Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.42 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG THỊ THƯƠNG

CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH (QUA TRƯỜNG HỢP
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của khoa Ngữ
Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã hết sức nhiệt tình trong quá trình
giảng dạy giúp em có những kiến thức quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình
thực hiện khoá luận tốt nghiệp.
Em cũng xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Kiều Anh, người đã tận
tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận, từ việc định hướng, lựa
chọn đề tài đến việc xây dựng đề cương và triển khai khoá luận. Cô đã có
những góp ý cụ thể và luôn luôn động viên để em có thể hoàn thành tốt nhiệm
vụ của mình.
Đề tài của em chắc hẳn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô cùng các bạn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên

Hoàng Thị Thương


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp “ Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh (qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)” được hoàn thành dưới
sự hướng dẫn trực tiếp của TS.Nguyễn Thị Kiều Anh. Em xin cam đoan rằng:
Các số liệu và tài liệu được sử dụng trong khoá luận là trung thực và có
xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên

Hoàng Thị Thương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do lựa chọn đề tài. ...................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................. 2
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài .................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu. ..................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 4
7. Bố cục báo cáo ................................................................................ 4
8. Quy cách trình bày .......................................................................... 5
CHƯƠNG 1: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ

ĐIỆN ẢNH ......................................................................................... 6
1.1. Văn học ........................................................................................ 6
1.1.1. Thuật ngữ văn học ..................................................................... 6
1.1.2. Đặc trưng của văn học ............................................................... 8
1.1.2.1. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ .............................. 8
1.1.2.2. Khả năng miêu tả, thâm nhập vào đời sống tâm lý, tình cảm của
con người ........................................................................................... 10
1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh và xử lý không gian, thời gian. ............. 11
1.2. Điện ảnh ...................................................................................... 13
1.2.1. Thuật ngữ điện ảnh ................................................................... 13
1.2.2. Đặc trưng của điện ảnh ............................................................. 18
1.2.2.1. Ngôn ngữ thị giác .................................................................. 18
1.2.2.2. Ngôn ngữ thính giác .............................................................. 23
1.2.2.3. Montage (dựng phim) ............................................................ 25
1.3. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. ........................................ 26
1.3.1. Mối quan hệ gần gũi, tác động lẫn nhau .................................... 26


1.3.2. Phim chuyển thể - sản phẩm của sự giao thoa giữa văn học và
điện ảnh ............................................................................................. 28
1.3.2.1. Các hình thức chuyển thể ....................................................... 29
1.3.2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi chuyển thể. ................................ 30
CHƯƠNG 2: TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH - SỰ
CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN
ẢNH

.............................................................................................. 32

2.1. Phim chuyển thể trong lịch sử điện ảnh Việt Nam ........................ 32
2.2. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” ................................ 35

2.2.1. Truyện dài "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”(Nguyễn Nhật Ánh)
.......................................................................................................... 35
2.2.2. Phim chuyển thể "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" (Victo Vũ). 36
2.3. Sự tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học và phim điện
ảnh Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. ................................................... 38
2.3.1. Những điểm tương đồng. .......................................................... 38
2.3.2. Những điểm khác biệt ............................................................... 42
2.3.2.1. Nội dung tư tưởng ................................................................ 42
2.3.2.2. Nhân vật trong văn học và điện ảnh ...................................... 44
2.3.2.3. Ngôn ngữ và hình ảnh ........................................................... 52
KẾT LUẬN ........................................................................................ 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Nghệ thuật là sản phẩm kỳ diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn nhân
loại. Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng thoả mãn
những yêu cầu đa dạng, phong phú của đời sống tinh thần con người đồng
thời khẳng định tính độc lập của nó trước thực tiễn. Sở dĩ nghệ thuật cần thiết
bởi vì chính trong nghệ thuật, con người đã tìm thấy sự biểu hiện cao nhất và
đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn học, âm nhạc, hội
hoạ, là điêu khắc, kiến trúc… và sau này là sân khấu điện ảnh.
Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm nhập
lẫn nhau. Một khuynh hướng văn nghệ có thể phát triển và lây lan trong nhiều
ngành nghệ thuật như: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa hiện sinh, … trong đó mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
trong gia đình nghệ thuật được coi là một trong những “duyên phận” kỳ diệu
và đáng chú ý nhất. Văn học đã trở thành một nguồn rất quan trọng cho sự
phát triển của điện ảnh. Rất nhiều các tác phẩm điện ảnh kinh điển trên thế

giới và cả ở Việt Nam đã được chuyển thể từ các tác phẩm văn học nổi tiếng.
Điện ảnh đã biết khai thác mảnh đất màu mỡ của văn học để làm cái nôi cho
sự phát triển của mình.
Đến nay điện ảnh đã ra đời hơn một thế kỷ. So với các loại hình nghệ
thuật khác như văn học, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, kiến trúc… thì đây là
một ngành nghệ thuật trẻ tuổi nhất. Mặc dù “sinh sau đẻ muộn” nhưng điện
ảnh đã đạt được vô vàn những thành tựu tuyệt vời. Đó là do điện ảnh không
chỉ dựa vào sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, mà còn thừa hưởng tinh
hoa của tất cả các loại hình nghệ thuật có trước. Bên cạnh đó, điện ảnh còn tác
động ngược trở lại vào các ngành nghệ thuật, đặc biệt là văn học, tạo nên một
diện mạo mới lạ, đầy sức sống cho các tác phẩm văn học.

