn cơ bản là ở
chỗ giáo viên và học sinh phải đối diện trực tiếp với các văn bản, mặc dù có bản
dịch nhưng vẫn còn nhiều chênh lệch; mặt khác, các bài thơ thời này thường

ngắn và ý nghĩa thường ẩn sâu trong các lớp ngôn từ của tác phẩm, đôi khi vượt
ra ngoài ngôn ngữ biểu hiện...Vì vậy, giáo viên thường thụ động dựa vào hướng
dẫn và các bản dịch để giảng cho học sinh mà có phần xa dời nguyên tác tác
phẩm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc chuyển tải cái hay, cái đẹp của
tác phẩm tới học sinh. Do đó, học sinh thường chỉ nhớ "vẹt" ý của bài mà không
hiểu sâu sắc tác phẩm, không phát huy được năng lực sáng tạo; chỉ sau một thời
gian ngắn, những nội dung ấy nếu không được ôn lại, sẽ nhanh chóng ra khỏi
chỗ nhớ, lâu dần, thói quen đó làm mất hứng thú của học sinh đối với bộ môn
Văn.
Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đó và đáp ứng yêu cầu
giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu kĩ chương trình, bổ sung thêm kiến thức từ
các sách nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp,
vừa sức với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn trên để cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ này. Tiếp nhận thơ trữ tình trung đại đối
với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, đặc biệt học sinh lớp 7 quả là điều không
hề đơn giản. Chính vì vậy người giáo viên phải là chiếc cầu nối giúp các em cảm
nhận được thơ ca trung đại, đặc biệt thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân
loại.
Thế kỉ 21 là thế kỉ của sự hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát
triển, lúc này trong suy nghĩ và nhận thức của người học những môn học thời
thượng như: Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ…giữ vị trí quan trọng hơn bao
giờ hết; văn chương không có tính năng ứng dụng, tương lai người học không
được đảm bảo, chính vì thế mà học sinh ngày càng xa rời văn chương. Đặc biệt,
một thực tế đang tồn tại mà bất kì giáo viên nào cũng nhận thấy đó là : Sách
tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến thức, những bài văn
mẫu… quá nhiều, vô hình dung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học
sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương được học dựa vào bài soạn
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

6



Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

ở nhà nhưng chưa một lần đọc bài văn, bài thơ trong sách giáo khoa, thầy có
kiểm tra phát vấn thì các loại sách tham khảo nghĩ hộ, nói hộ tất cả và khi giáo
viên ra đề kiểm tra coi nghiêm túc thì tất thảy đã phơi bày ra, học sinh không
thích, không có hứng thú học văn, chỉ học theo hình thức đối phó miễn sao kết
quả các bài kiểm tra không quá thấp là được.
Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ về việc đưa các biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại, còn có
nhiều ý kiến thảo luận khác nhau trao đổi về việc dạy thơ trữ tình trung đại mà
chưa đi đến một ý kiến thống nhất chung nào đó giữa các giáo viên Ngữ văn
trong tổ.
Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng.
Qua khảo sát kết quả các bài kiểm tra trắc nghiệm và tự luận về việc nắm
kiến thức các tác phẩm thơ trữ tình Trung Đại của học sinh được thể hiện cụ thể
như sau:
* Bài kiểm tra số 1 (đầu năm):
Tổng

Giỏi

Khá

TB

Yếu


Kém

Lớp

số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

7B

32


2

6,25

6

18,75

13

40,6

8

25

3

9,4

* Bài kiểm tra số 2 (cuối học kỳ I)
Tổng

Giỏi

Khá

TB

Yếu


Kém

Lớp

số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

7B

32


2

6,25

8

25

14

43,75

6

18,75

2

6,25

Từ kết quả các bài kiểm tra khảo sát chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn
nói chung và khả năng nắm kiến thức về các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt
Nam của học sinh nói riêng, chúng ta đều thấy rõ chất lượng học tập của các em
học sinh lớp 7B còn rất thấp. Tỉ lệ các bài kiểm tra đạt điểm khá, giỏi còn thấp
so với tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình. Trong khi đó số bài kiểm tra xếp loại
yếu, kém là tương đối cao (Chiếm ¼ tổng số bài kiểm tra) so với mặt bằng
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

7



Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

chung về nhận thức của học sinh. Vậy nguyên nhân do đâu mà lại có tỉ lệ chênh
lệnh như thế ? Thực tế cho thấy, thể loại, thi pháp văn học cổ có nhiều xa lạ với
thi pháp văn học đương đại nên đó là điều khó khăn cho học sinh tiếp nhận.Vốn
sống kinh nghiệm thực tế học sinh còn ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn
cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển cố được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ.
Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển đi lên của đất nước, chúng ta có những
thành tựu quan trong về lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị
trường đã tạo ra những phức tạp và những ảnh hưởng không lành mạnh đối với
đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt là đối tượng học sinh, trong đó
có học sinh bậc trung học cơ sở. Một bộ phận lớn học sinh chịu ảnh hưởng của
các yếu tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức học tập không cao, thiếu tự
giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần văn học khó nhất. Vì thế, chất
lượng học sinh thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm, cách nhìn nhận của phụ
huynh học sinh là sính học các môn Khoa học tự nhiên cũng có những ảnh
hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của học sinh đối với môn Ngữ
văn. Bên cạnh đó, việc lựa chọn phương pháp học tập bộ môn không hợp lí cũng
là nguyên dẫn tới chất lượng các bài kiểm tra của các em chưa cao. Nhiều em
luôn duy trì thói quen học “vẹt”, học trước quên sau; việc ghi nhớ và tái hiện
kiến thức về các tác phẩm thơ trữ tình trung đại của các em chưa tốt; đa số các
chỉ học thuộc các văn bản thơ mà không có phần phiên âm, còn đối với những
văn bản có phần phiên âm thì hầu hết các em đều tỏ ra không mấy thích thú; học
thuộc một cách máy móc nên mất rất nhiều thời gian mà chất lượng bài kiểm tra
cũng không khá hơn. Một nguyên nhân nữa là do khả năng tư duy văn học của
các em chưa cao cùng với việc các em chưa chịu đào sâu suy nghĩ về các tầng ý
nghĩa được ẩn chứa trong những tác phẩm thơ cổ, do đó chất lượng các bài kiểm
tra viết của các em phần lớn là rất thấp. Đó chính là những câu trả lời cho lí do

