TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN NGỌC ANH
DIỄN NGÔN VỀ PHỤ NỮ
TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
(Khảo sát qua một số hiện tƣợng tiêu biểu)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Diễn ngôn về phụ nữ
trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ quý báu từ phía nhà trường, các thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện để tôi kịp hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Cuối cùng tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên cạnh, động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng năm 2016
Người viết
Nguyễn Ngọc Anh
LỜI CAM ĐOAN
Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh,
sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: Diễn ngôn
về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Tôi xin cam đoan
rằng kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực, không trùng lặp
với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng tất cả những thông tin trích
dẫn trong báo cáo đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng năm 2016
Người viết
Nguyễn Ngọc Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
7. Dự kiến đóng góp của khóa luận................................................................... 6
8. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN .................................................. 7
1.1. Một số hướng tiếp cận diễn ngôn ............................................................... 8
1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học ............................................................................ 8
1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học ......................................................................... 9
1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học ................................................................................11
1.2. Khái niệm diễn ngôn (theo Foucault) ...................................................... 13
1.3. Cấu trúc và sự vận hành của diễn ngôn ................................................... 15
Chƣơng 2. CƠ CHẾ KIẾN TẠO DIỄN NGÔN VỀ PHỤ NỮ TRONG
THƠ NỮ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 ........................................ 19
2.1. Ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam từ góc
nhìn diễn ngôn ................................................................................................. 19
2.2. Cơ chế kiến tạo diễn ngôn ........................................................................ 28
2.2.1. Cái nhìn xã hội hóa về giới nữ như một nguyên tắc kiến tạo diễn ngôn ......28
2.2.2. Phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”....................31
2.2.3. Tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc ......................................44
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XX là thế kỉ của lí luận phê bình văn học. Trong bối cảnh nhiều
lí thyết văn học ra đời, mở ra những cách tiếp cận khác nhau đối với văn học
như: chủ nghĩa cấu trúc, thi pháp học, văn hóa học… thì sự ra đời của lí
thuyết diễn ngôn đã tạo ra một cách tiếp cận mới mẻ nhưng cũng gây nên
không ít tranh cãi. Cách tiếp cận này không đi sâu tìm hiểu các đặc trưng
thẩm mỹ, mà chủ yếu đi vào nghiên cứu tác phẩm ở phương diện tư tưởng,
thế giới quan; nghiên cứu cách nhà thơ, nhà văn kiến tạo thế giới và bộc lộ
cách cảm, cách nghĩ của họ về một vấn đề nào đó của đời sống trong văn học.
Như thế, khi đặt vấn đề nghiên cứu Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ
Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 (Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu),
tức là ta không chỉ nghiên cứu ngôn từ thẩm mỹ của tác phẩm mà chủ yếu tập
trung các quy tắc tư tưởng xã hội đã chi phối cảm xúc và sáng tác của các nhà
thơ. Trên thực tế sáng tác, việc nhà thơ “nói” gì, nói như thế nào không chỉ
phụ thuộc vào ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào hệ thống tri thức của mỗi thời
đại và tính quyền lực của tri thức đó. Cho nên, văn học trong từng giai đoạn
lịch sử chỉ được kiến tạo theo những hệ tri thức nhất định, tạo nên hệ quả là
ngôn ngữ được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm, không chỉ là công cụ phản
ánh, mà còn là nội dung, là sự kiến tạo nội dung.
Như thế, cách nghiên cứu từ góc nhìn diễn ngôn mà chúng tôi sử dụng,
cho dù không mâu thuẫn hay bác bỏ những cách nghiên cứu trước đây, nhưng
nó lại cho phép xem xét văn học ở những bình diện mới mẻ. Đây là kiểu
nghiên cứu liên ngành, cho thấy được mối quan hệ khăng khít giữa văn học và
tư tưởng; giữa văn học và văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mỹ.
Thơ nữ giai đoạn 1954 - 1975, với các sáng tác nổi bật của Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Lê Thị Mây, Nguyễn
Thị Hồng Ngát mang đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về cái tôi cá
1
nhân độc đáo của người phụ nữ. Ta thấy một Xuân Quỳnh mãnh liệt khao
khát tình yêu và hạnh phúc, một trái tim dám sống hết mình cho đời và cho
thơ; một Phan Thị Thanh Nhàn nhẹ nhàng, e ấp, kín đáo; Lâm Thị Mỹ Dạ hồn
nhiên, trầm lắng; Ý Nhi, Lê Thị Mây; Nguyễn Thị Hồng Ngát với những triết
lí, suy tư, chiêm nghiệm. Thơ các chị mang những khát vọng âm thầm, mãnh
liệt trong tình yêu đất nước cũng như tình yêu riêng tư, khao khát một cuộc
sống yên bình. Những người phụ nữ tự cảm nhận về cuộc sống, về đất nước
và về tình yêu đầy độc đáo và mang nhiều xúc cảm. Đó là những tiếng nói cá
nhân không thể trộn lẫn với bất kì ai.
Đặc biệt, các nhà thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh
Nhàn là những tác giả tiêu biểu nhất trong số những nhà thơ nữ giai đoạn này.