1


Tuy nhiên từ văn học sang điện ảnh không phải là một con đường bằng
phẳng, nó đầy những khó khăn, phức tạp và thử thách đối với những người
yêu nghề, trong nghề. Vậy khi tác phẩm văn học được chuyển thể sang phim
điện ảnh, nó đã khai thác và chuyển hoá những gì? Nó có những biến đổi ra
sao và có bảo toàn được tính văn học nữa không? Điện ảnh đã tác động vào
văn học như thế nào? Lựa chọn đề tài nghiên cứu: “chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh)” chúng tôi những mong tìm hiểu và lý giải được phần nào những mối
quan hệ đa chiều, phức tạp đó.
2. Lịch sử vấn đề
Sự ảnh hưởng, tác động của văn học với điện ảnh, điện ảnh với văn học
chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Qua khảo sát, chúng tôi thấy vấn
đề này được đề cập đến trong một số cuốn sách của các nhà phê bình, nghiên
cứu điện ảnh của Liên Xô như Văn học với điện ảnh của Vai-Sphen, M.Rôm,
I.Khâyphítxơ, E.Gabơrilôtritru; Tiết diện vàng màn ảnh của X.Prêilich… Các

cuốn sách này đã phân tích một số khía cạnh về đặc trưng ngôn ngữ văn học
và điện ảnh, phương pháp biểu hiện của truyện phim, thành phần văn xuôi
trong truyện phim…
Bên cạnh đó, vấn đề này còn được bàn đến trong một số bài báo như:
- Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số
12-2002, Minh Trí)
- Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2 năm 2001,
Hương Nguyên).
-Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6/1999, Phạm
Vũ Dũng).

2


Các bài báo trên chủ yếu chỉ ra những nét khái quát về mối quan hệ giữa
văn học và điện ảnh, đặc biệt là vai trò của văn học với điện ảnh. Và có phân
tích ít nhiều đến sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim điện ảnh.
Vì vậy để có được một cái nhìn tương đối đầy đủ về sự chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang phim điện ảnh là một điều tương đối khó khăn đối với
chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
Mặt khác, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là truyện dài mới nhất của
Nguyễn Nhật Ánh , được Đạo diễn Victo Vũ chuyển thể thành phim điện ảnh
công chiếu vào tháng 10/2015 vừa qua và qua khảo sát chúng tôi nhận thấy
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Hiện mới
chỉ có những bài viết đăng trên các báo, tạp chí giới thiệu đôi nét về sáng tác,
văn phong của tác phẩm cũng như những cảm nhận, suy nghĩ của người xem
về bộ phim. Lịch sử vấn đề như vậy quả thực là một thử thách của chúng tôi.
3. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Từ việc phân tích đặc điểm của văn học và điện ảnh cũng như mối quan
hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn xem xét, tìm hiểu sự

chuyển thể của văn học khi đi vào môi trường điện ảnh thông qua việc chuyển
thể tác phẩm văn học Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nhà văn Nguyễn
Nhật Ánh sang tác phẩm điện ảnh cùng tên của đạo diễn Victo Vũ .Qua đó chỉ
ra những điểm tương đồng và khác biệt của tác phẩm văn học với phim điện
ảnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Sự chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh).

3


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh.
Tác phẩm điện ảnh Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của đạo diễn Victo
Vũ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu đặc điểm, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.
Tìm hiểu về truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (Nguyễn Nhật
Ánh).
Tìm hiểu về phim chuyển thể Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (đạo diễn
Victo Vũ).
So sánh hai thể loại và thấy được sự tương đồng, khác biệt của tác phẩm
văn học và phim chuyển thể Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học
và phim điện ảnh chúng tôi đã lựa chọn và kết hợp các phương pháp, thao tác
nghiên cứu khoa học như:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp phân loại - thống kê.
- Phương pháp khảo sát - so sánh.
- Phương pháp mô tả
7. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm có 2
chương:
Chương 1: Một vài nét về đặc điểm của văn học và điện ảnh
Chương 2: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh – Sự chuyển thể từ tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh.