vì sao chất lượng bài kiểm tra về các tác phẩm thơ trữ tình của học sinh lớp 7B
lại thấp như vậy. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để nâng
cao chất lượng học bộ môn ngữ văn của học sinh, trong đó có phần văn học
trung đại Việt Nam.
2.2. Các giải pháp
Thơ trữ tình trung đại là một vườn hoa rộng lớn, mỗi bài thơ mang trong
mình một dáng vẻ độc đáo riêng về mặt nội dung, song nếu đi sâu phân tích,
bình giá có tính lí luận, chúng ta có thể thấy được trong mỗi bài thơ vẫn chất
chứa những hơi thở chung, gộp lại thành những nét của một phong cách thơ mẫu
mực. Đó là chất cổ điển trong vẻ đẹp, trong màu sắc không gian và thời gian; là
bút pháp chấm phá như muốn ghi lại linh hồn của tạo vật; là điểm nhấn nghệ
thuật rộng mở, tĩnh trong cái động, động chìm trong tĩnh ... Để giúp học sinh có

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

8


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

thể tiếp thu tốt hơn những tác phẩm thơ Đường tôi xin nêu một số cách dẫn dắt
để học sinh tiếp cận và cảm thụ tác phẩm thơ theo hướng tích cực:
2.2.1. Đối với khâu chuẩn bị
Để quyết định sự thành công hay thất bại của một giờ giảng văn thì khâu
chuẩn bị giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với không chỉ học sinh mà với cả
người giáo viên.
- Về phía giáo viên: trước khi tiến hành soạn bài bản thân người giáo viên
cần tìm hiểu bài thật nhuần nhuyễn đến mức thuộc ngay bài thơ, sống trọn vẹn
với những cảm xúc mà tác giả bài thơ gửi gắm trong bài; tiếp đến là tìm hiểu về
tác giả (quê quán, cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác...), hoàn cảnh ra đời

của tác phẩm để hiểu được thấu đáo nội dung tư tưởng của tác phẩm. Hướng dẫn
học sinh soạn kĩ ở nhà (đặt câu hỏi, định hướng phần câu hỏi trọng tâm cần khai
thác...), kiểm tra kĩ bài soạn của học sinh, có biện pháp nhắc nhở, phê bình đối
với học sinh có biểu hiện soạn chống đối như soạn sơ sài, soạn nhưng chỉ là
chép lại mà không hiểu, không nhớ.
- Về phía học sinh: Luôn có ý thức chuẩn bị bài soạn chu đáo trên cơ sở
hướng dẫn của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và sự hướng dẫn của giáo
viên trước tiết học. Ngoài ra, để mở rộng thêm những hiểu biết về tác phẩm, cần
bố trí thời gian đọc thêm tư liệu có liên quan đến tác phẩm, tích cực sưu tầm các
câu thơ, bài thơ có nét tương đồng với tác phẩm sắp học hay các nhận định về
tác phẩm.
2.2.2. Đối với hoạt động dạy học trên lớp:
Hoạt động dạy học trên lớp được thực hiện với nhiều bước quan trọng, đó
là lúc thầy và trò cần phát huy được vai trò trung tâm của mình trong một giờ
học. Chính vì thế khi thực hiện dạy bất kì một văn bản thuộc thể loại nào đi
chăng nữa, người thầy giáo đều phải định hướng học sinh của mình theo các
bước như sau:
Bước 1: Giáo viên nên hết sức coi trọng mà không được coi nhẹ hay bỏ
qua khâu kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, bởi đây chính là tiền đề quan trọng
để đánh giá sự cảm thụ được tác phẩm của học sinh ngay trên lớp.
* Ví dụ: Trước khi học văn bản “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí
Bạch, giáo viên có thể thực hiện các hình thức kiểm tra xem học sinh có chuẩn
bị bài ở nhà hay không bằng những cách sau:
Một là: Đến từng bàn học sinh kiểm tra trực tiếp vở soạn bài của các em.
Hai là: dùng hình thức câu hỏi vấn đáp như “Hãy cho biết tác giả của bài
thơ “Cảm nghĩ...thanh tĩnh” là ai? Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ này?
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

9



Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

Bước 2: giáo viên cần chú ý khâu vào bài để tạo không khí phù hợp với
bài học. Có thể là một bài hát, một bản nhạc, một bức tranh hay một mẩu truyện
ngắn... mang nội dung tư tưởng tương đồng với tác phẩm chuẩn bị học.
* Ví dụ: khi học bài “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” của Hạ Chi
Trương, giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát “Quê hương” của Đỗ Trung
Quân. Âm điệu ngọt ngào cùng lời bài hát đằm thắm, thiết tha khiến học sinh
cảm nhận dễ dàng hơn, cụ thể hơn về tình yêu quê hương trong mỗi con người,
và như vậy, cách tiếp cận với bài thơ sẽ học trở nên dễ dàng hơn.
- Hay khi dạy văn bản “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ.
Trước khi vào bài mới giáo viên chiếu một số những hình ảnh về cảnh tượng của
những địa phương trên cả nước phải gánh chịu hậu quả nặng nề do các trận bão
kinh hoàng vẫn diễn ra hàng năm ở nước. Cụ thể là hình ảnh về những thiệt hại
về người, về của cải vật chất. Sau khi chiếu cho học sinh xem. Giáo viên có thể
đưa những câu mang tính chất liên hệ như sau:
? Sau khi quan sát những hình ảnh trên, em có cảm nhận (hay suy nghĩ) gì
về thiên tai và sự tàn phá của nó.
Từ câu trả lời của học sinh giáo viên có thể tích hợp ngang với hoàn cảnh
gia đình của tác giả Đỗ Phủ trước sự tàn phá của trận bão lớn để vào bài.
Bước 3: Với phần đọc văn bản:
Đọc văn bản thơ trữ tình là một trong những cách giúp học sinh có thể
cảm nhận được vẻ đẹp nhiều hình vẻ của ngôn ngữ văn chương mà mỗi tác giả
muốn gửi gắm đến độc giả của mình. Đồng thời giúp cũng giúp học sinh rèn cho
mình kĩ năng đọc tự tin trước mọi người.
- Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học sinh cũng chính là
bước đầu tiếp cận hình tượng thơ. Chính vì thế mà khi đọc thơ, giáo viên cần
định hướng cho học sinh cần đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa (nếu có), dịch thơ
- Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi động