Sáng tác của các chị được độc giả yêu thích, không chỉ bởi nội dung phong
phú và sâu lắng, mà còn bởi cái ý, cái tình được gửi gắm vào trong thơ đầy
xúc động, nữ tính.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Diễn ngôn về phụ
nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 làm đối tượng nghiên cứu
cho bài khóa luận của mình. Qua việc tìm hiểu diễn ngôn về phụ nữ của các
nhà thơ nữ, chúng tôi mong muốn góp phần khẳng định những giá trị nổi bật
mà thơ nữ thế hệ chống Mỹ đã đóng góp cho nền văn học hiện đại, đồng thời
chỉ ra những ưu điểm, triển vọng của cách tiếp cận tác phẩm văn học từ góc
nhìn diễn ngôn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về vấn đề nghiên cứu diễn ngôn ở Việt Nam
Từ khi thuật ngữ diễn ngôn được biết đến ở Việt Nam, đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu về diễn ngôn, trong đó có các sách dịch và giáo trình
biên soạn như: Đại cương ngôn ngữ học (tập 2) của Đỗ Hữu Châu; Giao tiếp,
diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban… Tuy nhiên, những công
trình này đều đặt diễn ngôn trong bối cảnh lý thuyết trước hậu cấu trúc, tiếp
2
cận diễn ngôn dưới góc độ ngữ dụng học, chú trọng phân tích ngôn ngữ, cắt
nghĩa, lí giải lời nói. Một số nghiên cứu cụ thể như: Khía cạnh văn hóa của
ngôn ngữ hay Nghiên cứu diễn ngôn chính trị - xã hội của Nguyễn Hòa, hoặc
Tìm hiểu và phân tích diễn ngôn phê bình của Diệp Quang Ban… Những
công trình trên không chỉ giúp làm rõ khái niệm diễn ngôn trong văn học mà
còn mở ra các hướng tiếp cận diễn ngôn trong văn học cụ thể như ngôn ngữ
học và phong cách học.
Thời gian gần đây khái niệm diễn ngôn đã xuất hiện rất nhiều trong các
bài nghiên cứu đủ loại, nhiều đến mức không sao có thể định nghĩa thông suốt
hết. Đã có rất nhiều định nghĩa về diễn ngôn, theo các góc độ khác nhau, ngôn
ngữ, văn hóa, song về lí luận văn học thì còn rất ít… Nhiều nhà khoa học xác
nhận đó là khái niệm còn bỏ ngỏ, mỗi người nghiên cứu sử dụng theo những
cách hiểu khác nhau.
Lý thuyết diễn ngôn của Foucault ra đời tạo nên một dấu ấn đặc biệt
trong khoa học lí luận, đồng thời thu hút sự chú ý quan tâm lớn của nhiều nhà
nghiên cứu trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có công
trình nghiên cứu đầy đủ nào về quan niệm diễn ngôn của Foucault được xuất
bản, song cũng có không ít các công trình nghiên cứu bàn về diễn ngôn có ý
nghĩa quan trọng trong lí luận. Đáng chú ý nhất là cuốn Diễn ngôn của Sara
Mills (Trần Văn Toàn, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị
Hiền, Đinh Minh Hằng dịch). Cuốn sách đã đưa ra những phân tích cụ thể cho
thấy sự phát triển trong quan niệm của Foucault về diễn ngôn, đồng thời chỉ
rõ việc sử dụng ngôn ngữ chính là hình thức mã hóa của tri thức và quyền lực.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến những công trình dịch và nghiên cứu
quan trọng như Văn học như một hình thức diễn ngôn - dịch và giới thiệu
những khái niệm cơ bản và Ba cách tiếp cận diễn ngôn của Nguyễn Thị Ngọc
Minh; Foucault về diễn ngôn và Mô hình phát triển kiến thức theo Michel
Foucault của Cao Việt Dũng…
3
Tuy chưa có một giáo trình chính thức nào trình bày thống nhất về lý
thuyết diễn ngôn (theo Foucault), song những tiền đề trên thực sự là những
gợi mở đáng quý, mang tính định hướng sâu sắc trong việc tiếp cận đề tài diễn
ngôn của chúng tôi.
2.2. Về thơ nữ thế hệ chống Mỹ 1954 - 1975
Mỗi nhà thơ đều có phong cách biểu hiện riêng nhưng xuyên suốt như
một sợi chỉ đỏ làm gắn kết giữa ba hồn thơ tiêu biểu ấy là tiếng nói sẻ chia với
những con người kháng chiến, là tấm lòng canh cánh của hậu phương hướng
ra mặt trận. Bao nhiêu tình yêu, tình đồng đội, người thân, nỗi niềm suy tư,
trăn trở về tình yêu, lẽ sống và hạnh phúc riêng tư các chị gửi trọn trong thơ.
Thông qua những sáng tác của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị
Thanh Nhàn chúng ta thấy hiện lên chân dung ba nhà thơ nữ giản dị, giàu nữ
tính, nhân hậu và thuần khiết, sáng tạo và trẻ trung song lấp lánh tình đời, tình
người và lẽ sống. Sự trường tồn của những sáng tác thơ của các chị góp phần
làm sống lại những năm tháng gian khổ và hào hùng trong kháng chiến chống
Mỹ của quân và dân ta. Tình yêu quê hương, đất nước, con người và triết lý
nhân sinh được các chị chắt lọc từ cuộc sống dung dị đời thường thành thơ
sâu lắng và hấp dẫn người đọc bởi sự tinh tế, giản dị.
Thơ nữ chống Mĩ cứu nước đã được nhắc đến trong một số công trình
nghiên cứu và được nhấn mạnh ở sắc thái thiên tính nữ, sự mới mẻ, sáng tạo
của các nhà thơ nữ. GS. Hà Minh Đức cũng khẳng định các gương mặt nữ
thời chống Mỹ cứu nước đều là những “cây bút trẻ có năng lực” và họ đã “có
những đóng góp riêng đáng quý tạo cho nền thơ một sự phát triển cân đối, có
tiềm lực, có bộ mặt mới rất tươi trẻ”. Mảng thơ tình của các nhà thơ nữ
thường được quan tâm nhiều. Chúng tôi cho rằng thơ tình Xuân Quỳnh, Lâm
Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn có sức hấp dẫn rất lớn, nhưng là các nhà
thơ nữ thế hệ chống Mỹ cứu nước, họ còn có những mảng thơ khác cần được
khai thác, góp phần làm nên diện mạo một giai đoạn thơ rất đặc biệt trong lịch
4
sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt, dưới góc nhìn diễn ngôn, sự soi chiếu về các sáng
tác của ba nhà thơ nữ thế hệ chống Mỹ sẽ mang đến những cái nhìn mới mẻ
hơn, sâu sắc hơn cho độc giả.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu: Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai
đoạn 1954 - 1975 nhằm mục đích:
Vận dụng các thao tác có tính chất phương pháp luận của lý thuyết diễn
ngôn nhằm tìm hiểu đặc điểm diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam
giai đoạn 1954 - 1975.