4


8. Quy cách trình bày
- Tên các loại tác phẩm: In nghiêng không đậm.
- Viết tắt - Nxb = Nhà xuất bản.
- Thông tin trong ngoặc vuông thứ tự là: Số thứ tự tài liệu đã dẫn, ở
trang thứ

5


CHƯƠNG 1: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ
ĐIỆN ẢNH
“Tìm hiểu tính đặc thù của nghệ thuật không có nghĩa là tìm ra đường
biên ranh giới giữa nghệ thuật và các hình thái ý thức xã hội khác mà chủ yếu
chỉ ra những thuộc tính cơ bản, loại biệt của nghệ thuật” [10; 13]. Văn học và
điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật độc lập, tồn tại song song và tương trợ lẫn
nhau. Chúng ta thường nghe thấy những mệnh đề: “Chất văn học trong điện

ảnh” hay “chất điện ảnh trong văn học”… Vậy bản chất của văn học và điện
ảnh thực sự là gì? Đặc trưng ngôn ngữ thể loại và chất liệu của chúng như thế
nào? Chúng tôi sẽ dành toàn bộ nội dung chương 1 để tìm hiểu những vấn đề
đó và rút ra những nét so sánh cơ bản về hai loại hình nghệ thuật này.
1.1. Văn học
1.1.1. Thuật ngữ văn học
Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, nó là một “sản phẩm thẩm mỹ
độc đáo nảy sinh trong quá trình sáng tạo theo quy luật cái đẹp” [14; 13].
Phương tiện phản ánh hiện thực của nghệ thuật chính là các hình tượng nghệ
thuật. Hơn 2000 năm trước đây Aritxtot, nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã chú ý
đến đặc trưng nổi bật của nghệ thuật là sự “mô phỏng tự nhiên”, bao hàm việc
tái hiện cuộc sống bằng hình tượng. Nhưng mỗi loại hình nghệ thuật có cách
“mô phỏng tự nhiên khác nhau”, nó được quy định bởi chất liệu của loại hình.
Đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật, xét đến cùng, là bắt nguồn từ chất
liệu của nó. Và người ta đã đưa ra những khái niệm về thuật ngữ văn học
cũng chính từ nhân tố này.
Nếu chất liệu của hội hoạ là màu sắc và đường nét, của âm nhạc là tiết
tấu và âm thành, của vũ đạo là hình thể và động tác…tức đều tồn tại dưới
trạng thái vật chất thì chất liệu của văn học là ngôn từ. “Văn học là nghệ thuật
ngôn từ” [2; 377], hay văn học là “loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn

6


từ” [9; 275]. Như vậy văn học lấy ngôn từ làm chất liệu để phản ánh đời sống
xã hội và thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người. Tuy nhiên cần phải
thấy rõ tính đặc thù của chất liệu nghệ thuật ngôn từ. Chất liệu của các loại
hình nghệ thuật khác, xét cho cùng, đều do thiên nhiên cung cấp cho người
nghệ sĩ, đó là gỗ, đá, kim loại, sơn màu, âm thanh và cả cơ thể con người để
tạo nên các tác phẩm điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ, vũ đạo… nhưng chất liệu

của văn học thì hoàn toàn do con người tạo ra. Đó là ngôn ngữ, hay nói cách
khác là ngôn từ. Những từ ấy tồn tại một cách khách quan trong đời sống
hàng ngày. Nhà phê bình nghệ thuật Letssing đã phân biệt chính xác khi cho
rằng hội hoạ sử dụng “các vật thể và màu sắc tồn tại trong không gian làm
phương tiện và ký hiệu, còn thơ ca thì sử dụng âm thanh phát ra từ tiếng lần
lượt trong không gian”. Bởi vậy, nếu chúng ta không biết thứ ngôn ngữ viết
trong tác phẩm văn học thì chúng ta sẽ không thể nào hiểu được nội dung của
nó.
Bản chất xã hội lịch sử của văn học với tư cách là hình thái ý thức xã hội
đặc thù được xác định bằng các khái niệm như “tính hiện thực”, “tính nhân
loại”, “tính giai cấp”, “tính tư tưởng”, “tính khuynh hướng”, “tính Đảng”,
“tính nhân dân”…
Nhưng văn học khác với các hình thái ý thức xã hội như chính trị, triết
học, đạo đức… còn ở đối tượng nhận thức và nội dung của nó. Văn học là sự
phản ánh của đời sống nên văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức
trung tâm. Văn học nhận thức con người trong tính tổng hợp, toàn vẹn, sống
động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó trên các
phương diện thẩm mỹ. Trong các tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ đưa ra
những nhận thức khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát
vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó “nội dung của văn học
là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện

7


khách quan” [9; 276]. Đối tượng và nội dung đặc thù đòi hỏi văn học phải có
phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt riêng, đó là hình tượng nghệ thuật. Hình
tượng nghệ thuật làm cho văn học gần gũi với các loại hình nghệ thuật khác.
Tuy nhiên do mỗi loại hình sử dụng một chất liệu khác nhau nên hình tượng
của chúng có những điểm riêng biệt.