theo âm vang của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân vật, cái mà
đọc bằng mắt nhiều khi không đạt được. Đọc chính là tạo lên rung động thơ, tạo
lên sự đồng điệu về tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả.
Bước 4: Với phần phân tích:
* Phân tích tác phẩm cần phải gắn liền với thân thế, phong cách tác
giả và hoàn cảnh xã hội nảy sinh tác phẩm, điều đó sẽ giúp học sinh hiểu tác
phẩm một cách đúng đắn, sâu sắc hơn.
* Ví dụ: Khi dạy thơ Đỗ Phủ, giáo viên cần hướng học sinh vào chất
thánh trong con người ông, phong cách thơ ông khác hẳn với Lý Bạch, ông viết
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

10


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

về mọi đề tài và không đề tài nào thoát ly thời cuộc vì cuộc đời ông nhiều gian
nan vất vả. Ông đã có một thời gian ngắn làm quan song từ quan vì xảy ra sự
biến An Lộc Sơn, vả lại bản thân ông cũng không được nhà vua tín nhiệm. Gần
như suốt cuộc đời ông sống trong cảnh nghèo đói bệnh tật. Ông là đại diện của
khuynh hướng thơ hiện thực, ngòi bút của ông luôn hướng vào phía dân nghèo:
… Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
(Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)
Men theo chặng đường thơ Đỗ Phủ sẽ giúp học sinh thấy được bức tranh
hiện thực đời Đường đậm nét. Qua đó hiểu thêm về phong cách thơ của tác giả.
- Việc tìm hiểu về tác giả, tác phẩm giữ vai trò quan trong trong việc định
huớng cho học sinh đi sâu khai thác các giá trị của văn bản. Bởi lẽ trong thực tế
có nhiều tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hoàn cảnh sống, từ phong cách
sáng tác của mỗi tác giả. Và đặc biệt hơn nữa có nhiều sáng tác là sự phản ánh

chủ quan, có chiều sâu về cuộc đời, số phận của chính tác giả được gửi gắm kín
đáo trong mỗi tác phẩm của họ.
* Ví dụ: Khi dạy văn bản “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, giáo
viên có thể giới thiệu cho học sinh những thông tin cần thiết, có liên quan trực
tiếp đến nội dung văn bản:
Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 抒抒抒) là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19 (1772-1822). Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy
tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần
chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp
bức trong xã hội.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất
hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều
làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc.
- Dạy thơ trung đại, cần lưu ý xác lập một cái nhìn biện chứng và lịch sử.
Các tác phẩm văn học trung đại được sáng tạo và truyền bá trong những hoàn
cảnh lịch sử nhất định. Tựu chung những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa
của cuộc sống văn hoá, tinh thần của dân tộc đã in đậm dấu ấn trên những tác
phẩm này. Nếu không đặt tác phẩm trong mối liên hệ với hoàn cảnh lịch sử, bản
thân tác giả.... nhiều khi chúng ta không thể hiểu, lí giải chính xác và thấu đáo
những vấn đề trong tác phẩm.
- Ví dụ: Khi dạy văn bản “Nam quốc sơn hà” – Lí Thường Kiệt, giáo viên
sẽ định hướng cho học sinh thấy được hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn liền với một
mốc lịch quan trọng của dân tộc, đó là sự kiện quân ta đánh tan quân Tống bên
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

11


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”


sông Như Nguyệt đầu năm 1077 để học sinh có thể ghi nhớ được những kiến
thức lịch sử quan trọng của dân tộc. Từ đó biết bồi đắp thêm tình cảm, niềm tự
hào đối với lịch sử dựng nước và giữa nước hào hùng của dân tộc ta.
* Dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại phải chú ý đến đặc trưng thể
loại:
Cho học sinh tìm hiểu về thể loại và đặc trưng của từng thể loại. Mỗi thể
loại văn học trung đại nói chung. Thơ trung đại nói riêng có dạng thức tồn tại và
phương thức biểu đạt nhất định. Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là đi
vào thi pháp- đi lại con đường của người sáng tác để có thể thâm nhập và hiểu
tác phẩm được dễ dàng. Cho học sinh nắm được thi pháp của thơ trung đại. Thơ
Đường luật gồm có các thể thơ: Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú...Dạy thơ Đường luật
thất ngôn bát cú (thể thơ được học nhiều ở THCS) cần chú ý các đặc điểm về
vần, niêm luật, đối và kết cấu, ngôn ngữ.
+ Bố cục của bài (thường theo đặc trưng thể loại hoặc theo nội dung văn
bản (diễn biến tình cảm, tâm trạng nhân vật). Căn cứ vào đó, giáo viên cần có
cách tìm hiểu linh hoạt:
* Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Qua Đèo Ngang” của (Bà huyện Thanh Quan),
giáo viên nên hướng dẫn học sinh khai thác theo bố cục của bài thất ngôn bát cú,
vì đây là một bài thơ tuân theo các quy định nghiêm ngặt của phong cách thơ
Đường, gồm 4 phần đề - thực – luận – kết, ở mỗi phần luôn có sự song hành bức
tranh cảnh và bức tranh tâm trạng, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh khai
thác tìm hiểu.
Nhưng khi tiến hành dạy bài thơ “Bạn đến chơi nhà” (Nguyễn Khuyến),
vẫn là kết cấu: đề - thực – luận – kết, vẫn đủ 8 câu với niêm, luật, vần, đối rất
chuẩn như luật thơ Đường quy định nhưng bài thơ này lại có sự phá cách ở ý
tưởng, ở cấu tứ bài thơ. Vì thế, khi dạy bài thơ này nên đi theo diễn biến tự
nhiên quá trình cảm xúc của nhân vật trữ tình, nên chia bài thơ theo 3 ý như sau:
1-Cảm xúc khi bạn tới chơi (câu 1); 2-Cảm xúc về gia cảnh (câu 2 đến câu 7); 3Cảm xúc về tình bạn (câu 8).
+ Nhịp thơ, vần thơ, thanh điệu, âm hưởng: Đây là các yếu tố không thể
thiếu trong bất kì một tác phẩm thơ trữ tình nào, bởi chúng góp phần thể hiện