Trên cơ sở đó, khóa luận từng bước chỉ ra các yếu tố nằm trong cơ chế
kiến tạo loại hình diễn ngôn này.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ
Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975(Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khóa luận, chúng tôi tiến hành tập trung khảo sát
các tác phẩm của một số nhà thơ nữ tiêu biểu như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu, đưa dẫn chứng về một
số bài thơ của các nhà thơ cùng thời như Tố Hữu, Bằng Việt, Vân Đài,
Nguyễn Thị Hồng Ngát được sáng tác ở giai đoạn chống Mỹ này nhằm đối
sánh và làm sáng tỏ những biểu hiện đặc thù của diễn ngôn về phụ nữ trong
thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết, người viết tiến hành tìm hiểu các quan niệm về diễn ngôn,
trong đó tập trung hơn cả đến quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Tiếp đó,
chúng tôi ứng dụng lí thuyết của Foucault để soi chiếu, khảo sát trên những
sáng tác của ba nhà thơ nữ tiêu biểu thế hệ chống Mỹ: Xuân Quỳnh, Lâm Thị
5
Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, và chỉ ra những nét nổi bật của diễn ngôn về
phụ nữ cũng như diễn ngôn về tình yêu trong sáng tác của các nhà thơ này. Từ
đó, khóa luận góp phần khẳng định vai trò và giá trị to lớn của thơ nữ thế hệ
chống Mỹ trong tiến trình văn học Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiếp cận đề tài, khóa luận sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp hệ thống.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp như xã hội học,
phương pháp liên ngành… để rút ra những luận điểm đặc trưng và khái quát
nhất cho vấn đề.
7. Dự kiến đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình nghiên cứu mới với nội dung diễn ngôn về phụ
nữ trong thơ nữ thế hệ chống Mỹ (Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu là
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn). Khi nghiên cứu về đề
tài này, chúng tôi hy vọng rằng đây sẽ là một đóng góp nhỏ vào việc ứng
dụng các lí thuyết về diễn ngôn trong việc phân tích và tìm hiểu những tác
phẩm cụ thể.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của bài
khóa luận được triển khai theo 2 chương:
Chương 1. Khái quát về diễn ngôn
Chương 2. Cơ chế kiến tạo diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam
giai đoạn 1954 - 1975
6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN
Thời gian gần đây, trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm
diễn ngôn được sử dụng tương đối nhiều trong các ngành khoa học xã hội và
nhân văn như: triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lí học, nghiên cứu văn
học..., song việc xác định nội hàm và các nội dung cơ bản của nó dường như
vẫn chưa được xác định rõ nét. Mỗi nhà nghiên cứu tìm cho mình những quan
niệm và dấu hiệu biểu hiện khác nhau về diễn ngôn. Chính vì thế, việc xác
định nó vẫn như là một câu hỏi còn để ngỏ.
Theo nghiên cứu của Manfred Frank, diễn ngôn (discourse) được bắt
nguồn từ tiếng Latinh “discourus”, mà từ này có gốc động từ là
“discoursere” có nghĩa là tán chơi, nói huyên thuyên. Như vậy, diễn ngôn
là một lối nói, cách nói hoặc một lượt nói có độ dài không xác định, sự
triển khai không bị hạn định, bởi chú ý nghiêm ngặt. Trong tiếng Pháp,
nghĩa của từ diễn ngôn gần với từ tán gẫu, nói chuyện phiếm, kể chuyện,…
Theo
/>
khái niệm diễn ngôn
được định nghĩa: “Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người
trong xã hội. Nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói cá
nhân”. Còn trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập 2, Đỗ Hữu Châu đã trích
dẫn khái niệm diễn ngôn nghiêng về phương diện ngôn ngữ như sau: “Diễn
ngôn là một thuật ngữ chung chỉ cách dùng ngôn ngữ, tức chỉ các sản phẩm
ngôn ngữ được tạo ra do một hành động giao tiếp nào đấy”. Tác giả cuốn
The Routledge dictionary of literature terms lại khẳng định rằng: “Cho đến
nửa sau thế kỉ 20, thuật ngữ diễn ngôn vẫn mang ý nghĩa cơ bản là sự trình
bày một vấn đề cụ thể bằng cách nói hay viết theo một trật tự trước sau”.
7
Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay còn
gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển rầm rộ
ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành
rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy rõ,
khái niệm diễn ngôn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Các nội
dung định nghĩa đó có thể khác xa nhau hay mâu thuẫn với nhau, qua đó càng
chứng tỏ tính phức tạp và nội hàm chưa được xác định rõ của thuật ngữ khoa
học này.
1.1. Một số hƣớng tiếp cận diễn ngôn
Trong lí luận hiện nay, có ba khuynh hướng nghiên cứu về diễn ngôn.
Một là ngôn ngữ học do các nhà ngôn ngữ học đề xuất, mà tiêu biểu là F. de
Sausure. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là xã hội học, lịch
sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault. Các thuật ngữ như diễn ngôn tính dục,
diễn ngôn chính trị, diễn ngôn nữ quyền… đều dùng theo hướng xã hội học,
nhìn văn học theo góc độ xã hội học. Về các hướng tiếp cận khái niệm diễn
ngôn, công trình nghiên cứu Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Minh (2010) đã chỉ ra: “Con đường thông minh nhất khi
tiếp cận thuật ngữ này là đặt nó vào những bối cảnh, nét nghĩa nào được khai
triển và sáng tạo thêm”. Theo đó, tác giả này đã đưa ra ba hướng tiếp cận khái
niệm diễn ngôn. Chúng tôi xin được trích dẫn một cách khái quát như sau:
1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học
Nền tảng cơ sở của hướng tiếp cận diễn ngôn từ phương diện ngôn ngữ
học là những luận điểm của F.de Sausure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học
đại cương. Trong công trình này, Sausure phân biệt ngôn ngữ với lời nói.