Tóm lại, văn học là nghệ thuật ngôn từ, thứ nghệ thuật có những hình
tượng không trực tiếp trông thấy, nghe thấy được mà chỉ hiện lên trong trí
tưởng tượng của chúng ta. Với tất cả những khả năng kỳ diệu của mình, ngôn
từ đã đem lại cho văn học những đặc trưng độc đáo, giúp khu biệt văn học với
các loại hình nghệ thuật và các hình thái ý thức xã hội khác.
1.1.2. Đặc trưng của văn học
1.1.2.1. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ
Do lấy ngôn từ làm chất liệu nên văn học gắn với kiểu hình tượng “phi
vật thể”, có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người. Sở dĩ
có thể xây dựng được hình tượng nghệ thuật đặc biệt như vậy vì các từ, hay
nói đúng hơn là sự kết hợp của các từ có khả năng chỉ ra hoặc làm cho người
đọc nhớ đến bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong giới tự nhiên, xã hội và ý
thức con người.
Văn học khác với các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ các hình tượng của
nó không được cảm thụ trực tiếp bằng các giác quan: Thị giác, thính giác…
Chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy bức tranh Người đàn bà xa lạ, nghe điệu
nhạc Sông Danube xanh, tận mắt thấy điệu múa Champa, tháp Ép phen…
nhưng với các tác phẩm văn học thì không thể, bởi ngôn ngữ - chất liệu đặc
thù của nó - không phải là vật chất hay vật thể, đó chỉ là những ký hiệu của nó
mà thôi. Khi đọc hoặc nghe một tác phẩm văn học, chúng ta không nhìn thấy
trực quan cái mà nhà văn mô tả, nhưng nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng

8


mà dường như chúng ta tái tạo lại được các hình tượng, biểu tượng mà văn
bản chỉ ra.
Khi nàng Kiều bị Hồ Tôn Hiến bắt “thị yến dưới màn”, ép nàng gẩy đàn
mua vui, Nguyễn Du đã miêu tả tiếng đàn của Kiều như sau:
“Một cung gió tủi, mưa sầu

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm, vượn hú, nào tày,
Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày, rơi châu”
(Truyện Kiều)
Hiển nhiên là chúng ta có thể nghe thấy ngữ âm của những câu thơ ấy.
Nhưng bóng dáng của Kiều, và điệu đàn “muôn oán, nghìn sầu” thì không
nghe thấy gì cả. Song những ngôn từ đó sẽ tác động vào trí não của chúng ta,
làm cho chúng ta “nghe thấy” được một cách gián tiếp qua trí tưởng tượng.
Các hình tượng văn học tuy thiếu tính trực quan nhưng lại được bù bằng
những khả năng độc đáo khác. Nhà văn có thể tái tạo các phương diện hiện
thực để người đọc có thể cảm nhận bằng mọi giác quan.
Bằng chất liệu ngôn từ, nhà văn không những tái tạo được những cái hữu
hình mà còn tái tạo được cả những cái vô hình, những cái mỏng manh, mơ hồ
nhất mà các loại hình nghệ thuật khác phải bất lực. Nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã
từng tái hiện sinh động màu sắc và hương vị của thời gian qua tâm trạng hoài
niệm:
“Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”.
(Màu thời gian)

9


Dưới tác động “ma thuật” của nghệ thuật ngôn từ, đắm mình vào thế giới
của các biểu tượng biến hoá khôn lường mà văn bản ghi lại, người đọc đã trở
thành người đồng sáng tạo với nhà văn trong quá trình tham gia xây dựng nên
các hình tượng nghệ thuật.
Như vậy tính “phi vật thể” của hình tượng nghệ thuật là một đặc tính nổi

bật khác biệt giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Nhờ có đặc tính
này mà các nhà văn không chỉ miêu tả được hiện thực đa dạng, muôn màu của
cuộc sống mà còn có thể đi sâu vào thế giới bên trong của hiện thực, mở ra
chân trời tưởng tượng của thế giới nội tâm phong phú của con người.
1.1.2.2. Khả năng miêu tả, thâm nhập vào đời sống tâm lý, tình cảm của con
người
Khách thể của văn học là “vương quốc bất tận của tinh thần”. Chính
ngôn từ, cái vỏ của tư duy, đã giúp văn học khám phá, đi sâu vào “vương
quốc bất tận” đó với những suy tư phức tạp, những rung động tinh tế của lòng
người: “Mới đọc được mươi dòng chị giận giữ tưởng như có thể xé vụn từng
mảnh được, người ta coi thường chị đến thế ư? Nhưng khi gập lá thư lại thì
một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những
thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ dào dạt không thể nén
lại nổi khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi
mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra”. Đó là tâm trạng của nhân vật
Đào - một người phụ nữ nhan sắc kém mặn mà, bất hạnh trong cuộc sống khi nhận được lá thư của ông Trung đội trưởng già phụ trách lò gạch trong
truyện ngắn Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải. Có lẽ không có loại hình
nghệ thuật nào có thể lột tả được hết những cảm giác vô hình ấy trong lòng
người như văn học. Âm nhạc trữ tình cũng đi sâu vào lòng người nhưng là
trên những cảm xúc và rung động ít nhiều trừu tượng. Chỉ cần một xúc cảm,