cảm xúc của chủ thể hay nhân vật trữ tình, nó cũng chính là căn cứ để đánh giá
tài năng nghệ thuật của bất kỳ nhà thơ nào. Do đó, khi tiến hành dạy các văn bản
trữ tình trung đại người giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh khai thác một
cách triệt để các yếu tố này.
* Ví dụ:

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

12


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

- Khi học bài thơ “Nam quốc sơn hà”, giáo viên cần để học sinh thấy nhịp
thơ chậm thể hiện nội dung tư tưởng của bài, đó là lời tuyên bố dõng dạc, đanh
thép về quyền tự chủ của dân tộc.
- Đối với bài “Tụng giá hoàn kinh sư”, cần giúp học sinh phát hiện và
thấy được tác dụng của việc sử dụng nhịp thơ nhanh, dồn dập nhằm diễn tả khí
thế chiến thắng của tướng sĩ nhà Trần.
- Còn khi dạy bài “Qua Đèo Ngang” giáo viên có thể giúp học sinh quan
sát và phát hiện được vai trò của thanh điệu trong việc thể hiện tình cảm “nhớ
nước, thương nhà” của Bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước Đèo Ngang qua
những câu thơ rất giàu tình cảm như:
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Đau lòng mỏi miệng cái gia gia...”
+ Ngôn từ, chi tiết, hình ảnh thơ: khi khai thác bài, giáo viên cần chú ý
đến hệ thống từ ngữ được sử dụng, đó là các tính từ, các từ láy gợi hình gợi cảm,
các động từ, các hình ảnh thơ... để thể hiện sâu sắc, rõ nét bức tranh cảnh và bức
tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình.
* Ví dụ:

- Trong bài “Chinh phụ ngâm khúc”, một số tính từ được sử dụng có giá
trị biểu cảm cao: “xanh xanh”, “xanh ngắt”, sự có mặt của các tính từ này khiến
cho mức độ màu xanh ngày càng đậm lại, cả một không gian như thấm đẫm sắc
xanh vời vợi, mênh mông, thăm thẳm. Đó không chỉ là màu xanh cụ thể mà là
màu xanh trừu tượng (màu xanh tâm trạng): màu xanh nhung nhớ, màu xanh cô
đơn, màu xanh của sự chia lìa, buồn khổ và hoàn toàn tuyệt vọng. Chính màu
xanh ấy đã góp phần làm nổi bật tâm trạng cô đơn trĩu nặng của người chinh
phụ.
- Trong bài “Thiên Trường vãn vọng” (Trần Nhân Tông), tìm hiểu 2 câu
cuối, giáo viên nên chú ý hướng học sinh vào khai thác 2 hình ảnh mà tác giả
lựa chọn: “mục đồng” và “cò trắng”: trên những con đường nhỏ quanh co trở về
thôn xóm, từng đàn trâu nối đuôi nhau trong âm thanh tiếng sáo chiều réo rắt,
văng vẳng; trên những cánh đồng quê yên ả, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp
hạ xuống. Ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ đầy âm thanh và màu sắc, thanh tao và
dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động tả tĩnh, cảnh đồng quê thanh
bình, êm đềm, tĩnh lặng và tràn đầy sức sống.
+ Đặc biệt, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh khai thác triệt để
những từ được coi là “nhãn tự” của bài thơ.
* Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, giáo viên
cần giúp học sinh phát hiện ra “nhãn tự” của bài thơ chính là từ “xuân”.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

13


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

+ Phép tu từ: Trong các tác phẩm thơ trữ tình trung đại thường sử dụng
chủ yếu các phép tu từ như: điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, đặc biệt phép đối....
Giáo viên nên hướng dẫn học sinh phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật cơ bản

và từ đó cảm nhận được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó đem lại.
* Ví dụ:
- Trong bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” - Hạ Chi Trương,
câu thơ “Hương âm vô cải mấn mao tồi”, ta thấy có phép tiểu đối: giọng quê
không đổi >< mái tóc đã thay đổi. Phép đối càng làm nổi bật tình cảm, tâm trạng
của nhân vật trữ tình: cho dù thời gian có làm cho mái tóc thay đổi nhưng tình
cảm với quê hương không hề đổi thay, trước sau như một, vẫn nguyên vẹn, thắm
thiết, bền chặt.
- Trong bài “Côn Sơn ca” (Nguyễn Trãi), việc sử dụng nghệ thuật so sánh
“Côn Sơn suối chảy rì rầm – Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”, điệp từ “ta”
khiến khung cảnh thiên nhiên trở nên thanh cao, khoáng đạt, thanh tĩnh, nên thơ.
Thiên nhiên đã trở thành người bạn tri kỉ, gắn bó, hòa vào tâm hồn Nguyễn Trãi.
- Trong bài “Qua đèo Ngang”, việc sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo cấu
trúc ngữ pháp trong hai câu thơ “Lom khom duới núi tiều vài chú – Lác đác bên
sông chợ mấy nhà” đã góp phần diễn tả được sự cô đơn, lẻ loi của con người
trước cảnh Đèo Ngang vắng vẻ, thưa thớt khi chiều tà.
+ Luôn có sự kết hợp hài hoà giữa phiên âm, dịch nghĩa với dịch thơ
(với những văn bản chữ Hán) để học sinh hiểu đầy đủ dụng ý nghệ thuật của tác
giả:
- Dạy thơ tiếng nước ngoài qua bản dịch (đặc biệt là thơ chữ Hán) quả là
không dễ đối với người dạy. Thực tế cho thấy, ở một số văn bản thơ chữ Hán
giữa nguyên tác và bản dịch vẫn có độ chênh: Hao hụt hoặc sai lệch ít nhiều …
Vì lẽ đó, khi dạy những tác phẩm loại này, giáo viên thường gặp rất nhiều lúng
túng. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra cho người dạy như : nên cho học sinh cảm
nhận theo hướng nào ? Phân tích bài thơ ra sao ? Bắt đầu khai thác từ đâu ? ...
Kết quả là không ít giáo viên khi dạy mảng văn thơ dịch mới chỉ đưa học sinh
vào những hướng cảm thụ một cách sơ sài, đôi khi còn chưa sát ý.
Việc đối chiếu phần dịch nghĩa và dịch thơ với nguyên âm trong quá trình
giảng văn là một thao tác hết sức cần thiết để giải mã tác phẩm một cách có hiệu
quả. Để tiến hành, trong quá trình dạy giáo viên cần định hướng cho học sinh