Ngôn ngữ là một hệ thống, một kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát trong
khi lời nói là sự vận dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá
nhân cụ thể. Sausure còn chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là
8
ngôn ngữ, sản phẩm của xã hội kết tinh lại trong trí óc của mỗi người chứ
không phải là lời nói.
Sự đối lập lời nói/ ngôn ngữ trong quan điểm của Saussure đã làm nền
tảng cho sự phân biệt giữa discourse (diễn ngôn) và text (văn bản). Văn bản
(text) là cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất tĩnh, còn diễn ngôn (discourse) là
cấu trúc lời nói mang tính động.
Trong giai đoạn này, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ngôn ngữ học
Saussure và chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ tập
trung vào khám phá cấu trúc tĩnh tại, bất biến của các diễn ngôn và văn bản. Tư
tưởng này đã loại trừ tất cả thuộc tính ngẫu nhiên, cá thể của lời nói, chỉ chú ý
đến phương diện ổn định, bất biến của ngôn ngữ như một bản thể xã hội. Và
đối tượng hướng tới của các nhà nghiên cứu không phải là những văn bản/diễn
ngôn cụ thể, mà họ chỉ coi đó là chất liệu, thông qua việc phân tích các văn
bản/ diễn ngôn, họ cố gắng chỉ ra những cấu trúc khái quát, những thuộc tính
bản chất của văn học nói chung. Mỗi nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm ra một
mô hình phi thời gian cho các văn bản, theo những cách thức khác nhau.
Như vậy là, dưới cái nhìn của các nhà cấu trúc, tất cả các hành động
của con người và các cơ cấu tổ chức của xã hội đều liên quan đến ngôn ngữ,
và có thể được tìm hiểu như một hệ thống gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Như thế, diễn ngôn cũng là một cấu trúc khép kín, nội tại, được cấu
thành từ những yếu tố bất biến là các phạm trù ngữ pháp như thời, thức, thể,
giọng, ngôi… Cách tiếp cận này đã khiến cho nhà nghiên cứu, khi phân tích
diễn ngôn, đặc biệt chú trọng đến phương diện cấu trúc và nỗ lực tìm kiếm
những mô hình ngôn ngữ mang tính chất tĩnh - cái cơ chế ẩn tàng của tổ chức
ngôn từ trong văn bản cũng như diễn ngôn.
1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học
Có thể coi M.Bakhtin là người khởi nguồn cho một truyền thống mới
trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có vai trò
9
như một bản lề, hay một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ
học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lí luận hậu hiện
đại. Trong các trước tác của Bakhtin, ta có thể thấy sự đối thoại và phủ định
đối với rất nhiều những quan điểm về ngôn ngữ học được lưu hành phổ biến
trong thời đại của ông, đặc biệt là những quan điểm ngôn ngữ được triển khai
trên cơ sở tư tưởng của Saussure.
Nếu như hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn được hình thành
trên cơ sở ngôn ngữ học Saussure thì hướng tiếp cận phong cách học về diễn
ngôn lại được phát triển dựa trên nền tảng đối lập với những quan điểm của
Saussure về ngôn ngữ. Bakhtin phê phán ngôn ngữ học hàn lâm chỉ tập trung
nghiên cứu phương diện cấu trúc của ngôn ngữ mà không chú ý đến bình diện
sinh thành của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong giao tiếp. Ông
đề xuất một lĩnh vực nghiên cứu mới mà ông gọi là “siêu ngôn ngữ”, có nghĩa
là ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống động, mang tính lịch sử chứ
không phải là ngôn ngữ như một hệ thống mang tính chất tĩnh, khép kín và
trừu tượng.
Bởi vậy, diễn ngôn (hay lời nói) (discourse), là khái niệm trung tâm
trong quan điểm của Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là ngôn
ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối
cảnh xã hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Cũng chính bởi
vậy, Bakhtin nhấn mạnh, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Mỗi người nói
không phải là người nói đầu tiên, mà đều là người trả lời, là người đối thoại
với hàng ngàn những người nói trước đó. Người nghe cũng sẽ không phải là
người lắng nghe một cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Lời nói
của chúng ta, vì thế, “được hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại,
thường xuyên, liên tục với những phát ngôn của các cá nhân khác”.
Trong thực tế, các phát ngôn thường liên kết với nhau và được tổ chức
trong những hình thức ổn định mà ông gọi là các thể loại lời nói. Thể loại lời
10
nói là những loại hình phát ngôn tương đối bền vững, được sản sinh ra trong
một phạm vi sử dụng ngôn ngữ cụ thể, là một chỉnh thể bao gồm ba bình diện:
nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu.
Như vậy, với một quan niệm mới về diễn ngôn, Bakhtin đã đưa ngôn
ngữ học rẽ sang một bước ngoặt mới: chuyển từ nghiên cứu ngôn ngữ như
một thực thể tĩnh tại, khép kín và biệt lập sang nghiên cứu ngôn ngữ trong
giao tiếp, trong thực tiễn đời sống đa dạng và sinh động. Nếu Saussure nhấn
mạnh đến tính cấu trúc của ngôn ngữ thì Bakhtin đặc biệt quan tâm đến tính
đối thoại của lời nói. Nếu các lý thuyết văn học được triển khai trên nền tảng
ngôn ngữ học cấu trúc có xu hướng đồng qui các văn bản/ diễn ngôn vào
những mẫu số chung thì lý thuyết văn học của Bakhtin nhằm chỉ ra sự phức
tạp, đa diện và biến đổi không ngừng của các văn bản/ diễn ngôn trong lịch
sử. Quan niệm về tính lịch sử, tính xã hội này của diễn ngôn sau này sẽ gặp
gỡ, hay cũng có thể nói, sẽ đặt nền tảng cho một sự chuyển hướng cực kì quan
trọng trong tư duy lý thuyết thế kỉ XX: trào lưu giải cấu trúc.
1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học
Trung tâm điểm của hướng tiếp cận thứ ba này là những quan niệm về
diễn ngôn của M.Foucault, người được coi là ông tổ của các lý thuyết hậu
hiện đại và có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu diễn ngôn từ sau những
năm 1960.
Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault
thì diễn ngôn là một mắt xích quan trọng không thể thiếu của hai yếu tố này.
Foucault chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa diễn ngôn và quyền lực. Từ đó,
Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn; bởi
đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết quả
của các mâu thuẫn về quyền lực.
Với lí do tìm hiểu và vận dụng lí thuyết diễn ngôn để giải thích cho
những cách nhìn, góc nhìn về phụ nữ trong thơ nữ giai đoạn 1954 - 1975, một
11
hướng tiếp cận thơ nghiêng về khía cạnh văn hóa - xã hội, bài báo cáo sẽ tập
trung đến quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Đây là quan niệm đang trở
thành nền tảng cho rất nhiều các trường phái lý thuyết hiện đại và gợi mở một
con đường đầy triển vọng cho các nhà nghiên cứu văn học ở nhiều ngành
khác nhau. Vì vậy, tiếp cận khái niệm diễn ngôn theo hướng phong cách học,
mà hạt nhân là quan niệm của Foucault, sẽ được trình bày ở phần tiếp theo
của bài báo cáo.
Về khái quát, có thể đặt quan niệm của Foucault về diễn ngôn trong
mối quan hệ so sánh với các quan niệm, hướng nghiên cứu khác. Nếu ngôn
ngữ học được phát triển trên nền tảng tư tưởng Saussure nhấn mạnh đến tính
chất hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn thì các nhà tư tưởng như
M.Bakhtin, M.Foucault lại khẳng định tính chất sinh thành, đa dạng, năng sản
của diễn ngôn. Nếu Bakhtin đặc biệt chú ý đến tính liên chủ thể của diễn ngôn
thì Foucault đề cập đến tính phi chủ thể của diễn ngôn, sự biến mất của chủ
thể người trong mê cung của các diễn ngôn. Ba quan điểm tiếp cận này đều có
sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và
ngôn ngữ trong thế kỉ XX.
Như vậy, ba cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học và xã hội học
này đã cung cấp ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn: diễn ngôn như là
cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói, diễn ngôn như là lời nói- tư tưởng hệ, và diễn
ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. Ba quan
niệm này nảy sinh trên nền tảng những cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất,
vai trò của ngôn ngữ và đều có sức lan tỏa, ảnh hưởng rất lớn đến gần như
toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX.
Trên thực tế, trong quá trình phát triển, các lý thuyết diễn ngôn có xu
hướng đan bện vào nhau, tạo nên những vùng giao thoa, những khu vực
chung. Sự kết hợp này khiến cho con đường đi của khái niệm trở nên phức tạp
và cho thấy nghiên cứu diễn ngôn vẫn đang là một tiến trình vận động, hứa
hẹn nhiều những nhánh rẽ bất ngờ.
12
Qua ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, chúng ta cũng có thể quan
sát thấy ngọn nguồn sự phát triển và phân nhánh phức tạp của thuật ngữ, cũng
như sự tương tác, kế thừa, phủ định, sáng tạo giữa các khuynh hướng, và đặc
biệt là những bước chuyển trong tư duy lý thuyết của ngành khoa học xã hội
và nhân văn thế kỉ XX.
1.2. Khái niệm diễn ngôn (theo Foucault)
Có một thực tế là: dù có công trình nghiên cứu về văn học Pháp đương
đại được viết vào những năm 1960 thì Foucault vẫn chưa bao giờ là một nhà
nghiên cứu văn học theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Tuy nhiên, điều này còn
thú vị hơn, khi những ảnh hưởng của Foucault đến nghiên cứu văn học là rất
sâu đậm: cả trên phương diện những đề tài cụ thể (tính dục, cái tôi, vấn đề nữ
quyền...) cũng như trên phương diện lí thuyết (vấn đề lịch sử văn học, vấn đề
tác giả, vai trò của phê bình văn học, giới tính trong sáng tác và tiếp nhận văn
học, tính văn học (literariness)). Tất cả những ảnh hưởng nhiều mặt, đa dạng
này của Foucault với nghiên cứu văn học, về cơ bản, đều có thể được cắt
nghĩa từ việc nhìn nhận văn học như một diễn ngôn.
Khái niệm diễn ngôn tuy không được giới thuyết một cách hệ thống
trong một công trình lý thuyết cụ thể nào của Foucault, song lại là một mắt
xích, một chìa khóa quan trọng đến mức nếu không hiểu khái niệm này, thì
người đọc khó có thể tiếp cận toàn bộ các trước tác khổng lồ với những tư
tưởng khá dị biệt của ông.
Foucautl nói: “Thay vì giảm dần các nét nghĩa đã khá mơ hồ của từ
diễn ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm ý nghĩa của nó; lúc thì coi
nó như một khu vực chung của tất cả các lời nhận định, lúc thì coi nó như một
nhóm các lời nhận định đã được cá thể hóa, và đôi khi lại xem nó như thực
tiễn được quy ước tạo nên vô số các nhận định”.
Như vậy, theo Foucault, ta có được ba cách định nghĩa khác nhau về
diễn ngôn. Thứ nhất, diễn ngôn được coi là tất cả các nhận định nói chung, đó
13
là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong
thế giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui
ước theo một cách thức nào đó và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói
chung, “được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang tính thiết chế nào đó,
bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo
một cách gần giống nhau”. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới là một nhóm các diễn
ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của
đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn có chung một
hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc địa… Thứ ba,
diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và chi phối việc
vận hành của chúng.