10


một tâm trạng, một suy nghĩ của con người trước cuộc sống cũng đủ để nhà
văn có thể tạo nên những bức tranh sinh động, cụ thể về hiện thực.
Đây cũng chính là một thế mạnh của văn học với tư cách là một loại hình
nghệ thuật bằng ngôn từ, và cũng là lãnh địa của các nhà văn, nhà thơ, giúp
họ làm nên tên tuổi.
1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh và xử lý không gian, thời gian.

Các loại hình nghệ thuật chiếm lĩnh hiện thực trong các chiều không
gian, thời gian của nó một cách khác nhau. Chẳng hạn hội hoạ và điêu khắc
miêu tả các sự vật một cách tĩnh tại, chớp lấy một khoảnh khắc nhất định của
đối tượng và biểu hiện nó trong tương quan về không gian. Nhưng văn học thì
trái lại (về mặt này thì nó giống với sân khấu và điện ảnh), chủ yếu tái hiện
các quá trình đời sống diễn ra trong thời gian, hoạt động sống của con người
gắn liền với những cảm thụ, suy nghĩ, ý định, hành vi sự kiện… Việc văn học
thiên về miêu tả các quá trình đời sống được Lecssing cắt nghĩa một cách
thuyết phục là do quảng tính thời gian của lời nói con người.
“Lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học mang tính cực đại về không gian,
cực lâu và cực nhanh về thời gian” [2; 191 ]. Văn học có khả năng to lớn
trong việc miêu tả đối tượng trong tính vận động, tái tạo dòng thời gian với
những nhịp độ khác nhau. Sự vận động của thời gian trong tác phẩm văn học
phản ánh nhịp độ vận động của cuộc sống. Trong Chiến tranh và hoà bình,
L.Tolstoy có thể tái hiện lại hoàn cảnh chiến trường Brodino mà những bức
tranh hoành tráng cũng không thể làm nổi, còn Tam Quốc có thể kể lại câu
chuyện hàng trăm năm, rồi 15 năm lưu lạc của nàng Kiều thì dù có tranh liên
hoàn cũng không thể nào vẽ được tỉ mỉ như vậy…
Vì miêu tả thời gian trong ý thức, trong sự cảm thụ của con người mà tác
phẩm văn học có thể “co” lại trong một vài dòng trần thuật ngắn hoặc “kéo
căng” trong hàng chục trang. Mặt khác, văn học còn có khả năng miêu tả thời

11


gian ba chiều (quá khứ - hiện tại - tương lai). Chính vì vậy mà văn học có thể
chiếm lĩnh và tái hiện đời sống một cách đa dạng, sâu rộng mà các loại hình
nghệ thuật khác như hội hoạ, điêu khắc không thể nào đạt được.
Ngay cả trong việc mô tả không gian nghệ thuật, văn học cũng lại có
những ưu thế riêng so với điêu khắc, hội hoạ. Vận dụng những từ ngữ để chỉ

ra các sự vật, nhà văn có khả năng chuyển dịch từ bức tranh này sang bức
tranh khác một cách nhanh chóng lạ thường, dễ dàng đưa người đọc vào
những miền không gian khác nhau. Chẳng hạn, trong bài thơ Kapka nổi tiếng,
chỉ với hai bốn dòng thơ Puskin đã khắc hoạ một bức tranh hoành tráng về
Kapka, từ đỉnh núi đến những mỏm đá, những tầng rêu xanh.... Các hình
tượng của trường ca, truyện vừa, tiểu thuyết càng mở ra những con đường
rộng lớn trong việc miêu tả không gian.
Trong thơ Huy Cận thì ta lại bắt gặp không gian ba chiều:
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
(Tràng Giang)
Các biểu tượng không gian trong văn học không chỉ là hình ảnh của
không gian vật lý mà nó còn là sự hiện diện của không gian tâm tưởng mang
ý nghĩa khái quát. Qua những không gian ấy, con người có được một hình
thức biểu hiện tư tưởng - thẩm mỹ, tình cảm, cảm xúc, một phương thức
chiếm lĩnh hiện thực đời sống một cách đặc thù. “Các nghệ sĩ ngôn từ không
những gần gũi với các biểu tượng thời gian mà còn gần gũi với các biểu tượng
không gian, mặc dù trong văn học rõ ràng là cái thứ nhất chiếm ưu thế” [1;
83].
Như vậy, với việc sử dụng ngôn từ làm chất liệu, văn học đã xây dựng
được các hình tượng nghệ thuật “phi vật thể” đầy sống động mà người đọc có
thể cảm nhận bằng mọi giác quan. Bên cạnh đó văn học còn có khả năng to