vào với không khí của sự so sánh, đối chiếu.
• Chẳng hạn, khi dạy bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) của
Lí Bạch giáo viên cần đưa ra cho học sinh các câu hỏi dạng như:
- Ở mỗi câu trong phần dịch thơ có gì khác với bản phiên âm?
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

14


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

- Từ nào, ý nào đã bị mất trong bản phiên âm đã bị mất khi chuyển sang
bản dịch thơ ?
Phiên âm:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.

Dịch nghĩa : Ánh trăng sáng đầu giường ,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Dịch thơ : Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Bản dịch dùng 2 động từ "rọi" và " phủ" chỉ biểu hiện được chủ thể là ánh
trăng, nhưng trong nguyên tác, dùng một động từ "nghi" - đã biểu thị được chủ
thể là con người. Chính điều này ở bản dịch thơ làm cho ý vị trữ tình của bài thơ
trở nên mờ nhạt và tạo cảm giác 2 câu đầu chỉ đơn thuần tả cảnh - Thực ra, chủ
thể ở đây vẫn là con người: con người thấy ánh trăng sáng ngỡ là mặt đất phủ
một lớp sương trắng…điều đó cho thấy việc dịch sát ý và đối chiếu giữa phiên
âm, dịch nghĩa, dịch thơ là vô cùng quan trọng trong việc cảm thụ cái hay, cái
đẹp của bài thơ.

Từ dẫn chứng cụ thể trên, chúng ta rất dễ dàng nhận thấy là giữa bản
phiên âm và bản dịch thơ đôi khi còn có sự chênh lệch khá xa. Nếu chỉ chú trọng
đến việc phân tích bản dịch thơ mà quên đi nguyên tác e rằng học sinh chỉ hiểu
được cái hay trong văn bản thơ của dịch giả mà không hiểu hết những nét riêng,
những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới độc giả qua sáng tạo nghệ thuật của
mình.
+ Chú ý đến cảnh và tình được thể hiện trong tác phẩm: các thi nhân
xưa thường tức cảnh sinh tình, nhìn cảnh mà nghĩ đến mình, cảnh là cái cớ để
bộc lộ tình cảm trong lòng, tâm cảnh chi phối cái nhìn ngoại cảnh. Cảnh và tình
có liên hệ mật thiết với nhau, vì vậy, khi khai thác, giáo viên cần bám chắc vào
đặc trưng này.
* Ví dụ: Dạy bài “Qua Đèo Ngang” (Bà huyện Thanh Quan), cần chú ý
hai bức tranh ngoại cảnh và tâm cảnh song song: ẩn bên trong bức tranh một
Đèo Ngang hoang sơ, hiu hắt, vắng lặng khi chiều tà là nỗi lòng nhớ nước
thương nhà của một con người cô đơn, nặng lòng hoài cổ.
Hay khi dạy văn bản “Sau phút chia ly” của Đoàn Thị Điểm, một lần nữa
chúng ta lại cảm nhận được những cung bậc tình cảm của người chinh phụ được
gửi gắm vào bức tranh khung cảnh thiên nhiên:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

15


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?...
Ở bốn câu thơ cuối này, nỗi buồn chia li đã trở thành một khối sầu thuơng

nặng trĩu trong tâm hồn người chinh phụ. Mọi địa điểm vị trí của câu thơ trước
đều bị nhòa mờ đi. Chỉ còn lại những hàng dâu nối nhau xanh xanh rồi xanh
ngắt, xanh đến rợn ngợp, xanh đến não nề, nhứt buốt tận đáy lòng. Để đến cuối
cùng người chinh phụ phải thốt lên một lời kêu: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn
ai?”. Như vậy đến lúc này tác giả không tả cảnh ngụ tình nữa mà đã chuyển sang
tả trực tiếp vào tâm trạng của người chinh phụ, và dường như đó cũng là chính
tâm sự của tác giả. Từ “sầu” trong câu cuối như đúc kết lại tất cả những cung
bậc tình cảm ở những câu trên. Đó là nỗi buồn biệt li đã trở thành nỗi sầu trong
lòng người vợ trẻ.
+ Cuối cùng một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương
pháp dạy học trong giờ Đọc – hiểu thơ trữ tình là giảng bình.
Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ đọc – hiểu văn
bản là rất cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm
xúc của học sinh khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là
những giáo viên có những lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn
tượng mãi.
Khi bình các thủ pháp nghệ thuật cũng phải chú ý lựa chọn. Trong mỗi
khổ thơ hoặc ngay trong một dòng thơ, tác giả cũng đã sử dụng nhiều thủ pháp
nghệ thuật khác nhau. Nếu bình tất cả thì không có thời gian, dẫn tới tình trạng
san bằng một cách bình quân mọi yếu tố nghệ thuật. Như vậy không thể làm nổi
bật cái hay, cái đẹp của các yếu tố nghệ thuật chủ yếu. Khi nhận ra những tín
hiệu nghệ thuật quan trọng phải tiến hành giảng dạy cho mạch lạc ý tứ mà câu
thơ thể hiện sau đó mới đi bình.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh phân tích hết bài thơ “Bạn đến chơi nhà”
của Nguyễn Khuyến, giáo viên có thể cho học sinh so sánh cụm từ “ta với ta”
trong bài thơ này với cụm từ “ta với ta” trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà
huyện Thanh Quan, trên cơ sở đó giáo viên có thể bình về tình cảm của Nguyễn
Khuyến đối với bạn: Nếu “ta với ta” trong bài “Qua Đèo Ngang” là mình ta đối
diện với chính ta, là sự cực tả nỗi cô đơn đang xâm chiếm toàn bộ cõi lòng
người lữ khách thì “ta với ta” trong bài “Bạn đến chơi nhà” ấm áp tình bạn, ta