Quan niệm thứ ba về diễn ngôn là quan niệm có ảnh hưởng lớn nhất
đến các nhà nghiên cứu sau này. Ở đây, diễn ngôn không chỉ được coi như
“một cái gì tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập”,
mà là những qui tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn
bản cụ thể. Cách định nghĩa thứ ba này cho thấy bản chất thuộc về các thiết
chế, bản chất bị chi phối bởi luật lệ của diễn ngôn, nó cho thấy các diễn ngôn
không được tạo ra từ hư không, mà sinh mệnh của nó chịu sự chi phối mạnh
mẽ của các thiết chế, và đằng sau nó là bàn tay vô hình của quyền lực. Lời nói
và suy nghĩ của con người không phải là sự biểu hiện một cách tự do những
tư tưởng cá nhân, mà bị định hình và nhốt chặt vào trong một thứ khung có
trước. Có thể làm sáng tỏ điều này qua ví dụ sau đây. Diễn ngôn về nữ tính
(hay nữ quyền) được sản sinh và lưu hành trong thời trung đại Việt Nam là hệ
thống tư tưởng, quan niệm, những qui định về hành xử được hình thành trong
bối cảnh thiết chế nhà nước phong kiến nam quyền. Bối cảnh thiết chế này đã
tạo nên một khung diễn ngôn, trong đó qui định những đặc điểm của tính nữ
như là khiêm cung, chịu đựng, phụ thuộc, yếu đuối (công dung ngôn hạnh,
tam tòng tứ đức). Khung diễn ngôn này lại chi phối cách tư duy và phát ngôn
14
của con người, khiến cho trong các trước tác thời trung đại, từ văn học, đạo
đức, tôn giáo, pháp luật…, trong bất cứ văn bản nào, người ta cũng nhận thấy
một công thức miêu tả phụ nữ quen thuộc: ca ngợi những đức tính hi sinh,
chịu đựng, phụ thuộc của người phụ nữ (Kiều bán mình chuộc cha được ngợi
ca là hiếu, Huyền Trân công chúa bị gả cho vua Chăm pa được tôn vinh là
trung với nước…); miêu tả người phụ nữ như một nạn nhân thụ động và bất
lực của xã hội (trong Chuyện người con gái Nam Xương, người phụ nữ chỉ có
cách tự vẫn để bảo toàn danh tiết; hay trong lịch sử, đầy rẫy những câu
chuyện nói rằng khi nhà vua băng hà, các cung nữ đều bị chôn sống theo nhà
vua…); miêu tả phụ nữ như một đối tượng tri thức hoàn toàn thụ động, im
lặng, hay nói cách khác tiếng nói của họ gần như bị tẩy xóa khỏi toàn bộ nền
văn hóa trung đại.
Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault
thì diễn ngôn là một mắt xích không thể thiếu để tìm hiểu hai yếu tố này. Với
Foucault, cả tri thức và quyền lực đều chỉ có thể được tạo ra, được hiện thực
hóa, được vận hành và phân phối bởi diễn ngôn.
1.3. Cấu trúc và sự vận hành của diễn ngôn
Foucault đã chỉ ra những cấu trúc nội tại và ngoại tại chi phối việc tạo
lập, vận hành các diễn ngôn. Những cấu trúc nội tại cấu thành nên diễn ngôn
gồm có: tri thức hệ, nhận định, diễn ngôn/các diễn ngôn, thư khố.
Tri thức hệ, theo diễn giải của Sara Mills (trong cuốn Diễn ngôn của
Sara Mills - Trần Văn Toàn, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Ngọc Minh,
Lương Thị Hiền, Đinh Minh Hằng dịch), là “tập hợp các cấu trúc diễn ngôn
nói chung mà bên trong tập hợp này, một nền văn hóa xác định nên những ý
niệm của nó”, “một nền tảng của những tư tưởng mà trên đó, tại một thời
điểm cụ thể, một số nhận định này, mà không phải những nhận định khác
được coi là tri thức”. Tri thức hệ “bao hàm tổng cộng các cấu trúc diễn ngôn
hình thành như là kết quả từ sự tương tác của nhiều loại diễn ngôn đang lưu
15
hành và được ủy quyền tại một thời điểm xác định”, bao hàm “các phương
pháp luận mà một nền văn hóa mặc nhiên dựa vào đó để có thể tư duy về một
số chủ đề nhất định”.
Những nhận định trên cho thấy, về mặt chức năng, tri thức hệ có vai trò
như một thứ khung vừa cho phép con người nhận thức thế giới, vừa giới hạn
tư duy con người, đồng thời, nó là một bộ lọc … Foucault đặc biệt nhấn mạnh
đến sự đứt gãy tri thức hệ, khiến cho cái được coi là tri thức ở thời điểm này
lại không được coi là tri thức ở một thời điểm khác. Sara Mills dẫn ra một ví
dụ: một trận bão thời sơ kì được giải thích một cách thần thánh, siêu nhiên,
đến thời hiện đại, bão được coi là một hiện tượng tự nhiên. Sự biến đổi của
lịch sử tri thức không đơn thuần chỉ là sự biến đổi hướng đến tiến bộ, mà chỉ
đơn giản là sự chuyển từ hệ tri thức này sang hệ tri thức khác.
Thứ hai là các nhận định. Foucault cho rằng nhận định có vai trò là đơn
vị cấu thành nên diễn ngôn. Nhận định là những phát ngôn có một hiệu lực
thiết chế nào đó, được hiệu lực hoá bằng một hình thức quyền uy nào đó. Và
hiệu lực thiết chế, quyền uy bên trong, đứng sau nhận định mới chính là cái
khiến cho nhận định đó có được chấp nhận hay không.
Thứ ba là các diễn ngôn. Các diễn ngôn là tập hợp các nhận định được
phê chuẩn, là nhóm các nhận định có một lực giống nhau được nhóm lại với
nhau bởi một áp lực định chế nào đó.
Thứ tư là thư khố. Thư khố là tập hợp các diễn ngôn nhằm giới hạn cái
gì được nói, đáng để biết và nhớ. Thư khố là cái kho lưu trữ những từ vựng,
cú pháp, công thức biểu đạt, cái vừa giúp cho chủ thể có thể phát ngôn, vừa
giới hạn phát ngôn của chủ thể.