12


lớn trong việc thâm nhập vào đời sống tinh thần của con người và chiếm lĩnh
thời gian, không gian một cách linh hoạt. Đó là những đặc trưng cơ bản của
ngôn ngữ văn học. Trong quá trình phát triển của mình, văn học ngày càng
phát huy những mặt lợi thế của nó và khắc phục dần dần những “thua kém”

của nó về tính trực quan, đồng thời cũng tự làm mới mình bằng cách tiếp thu
phương thức tạo hình biểu hiện của các loại hình nghệ thuật khác.
1.2. Điện ảnh
1.2.1. Thuật ngữ điện ảnh
Tính đến nay, năm 2015, nghệ thuật điện ảnh đã có 119 năm tuổi. Sự ra
đời của điện ảnh đã làm cho nghệ thuật biến động và khởi sắc, nó tác động to
lớn đến đời sống tinh thần của nhân loại. Người ta không khỏi bất ngờ trước
diện mạo mới mẻ và trẻ trung của nó. Nhưng điện ảnh là gì thì vẫn chưa có
một khái niệm như văn học.
Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt, điện ảnh đã được định nghĩa là “1Kỹ thuật thu vào phim những hình cử động liên tục và chiếu lại trên màn ảnh.
2- Ngành nghệ thuật dùng kỹ thuật để thu phát kịch bản được dàn dựng, đạo
diễn công phu” [7; 634]. Còn cuốn sách Từ điển tiếng Việt tường giải và liên
tưởng thì đưa ra cách hiểu về điện ảnh là “nghệ thuật phản ánh hiện thực bằng
những hình ảnh hoạt động liên tục, thu vào phim (nhựa, video) để chiếu các
cử động lên màn ảnh” [8; 905]. Những nhà nghệ sĩ thì tuỳ theo cảm quan của
mình mà đưa ra những ý kiến khác nhau: “điện ảnh là âm nhạc của ánh sáng”,
“là nghệ thuật của sự biến đổi”, “là hình ảnh chuyển động”, “là con đẻ của
khoa học kỹ thuật”… Tuy nhiên những nhận xét đó chưa phải là toàn bộ nội
hàm của thuật ngữ điện ảnh. Để hiểu được khái niệm điện ảnh một cách tương
đối đầy đủ cần phải có một cái nhìn toàn diện về những thuộc tính của nó.
“Có nhiều quan niệm khác nhau về đặc trưng điện ảnh. Song hiện nay quan
niệm phổ biến nhất cho rằng điện ảnh có 8 thuộc tính cơ bản: điện ảnh là một

13


nghệ thuật tổng hợp, có tính chất quần chúng, tính dân tộc và tính quốc tế,
tính giải trí, tính kinh tế thương mại và mang giá trị tư tưởng nhân sinh sâu
sắc. Điện ảnh là con đẻ của khoa học kỹ thuật - công nghệ và nằm trong cấu
trúc văn hoá, truyền thông đại chúng” [13; 16].

Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp bởi nhiều nguyên nhân sau.
Thứ nhất là điện ảnh đã tiếp nhận ở văn học đề tài, cốt truyện, tư tưởng, lời
thoại và các thủ pháp nghệ thuật. Trong lịch sử điện ảnh thế giới cũng như
Việt Nam, việc các thể loại điện ảnh, đặc biệt là phim truyện luôn kế thừa ý
tưởng, cốt truyện… của các tác phẩm văn học là một điều hết sức phổ biến.
Chẳng cần nêu thật tỉ mỉ, chúng ta cũng thấy quá rõ, phần lớn phim truyện
của ta được hình thành dựa trên thành tựu của văn học nước nhà như: Lửa
trung tuyến (năm 1961) dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Văn Dân, Chim
vành khuyên (năm 1962) dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Thông, rồi Chị Tư
Hậu (năm 1964), Nổi gió (năm 1966), Cánh đồng hoang (năm 1979), Mẹ
vắng nhà (năm 1979)…
Điện ảnh còn tiếp nhận ở hội hoạ và các loại hình nghệ thuật khác như
điêu khắc, kiến trúc… để tạo ra những thành tố cho một bộ phim. Với
24hình/s, có thể nói rằng, mỗi khoảnh khắc trong một bộ phim là rất nhiều tác
phẩm nghệ thuật tạo hình liên hệ với nhau. Mỗi hình phim giống như một tác
phẩm hội hoạ mà ở đó dưới sự chỉ đạo của người đạo diễn, sự bài trí của
người hoạ sĩ, cách đặt máy quay của người quay phim, diễn xuất của diễn
viên hay một cảnh thiên nhiên tĩnh lặng… đều là một tác phẩm hội hoạ có bố
cục hoàn chỉnh về màu sắc, có tiền cảnh, hậu cảnh… có chủ điểm ý tưởng mà
những người làm phim muốn gửi đến người xem. Cảnh Natalia bị Grigôri
ruồng bỏ, quỳ ngoài trời trong đêm mưa, giơ đôi tay quằn quại, thất vọng lên
không trung mịt mù, cầu van đấng tối cao trừng phạt người chồng bội bạc