với ta là tôi với bác, tuy hai mà một, là sự gắn bó thắm thiết của một tình bạn
chân thành, trong sáng, cao đẹp.
* Khi hướng dẫn HS phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi
hợp lí để khai thác nghệ thuật và nội dung của bài:
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

16


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

- Phần lớn các câu hỏi được đưa ra phải vừa sức học sinh, thích hợp với
khuôn khổ một giờ học trên lớp, vừa phải có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ tìm
tòi sáng tạo cho học sinh.
- Câu hỏi không thể đưa một cách tuỳ tiện mà cần phải được xây dựng
thành một hệ thống lôgíc, có tính toán giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác
phẩm như một chỉnh thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi
tổng hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối qui nạp
nhưng đều nhằm cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
+ Khi đặt câu hỏi, chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp:
- Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy.
- Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
bài soạn. Xây dựng hệ thống câu hỏi riêng của mình cho bài soạn.
- Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi về cùng một
nội dung;
- Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế
trả lời của các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp.
* Ví dụ: Khi dạy khúc ngâm cuối đoạn trích “Chinh phụ ngâm khúc”
(Đặng Trần Côn), giáo viên có thể xây dựng hệ thống câu hỏi sau để định hướng

cho học sinh nắm bắt các nội dung và nghệ thuật cơ bản trong đoạn trích:
- Không gian li biệt nào được mở ra trong khúc ngâm thứ 3 ?
- Từ ngữ sử dụng trong đoạn thơ này có gì đặc biệt ?
- Phép láy và lặp từ có giá trị gợi tả một không gian như thế nào ?
- Thông thường, màu xanh tượng trưng cho điều gì? Tuy nhiên, màu xanh
trong mắt người chia li lại gợi cảm giác nào khác ?
- Phần cuối khúc ngâm có sử dụng một số phép tu từ đặc sắc, em hãy chỉ
ra ?
- Phép điệp nối tiếp, câu hỏi tu từ cùng với chữ “sầu” đặt cuối bài có tác
dụng gì trong việc diễn tẩ tâm trạng người chinh phụ ?
2.2.3. Đối với phần hướng dẫn về nhà:
- Phần hướng dẫn về nhà tuy không được bố trí nhiều thời gian nhưng nó
đòi hỏi người giáo viên cần có sự định hướng chuẩn bị thật chu đáo cho học sinh
về những đơn vị kiến thức nào cần phải học đối với bài vừa học và những đơn vị
kiến thức nới nào phải chuẩn bị cho tiết học sau. Đối với phần nay giáo viên có
thể yêu cầu học sinh sưu tầm các câu thơ, bài thơ cùng chủ đề của chính tác giả
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

17


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

đó hoặc của những tác giả khác, cùng thời hoặc khác thời để mở rộng kiến thức
về tác phẩm đã học, phần sưu tầm cần ghi riêng vào một quyển sổ tay văn học
- Cho học sinh sưu tầm những ý kiến nhận xét về tác phẩm.
- Yêu cầu học sinh viết đoạn văn cảm thụ về một chi tiết, hình ảnh hay nội
dung tư tưởng trong tác phẩm.
- Hướng dẫn học sinh soạn kĩ bài sau.
Để giờ dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại lớp 7 đạt hiệu quả cao, đòi hỏi

người giáo viên cần áp dụng các phương pháp giảng dạy linh hoạt với từng đối
tượng học sinh, với từng bài dạy; bản thân người giáo viên cần tích cực đọc, tìm
tòi, nghiên cứu tài liệu để có cái nhìn sâu rộng về tác phẩm, trên cơ sở đó từng
bước hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc cảm thụ, đi tìm
cái đẹp, cái hay của tác phẩm văn học. Thành công của một giờ dạy là không chỉ
rèn cho học sinh năng lực cảm thụ văn học, mà quan trọng hơn, những tác phẩm
văn học ấy đã có sự tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của học sinh.
2.2.4. Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học:
Việc chuyển đổi sách giáo khoa Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích
hợp là một yêu cầu mới trong việc giáo dục đào tạo của bộ môn. Đây là sự
chuyển biến có ý nghĩa thời đại chắc chắn sẽ đưa đến chất lượng dạy và học
được nâng lên. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm tích hợp vào việc dạy - học
Thơ trữ tình trung đại là một vấn đề không dễ dàng và không phải lúc nào cũng
làm được.
Trong khi tiến hành tổ chức học sinh tiếp cận văn bản, đặc biệt những bài
thơ có phiên âm chữ Hán, giáo viên có thể khéo léo phá bỏ hàng rào ngôn ngữ
ấy bằng việc tổ chức học sinh vận dụng những kiến thức về "nghĩa của từ" (lớp
6) "Từ đồng nghĩa" "từ trái nghĩa", từ "Hán Việt" (lớp 7) tạo ra một con đường
mới mà học sinh có thể dễ dàng cảm nhận được văn bản Thơ chữ Hán một cách
chủ động sáng tạo.
Ngoài ra, trong các bài thơ đều là sự kết hợp của nhiều phương thức biểu
đạt mà học sinh lớp 7 đã từng học. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
giúp học sinh tích hợp các phương pháp biểu đạt trên vào mỗi văn bản. Từ đó
tạo ra tác dụng 2 chiều. Một mặt học sinh có điều kiện củng cố thêm về các loại
văn bản đã học, mặt khác học sinh nhờ sự lồng ghép liên môn ấy hiểu hơn về nội
dung và phương thức biểu cảm trong Thơ trữ tình trung đại.
Câu hỏi trong dạy - học có vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến
thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Ngoài hệ thống câu hỏi tư duy cảm thụ
để phát huy khả năng tích cực của học sinh còn có một hệ thống câu hỏi tích hợp
đáp ứng với yêu cầu tích hợp của chương trình mới, giúp học sinh vận dụng kiến