Thứ năm là những sự loại trừ bên trong diễn ngôn. Đó là các phương thức
loại trừ nhằm giới hạn cái được nói và cái được coi là tri thức. Có nhiều phương
thức loại trừ. Thứ nhất là sự cấm đoán, kiêng kị. Thứ hai là vị thế của chủ thể
phát ngôn. Chỉ lời nói của người bình thường mới được chấp nhận, còn lời nói
16
của người điên bị gạt ra ngoài lề. Thứ ba là ý chí đoạt sự thật, quyết định cái gì
được coi là đúng, cái gì bị coi là sai. Đó là một ý chí áp đặt lên chủ thể nhận
thức, bằng một hình thức cảm quan có trước các kinh nghiệm.
Foucault cũng bàn đến các cấu trúc vận hành diễn ngôn, hay nói cách
khác, đó là những cơ chế bên ngoài chi phối diễn ngôn. Đó là các yếu tố: bình
luận, những nghi thức, tác giả. Bình luận khiến cho diễn ngôn được vận hành,
lưu thông. Những diễn ngôn không được bình luận thì sẽ đi vào quên lãng.
Những nghi thức khống chế số người có thể nói một số kiểu diễn ngôn, ví dụ,
ở nhà trường chỉ có thầy giáo mời có quyền phát ngôn về giáo dục, ở toà án
chỉ thẩm phán mới có quyền tuyên án. Tác giả không phải là người duyệt
nghĩa của văn bản mà là nguyên tắc tổ chức để nhóm các văn bản riêng rẽ vào
với nhau.
Tất cả những yếu tố trên là những cấu trúc bên trong tạo lập nên diễn
ngôn và những cấu trúc bên ngoài cho phép diễn ngôn nào được tồn tại, được
lưu hành. Ẩn đằng sau những cấu trúc này, là một thứ quyền lực vô hình,
năng sản, được tập hợp lại xung quanh các thiết chế, có vai trò giám sát, chọn
lựa, tổ chức và phân phối toàn bộ các diễn ngôn được lưu hành trong một thời
điểm nhất định.
Quan niệm của Foucault về diễn ngôn cho thấy quyền lực của ngôn từ
đối với tư duy và giao tiếp của mỗi con người. Việc ai nói, nói cái gì và nói
như thế nào bị kiểm soát chặt chẽ bởi những quyền lực ngầm, những luật lệ
bên trong và bên ngoài diễn ngôn. Điều này khiến cho chủ thể phát ngôn
không còn là những chủ thể tự do biểu lộ những ý kiến cá nhân, mà bị hạn chế
và trói buộc trong một khung diễn ngôn có trước. Các cấu trúc diễn ngôn cho
phép người này được nói và buộc người kia phải im tiếng. Nó giới hạn tư duy
của chủ thể, khiến cho anh ta chỉ có thể nhìn thấy phương diện này chứ không
phải là phương diện khác của khách thể. Đồng thời, nó còn là một cái kho hữu
hạn những hình thức biểu đạt, khiến anh ta chỉ có thể nói bằng cách này mà
17
không thể nói bằng cách khác, chỉ có thể sử dụng một bộ lễ phục ngôn từ,
theo như cách nói của Bakhtin.
Có thể nhận thấy, trong các công trình nghiên cứu của mình, Foucault ít
quan tâm đến cấu trúc ngôn từ bên trong của các diễn ngôn mà chủ yếu đi sâu
tìm hiểu những yếu tố chi phối việc kiến tạo và vận hành các diễn ngôn: tri
thức hệ, quyền lực… Văn học không phải là đối tượng nghiên cứu của ông,
mà chỉ là một trong những dữ liệu để qua đó, ông khảo sát sự biến đổi và thay
thế lẫn nhau của những tri thức hệ, của các mối quan hệ quyền lực. Văn học
đồng tồn tại trong một mạng lưới các diễn ngôn nhân chủng học, đạo đức, tôn
giáo, triết học… Quan niệm về diễn ngôn của Foucault đã tạo ra một bước
ngoặt trong tư duy lý thuyết thế kỉ XX: từ đây, người ta không nghiên cứu
văn học như một thực thể biệt lập, mà có xu hướng đặt nó trong mối liên hệ
với những loại hình diễn ngôn khác như chính trị, đạo đức, tôn giáo. Người ta
không nghiên cứu văn bản và những hình thức tổ chức ngôn từ của nó mà cố
gắng tìm hiểu những cơ chế tạo lập và chi phối các văn bản ngôn từ- yếu tố
nằm ẩn sâu, đằng sau các văn bản. Hướng nghiên cứu này thường được gọi là
hướng nghiên cứu văn hóa (culture study), một đường hướng nghiên cứu
thịnh hành từ sau những năm 1960 trở lại đây trong các trào lưu lý thuyết như
chủ nghĩa thực dân - hậu thực dân, lí luận nữ quyền, thuyết Tân duy sử, thuyết
Lệch pha...
18
Chƣơng 2
CƠ CHẾ KIẾN TẠO DIỄN NGÔN VỀ PHỤ NỮ TRONG THƠ NỮ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
2.1. Ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam từ
góc nhìn diễn ngôn
Vấn đề trung tâm của việc phân tích diễn ngôn và nghiên cứu văn học,
theo chúng tôi sẽ là: nếu chấp nhận văn học như một kiểu diễn ngôn thì những
hệ quả của nó là gì?
Những lí thuyết về diễn ngôn của Foucault ra đời trong thời kì hưng
thịnh của chủ nghĩa cấu trúc. Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc những
vấn đề nội tại của văn bản được đặc biệt quan tâm. Ở dạng cực đoan nhất,
người ta cho rằng có thể giải quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy
dựa trên những yếu tố nội tại của văn bản mà không cần đến bất kì một sự
tham chiếu nào khác từ những nhân tố bên ngoài. Người ta cố gắng đi tìm một
cái gọi là tính văn học (literariness) từ những thủ pháp chỉ xuất hiện trong các
văn bản nghệ thuật. Không chỉ là những vấn đề của bối cảnh xã hội mà ngay
chính vai trò của tác giả cũng bị nghi ngờ. Việc hình dung văn học như một
diễn ngôn của Foucault trong bối cảnh đó đã đem đến những đối thoại học
thuật thú vị.