14


trong phim Sông Đông êm đềm chính là bước chuyển ngôn ngữ từ bức tranh
Một con chiên đau khổ cầu chúa và tác phẩm điện ảnh.
Điện ảnh đưa âm nhạc tham gia vào bộ phim không chỉ để phụ hoạ làm
nền mà còn làm tăng tính chất trữ tình và thi vị cho bộ phim. Những ai đã

từng xem phim Xô Viết Bản tình cả của những người yêu nhau hẳn không thể
nào quên được lời bài hát đớn đau nhưng tràn đầy hy vọng của cô gái tưởng
như bị mất người yêu khi chàng trai phải đi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Hay
ca khúc Hoa sữa ngọt ngào trong bộ phim Hà Nội - Mùa chim làm tổ, ca khúc
da diết buồn Chị tôi trong phim truyền hình nhiều tập Người Hà Nội…
Những gì mà điện ảnh tiếp nhận ở những loại hình nghệ thuật khác,
những thông điệp bằng lời, bằng âm nhạc, bằng hình ảnh … đã tạo nên tính
tổng hợp của nghệ thuật điện ảnh. Bởi vậy, nói về điện ảnh, có nhà nghiên
cứu đã phải khẳng định rằng: “Điện ảnh là một nghệ thuật tổng hợp, mang
đến cho hàng triệu người xem ngôn từ của nhà văn, tranh của hoạ sĩ, diễn xuất
của diễn viên, giai điệu của nhạc sĩ… Đây là nghệ thuật liên kết hội hoạ và
kiến trúc, âm nhạc và văn học. Phim có âm thanh và màu sắc, khổ rộng và lập
thể - Đây quả thực là một nghệ thuật tổng hợp” [8; 17]. Với tính tổng hợp về
ngôn ngữ biểu hiện như vậy, điện ảnh có thể phản ánh đời sống một cách
phong phú, hiện thực hơn tất cả các nghệ thuật khác, đồng thời cũng “phi hiện
thực”, “siêu hiện thực” hơn tất cả. Điện ảnh là nghệ thuật chân tình nhất, chủ
quan nhất, cảm động nhất, thấm sâu nhất, tác động mạnh mẽ nhất vào giác
quan của người xem. Điện ảnh đã mở đường cho việc nhận thức bằng nghệ
thuật những chân trời rộng lớn.
Tuy nhiên sẽ rất sai lầm nếu nghĩ rằng điện ảnh chỉ là sự “hoà lẫn” các
loại hình nghệ thuật khác nhau. Điện ảnh hoàn toàn là một loại hình độc lập,
tính chất độc lập của nó không kém gì so với các loại hình nghệ thuật khác.
Nó chỉ sử dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm phong phú của quá trình phát

15


triển nghệ thuật trước kia chứ không phải là sự “liên kết” các loại hình nghệ
thuật khác nhau thành một con số cộng.
Và với tư cách là một nghệ thuật thì có lẽ không có một nghệ thuật nào

lại có tính quần chúng, phổ cập to lớn như điện ảnh. Ở Việt Nam các bộ phim
Mối tình đầu, Đến hẹn lại lên, Cánh đồng hoang… cũng có đến hàng triệu
lượt khán giả. Đỉnh cao là năm 1985, 350 triệu lượt xem. Thật khó có loại
hình nghệ thuật nào lại có đông khán giả đến thế. Bởi vậy, Lênin đã nói:
“Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, đối với chúng ta, nghệ thuật điện ảnh
là quan trọng nhất”. Nói như vậy không có nghĩa là Người đặt nghệ thuật điện
ảnh cao hơn nghệ thuật thi ca, hội hoạ, âm nhạc… mà là Người muốn nhấn
mạnh đến tính quần chúng vô cùng to lớn của điện ảnh.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, mỗi tác phẩm điện ảnh của một
quốc gia đều mang một dấu ấn dân tộc - quốc tế nhất định và có tính chất giải
trí rõ nét. Cùng với truyền hình và báo viết, báo điện tử và điện ảnh cũng nằm
trong cấu trúc văn hoá và truyền thông đại chúng.
Ra đời vào ngày 28/12/1989 bộ phim đầu tiên của nhân loại được chiếu
tại thủ đô Pari và cũng chính ngày tháng năm đó ghi nhận sự ra đời của nghệ
thuật thứ bảy. Từ đó đến nay, điện ảnh đã có những bước tiến khổng lồ: từ
phim câm đến phim có âm thanh, phim nói; từ màn ảnh vừa đến màn ảnh
rộng; từ phim đen trắng đến phim màu; từ phim ngắn đến phim dài… Đó là
nhờ vai trò vô cùng to lớn của kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã giúp điện
ảnh có những bước đột phá ngoạn mục mà chính con người cũng không hề
tưởng tượng nổi. Không có một góc khuất nào của đời sống tâm linh con
người và những nhu cầu vật chất của nó cũng như những mối quan hệ chằng
chịt… mà điện ảnh lại không thể với tới được.
Nói đến nghệ thuật người ta thường chỉ nghĩ đến việc sáng tạo cái đẹp.
Nhưng nghệ thuật điện ảnh không chỉ mang những vẻ đẹp của một loại hình