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

18


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

thức, kỹ năng về tiếng để cảm nhận thuyết giải các văn bản trên cơ sở đã thực
hành tạo lập văn bản.
* Ví dụ: Khi dạy văn bản “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” (Lý Bạch),
giáo viên có thể đưa ra hệ thống câu hỏi như sau:
1. Bài thơ làm theo thể thơ nào ? Giống với thể thơ bài thơ nào trong
phần thơ Đường luật của các tác giả Việt Nam ? (Tích hợp thơ Đường luật Việt
Nam đã học trước đó, văn bản "Phũ giá về kinh").
2. Em có nhận xét gì về nghĩa cặp từ: "Đê - Cử" ? (Tích hợp từ trái
nghĩa).
4. Nhìn trăng nhớ quê, nhà thơ đã thể hiện đề tài nào quen thuộc trong
thơ cổ ? (Vọng nguyệt hoài hương). (Tích hợp dọc).
5. Văn bản này là sự kết hợp của những phương thức biểu đạt nào ?
Trong sự kết hợp này phương thức nào là phương thức chính, phương thức nào
là phương tiện ?
• Văn bản : Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Đỗ Phủ)
1. Văn bản này có thể chia làm mấy phần ? Xác định phương thức biểu
đạt của mỗi phần ? (Tích hợp ngang Tập làm văn).
2. Đoạn 1, tìm những từ đồng âm với từ "thu", "bay", "tranh" ?
3. Đoạn này câu nào là câu tả , câu nào là câu kể ?
4. Đoạn 2, tìm những từ kể cách cướp giật tranh ? Nêu 1 vài từ đồng âm
với từ "xô, cắp " (Tích hợp từ đồng âm).
2.2.5. Kết hợp với sử dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy như: Việc sử
dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy về tác phẩm thơ trữ tình trung đại góp

phần làm tăng thêm hiệu quả cho bài dạy, đồng thời tăng thêm hứng thú tìm hiểu
cho học sinh. Việc trình chiếu chân dung tác giả, tên các tác phẩm, hoàn cảnh
sáng tác tác phẩm, những ý kiến bình luận về tác phẩm, những trò chơi sáng tạo,
đơn giản sẽ góp phần làm cho giờ học hấp dẫn, sinh động.
* Ví dụ: khi dạy văn bản “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh”, giáo viên có
thể chiếu hình ảnh về tác giả Lí Bạch và một số thông tin cần thiết giúp học sinh
có thể mở rộng thêm những hiểu biết về tác giả của bài thơ.

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

19


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng đời
Đường Trung Quốc, tính tình hết sức tự
phụ, nhân cách độc lập tự tin, kiêu căng,
khí phách phóng khoáng tự nhiên, tình cảm
lãng mạn sáng tác tự do, thể hiện đầy đủ
tính cách thời đại và diện mạo tinh thần của
trí thức ở thời kỳ phồn vinh đời Đường
Trung Quốc.
Từ lúc 20 tuổi, nhằm tăng thêm kiến
thức, Lý Bạch đến các nơi du lịch. Vì ông
có kiến thức uyên bác, có tài năng và trí tuệ
xuất sắc, cho nên ông có thành tựu xuất sắc
về mặt thơ ca.

Lí Bạch (701 – 762)


2.3. Kết quả.
Sau một năm tiến hành thực nghiệm chuyên đề về một số biện pháp nâng
cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở môn Ngữ
văn 7 - Trường THCS Tiên Lãng, đặc biệt là qua các bài kiểm tra khảo sát, kiểm
tra định kỳ, kiểm tra miệng, kiểm tra 15’ trong các học kỳ đối với học sinh lớp
7B, tôi đã thu được những kết quả sau:
- Kết quả thực tế:
+ Đa số học sinh đã chủ động tích cực học và có nhiều sáng tạo trong việc
cảm thụ tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Với việc xây dựng hệ thống
câu hỏi khai thác kiến thức trong giảng dạy tác phẩm văn học các em đã chủ
động thâm nhập tác phẩm và cảm thụ tốt hơn. Đồng thời còn tự phát hiện ra
điểm yếu của bản thân mình để tự sửa chữa.
+ Học sinh có ý thức trong việc tìm hiểu và cảm thụ văn bản. Đó chính là
nâng cao hứng thú học tập bộ môn của học sinh.
- Kết quả học các tác phẩm văn học:
Đạt chỉ tiêu đề ra từ đầu năm học. Cụ thể như sau:
Tổng

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

Lớp


số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

7B

32

3

9,4


13

40,6

15

46,9

0

0

0

0

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

20


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

- Kết quả chất lượng bộ môn Ngữ văn:
Tổng

Giỏi

Khá


TB

Yếu

Kém

Lớp

số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


7B

32

3

9,4

12

37,5

15

46,9

2

6,3

0

0

- So sánh với kết quả học kỳ II năm học trước.
* Kết quả bộ môn Ngữ văn năm học 2012- 2013

Lớp
7B


Tổng

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

32

3

9,4

10

31,3

16

50

3

9,4

0

0

* Kết quả bộ môn Ngữ văn năm học 2013 - 2014

Lớp

7B

Tổng

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

số

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

32

3

9,4

11

34,4

16

50

2

6,3

0

0

- Chất lượng mũi nhọn:
+ Đạt 01 giải khuyến khích cấp Huyện (Em Phạm Thị Như Quỳnh).