Ta có thể chỉ ra 3 yếu tố cấu thành nên khái niệm diễn ngôn theo quan
điểm của Foucault: ý thức hệ tư tưởng, hệ hình tri thức và cơ chế quyền lực
chính trị. Áp dụng vào cụ thể đề tài Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ giai
đoạn 1954 - 1975, những yếu tố này sẽ mang những nét thống nhất và biến
đổi dựa trên nền tảng mà Foucault đã chỉ ra.
Trước tiên, để tìm hiểu về hệ hình tri thức chi phối diễn ngôn về phụ nữ
trong thơ ca giai đoạn 1954 - 1975 như thế nào, ta mang vấn đề đối tượng của
văn học ra để soi xét. Từ Plato, một trong những ám ảnh của triết học phương
19
Tây là câu hỏi về sự thật (the truth), một sự thật siêu việt lên mọi khác biệt về
không gian, thời gian. Đấy là một sự thật phổ quát mà lí trí (chứ không phải là
các giác quan) của con người có thể nhận biết. Từ xuất phát điểm triết học ấy,
văn học cũng được hình dung như một quá trình khám phá về sự thật của đời
sống. Mô phỏng (mimesis) trở thành nguyên lí nền tảng cho lí luận và lịch sử
văn học. “Văn học nói về cái gì? Kể từ Thi học của Aristote, sự mô phỏng
(mimesis) là thuật ngữ phổ biến nhất và quen thuộc nhất, qua đó người ta
quan niệm về các mối liên hệ giữa văn chương và thực tại. Trong công trình
đồ sộ của Erich Auerbach, Mimesis, sự thể hiện thực tại trong văn học
phương Tây (1946), khái niệm này hãy còn là chuyện dĩ nhiên”. Từ cách đặt
vấn đề này, sự vận động và biến đổi của lịch sử văn học, xét đến cùng là lịch
sử của sự vận động và biến đổi của đối tượng phản ánh, của thực tế đời sống
xã hội, và đặc biệt là của con người (một đối tượng được hình dung như một
thực thể tiềm tàng trong đó nhiều chiều kích, nhiều giá trị không thể vắt cạn).
Cách đặt vấn đề này tất yếu dẫn đến một nghịch lí: một mặt, văn học được
xem như là một phương thức tiếp cận hiện thực đặc thù, có khả năng khám
phá về xã hội về con người mà những hình thái ý thức xã hội khác không thể
chạm tới. Mặt khác, đó là một nhận thức có giới hạn trước một thực tại đa
dạng, nhiều ẩn số. Khoảng cách giữa văn học và sự thật về đối tượng mà nó
phản ánh là một đòi hỏi bắt buộc để giữ cho văn học có được sự phát triển,
biến đổi trong lịch sử.
Lí thuyết diễn ngôn của Foucault phá bỏ khoảng cách này. Cái gọi là sự
thật về đời sống hay con người theo Foucault, thực chất, cũng chỉ là sản phẩm
của diễn ngôn được hình thành từ những tương quan quyền lực/tri thức của một
giai đoạn, một thời kì lịch sử cụ thể. Thay cho việc đặt trọng tâm vào việc đặt
câu hỏi: văn học đã làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa nó và thực tế đời
sống thì giờ đây, chúng ta phải quan tâm đến câu hỏi: trong những tương quan
quyền lực/tri thức nào mà những sự thật nào đó được quyền xuất hiện và miêu
20
tả trong diễn ngôn văn học. Nói cách khác những miêu tả và nghiên cứu văn
học sử phải thiết lập được mối quan hệ giữa văn học và khung tri thức
(epistem) của một thời đại. Chính sự biến đổi của khung tri thức này là nguyên
nhân sâu xa cho sự biến đổi (chứ chưa hẳn đã là phát triển?) của văn học.
Những miêu tả và nghiên cứu văn học giai đoạn 1954 - 1975 được thiết
lập trên mối quan hệ giữa hiện thực và khung tri thức chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của thời đại. Thơ ca Việt Nam giai đoạn chống Mỹ nói chung, và
thơ nữ thế hệ chống Mỹ nói riêng, gắn liền với thời kỳ lịch sử chống Mỹ của
dân tộc. Cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây, kháng chiến
chống Mỹ là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trong suốt hai mươi năm
chống Mỹ, hiện thực cách mạng và đời sống lịch sử của dân tộc là bình diện
nổi bật, bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, thu hút và chi phối mọi bình diện
khác, trong đó có văn học, và đặc biệt là thơ ca. Thời kỳ này thơ được coi là
một mũi nhọn, có tính xung kích, lên tiếng kịp thời trước mọi biến cố lịch sử.
Cái hay và đặc sắc ở đây chính là sự thống nhất hòa quyện giữa lý tưởng và
hiện thực, lý tưởng cao đẹp của thời đại và hiện thực nóng bỏng của cuộc
chiến đấu, giữa trữ tình và anh hùng ca, giữa nội dung và hình thức.
Thơ ca thời kỳ này mang đậm khuynh hướng sử thi và Tổ quốc đã trở
thành đề tài lớn, bao trùm, xuyên suốt trong thơ. Nhưng có lẽ ấn tượng mãnh
liệt nhất trong thơ thời kỳ này là sáng tác của thế hệ nhà thơ trưởng thành
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ. Đó là
Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Phan Thị
Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Bằng Việt, Thanh Thảo, Bùi
Minh Quốc,… Trong nền thơ Việt Nam thời chống Mỹ, các thế hệ nối tiếp
nhau, lớp tre càng xanh, càng chắc mà đợt măng kế tiếp đã náo nức đâm chồi.
Lớp nhà thơ trẻ đã mang đến sự nở rộ cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi nổi,
mới mẻ và duyên dáng của riêng họ - lứa tuổi lớn lên trong chiếc nôi của chủ
nghĩa xã hội, tha thiết, tin yêu cách mạng. Họ đem đến sự mới mẻ sâu sắc mà
phong phú đa dạng trong những sáng tác về Tổ quốc và dân tộc.
21