2.4. Bài học kinh nghiệm
* Dạy văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng tạo.
Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng một cách linh hoạt
các phương pháp dạy học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy học văn bản trở
nên phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy tác
phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam là một hoạt động mang tính chuyên môn của
người giáo viên dạy văn trong quá trình thực thi giảng dạy chương trình thay sách
theo hướng tích hợp. Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn bản thơ
trữ tình trung đại nói riêng và cho bộ môn Ngữ văn nói chung.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

21


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

* Trải qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi, tích luỹ các nguồn tư liệu cùng
với việc vận dụng vào thực tế giảng dạy trong năm học 2013 – 2014, bản thân
tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại
trong môn Ngữ văn 7, người giáo viên cần:
- Đầu tư nhiều thời gian vào bài soạn, nghiên cứu kỹ để có câu hỏi thảo luận
cho học sinh.
- Hệ thống câu hỏi được xây dựng phải khuyến khích được tất cả các đối
tượng học sinh trong lớp cùng suy nghĩ. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, vừa sức để
học sinh có thể trả lời.
- Ngay từ đầu, xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những qui định
đối với học sinh về việc học nói chung, môn văn nói riêng.
- Hướng dẫn cho học sinh cách học cũng như cách soạn bài (Nhất là đối với
những văn bản có phần phiên âm).

- Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh.
- Cần tôn trọng ý kiến học sinh, tạo điều kiện, dẫn dắt học sinh thể hiện quan
điểm cá nhân của mình.
- Thực hiện tốt các bước lên lớp đối với việc giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình
trung đại.
* Với việc áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7 trong
năm học 2013 – 2014 bước đầu tôi đã thu được một số những thành công nhất
định. Cụ thể như sau:
- Chất lượng học tập bộ môn ngữ văn của học sinh so với đợt khảo sát đầu
năm học được nâng lên rõ rệt. Có một học sinh đạt giả khuyến khích cấp huyện, 3
học sinh đạt học sinh giỏi cấp trường, 12 học sinh đạt học sinh khá bộ môn ngữ
văn. Tỉ lệ yếu kém giảm mạnh so với đầu năm xuống chỉ còn 2 em.
- Ý thức học tập của học sinh đối với bộ môn ngữ văn đã có sự thay đổi.
Nhiều học sinh tỏ ra thích, say mê, có nhu cầu khám phá, thưởng thức cái hay, cái
đẹp trong những văn bản thơ trữ tình trung đại đã học. Đặc biệt hơn nữa là nhiều
em đã trở nên yên thích, có tình cảm đặc biệt đối với các tác phẩm thơ trữ tình mà
trước đây các em đã từng coi nhẹ và bỏ qua giá trị của nó trong từng lớp ngôn từ.
* Bên cạnh những thành công nhất định mà tôi thu nhận được trong quá
trình thực hiện đề tài này, vẫn còn những mặt hạn chế nhất định mà bản thân tôi và
các đồng nghiệp gặp phải:
- Kết quả thi học kỳ chất lượng chưa cao do việc nắm bắt kiến thức của học
sinh quá mờ nhạt, nhiều học sinh chưa có ý thức ôn bài trước khi kiểm tra.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

22


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

- Nhiều học sinh vẫn tỏ ra không yêu thích môn ngữ văn, có tư tưởng học

chống đối mà không cần biết mình có nắm được kiến thức cơ bản hay không.
- Do chưa có sự thống nhất trong tổ về phương pháp giảng dạy về tác phẩm
thơ trữ tình trung đại nên vẫn còn tình trạng “ai thích dạy kiểu gì thì dạy”. Chính vì
thế mà chất lượng học tập của học sinh không đồng đều.
- Tài liệu về các tác phẩm thơ trữ tình trung đại còn ít ỏi; đôi khi chưa đáp
ứng được nhu cầu cần tìm hiểu, cần khám phá của học sinh và nhu cầu giảng dạy
của giáo viên.
III. PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Dạy học thơ trữ tình trung đại đòi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với
dạy văn bản tự sự hay miêu tả. Cái khó nhất là với mỗi bài thơ, làm sao để học
sinh nắm được cái hồn thơ, nhận ra được vẻ đẹp lung linh rất khó nắm bắt. Vì
vậy mà trong quá trình khai thác, giáo viên cần biết nên hướng dẫn học sinh tìm
hiểu theo bố cục thể loại, theo mạch cảm xúc, trật tự các từ trong câu, biện pháp
tu từ...là điều có ý nghĩa rất quan trọng. Mỗi nhà thơ có cách nói riêng. Vẻ đẹp
trong mỗi bài như mỗi bông hoa mang hương sắc riêng. Có bài đẹp ở tứ, có bài
đẹp ở tình, có bài đẹp ở câu, có bài đẹp ở lời, có bài đẹp ở giọng điệu, có bài lại
đẹp ở tất cả. Việc giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận cần phải hết sức linh
hoạt để mang lại giờ học đạt kết quả cao.
Do những hạn chế về kinh nghiệm của bản thân, cũng như thời gian
nghiên cứu đề tài chưa nhiều nên không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, tôi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện hơn.
2. Kiến nghị.
* Với nhà trường:
- Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới: Tranh ảnh, đồ dùng
trực quan...) để giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của các tác giả thơ trữ tình
trung đại Việt Nam.
* Với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Cần tăng cường triển khai thực hiện nội dung các chuyên đề có áp dụng

các biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại
Việt Nam để giáo viên các trường có cơ hội giao lưu, học hỏi và trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy với nhau.
Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

23


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

Tôi xin chân thành cảm ơn và tiếp thu ý kiến !
Tiên Lãng, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Người viết

Đỗ Mai Thanh

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

24


Kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình... ”

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO - PHỤ LỤC
1. Danh mục tài liệu tham khảo:
STT

TÊN TÀI LIỆU

1


Một số kiến thức, kĩ năng và bài tập nâng cao môn ngữ văn 7.

2

Bồi dưỡng thường xuyên - chu kỳ III.

3

Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS.

4

Báo giáo dục và thời đại

5

Tạp chí Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản giáo dục.

6

Dạy học văn bản Ngữ văn THCS theo đặc trưng phương thức biểu đạt Tác giả: Trần Đình Chung.

7

Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 7.

8

Tuyển tập các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam.


9

Những bài văn mẫu 7 (Tập 1)

10

Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 7.

Người thực hiện: Đỗ Mai Thanh

25


×