16


nghệ thuật thời thượng bậc nhất mà nó còn có tính kinh tế thương mại cao.
Điện ảnh vừa là nghệ thuật đồng thời cũng vừa là một ngành công nghiệp:

công nghiệp điện ảnh.
Một tác phẩm điện ảnh có giá trị thực sự thì phải có tư tưởng nhân sinh
sâu sắc. Đó chính là thông điệp mà điện ảnh đem đến cho người xem thông
qua việc phản ánh những “vấn đề lớn”, có “sức lay động xã hội”. Một con
chim vành khuyên được cô bé Nga lúc sắp chết gắng gượng mở túi áo để có
thể bay lên trên bầu trời tự do (Chim vành khuyên), hay một nàng Thu Cúc
bụng mang dạ chửa (Thu Cúc đi kiện) đến bán từng cơn ớt khô cuối cùng để
đi thưa kiện, mong nhận được một lời xin lỗi tử tế… là những thông điệp lớn,
có chiều sâu tư tưởng nhân sinh, có sức nặng trong lòng độc giả và đem đến
thành công không nhỏ cho bộ phim.
Để tóm lược lại những gì về khái niệm thuật điện ảnh đã được trình bày
ở trên, chúng tôi đưa ra một sơ đồ khái quát như sau:

Tính tổng
hợp

Tính dân tộc
và quốc tế

Tính quần
chúng

Giá trị tư
tưởng nhân
sinh

Điện ảnh là
một loại hình
công nghiệp


Nằm trong cấu trúc
văn hoá và truyền
thông đại chúng

17

Kỹ thuật và
công nghệ

Kinh tế và
thương mại

Tính
giải trí


1.2.2. Đặc trưng của điện ảnh
Điện ảnh là một loại hình tổng hợp nên ngôn ngữ của nó cũng là ngôn
ngữ tổng hợp, bao gồm ngôn ngữ của thị giác, thính giác và sự ráp nối chúng.
1.2.2.1. Ngôn ngữ thị giác
“Điện ảnh là ngôn ngữ của các hình ảnh thị giác có từ vựng, phép đặt
câu, bỏ lửng trong câu, có các dấu chấm câu và ngữ pháp của mình” [4; 8].
Hình ảnh chính là chất liệu cơ bản của ngôn ngữ điện ảnh, nó có nhiệm
vụ giới thiệu với chúng ta những hình tượng sẽ đập vào thị giác. Hình ảnh là
thứ nguyên liệu đầu tiên của nghệ thuật điện ảnh và cũng là một hiện thực vô
cùng phức tạp. Nguồn gốc của nó có tính hai mặt khá sâu sắc, nó vừa là sản
phẩm mặc nhiên của máy quay vốn có khả năng tái tạo lại một cách chính xác
hiện thực do con người chọn lựa và tổ chức theo một mục đích thẩm mỹ nhất
định.
Từ vai trò to lớn của hình ảnh, người ta đã đưa ra một nhận định về điện

ảnh là: “một nghệ thuật của những hình ảnh chuyển động”. Giăng ÉpStanh
viết rằng: “sự chuyển động đã thực sự tạo nên đặc điểm đầu tiên của hình ảnh
trên màn ảnh”. Trong một ý nghĩa nhất định, một cuốn phim là một loạt ảnh
chụp nối tiếp nhau, dĩ nhiên là những ảnh “hoạt động” được ghi lại trên một
cuộn phim liên tục… Nếu đem tách những hình ảnh đó ra khỏi bộ phim thì ở
một mức độ nào đó đều trở thành vô nghĩa. Việc truyền đạt sự chuyển động,
đó chính là ý nghĩa tồn tại của điện ảnh, là đặc tính chủ yếu, biểu hiện cơ bản
về bản chất của nó.
Hình ảnh điện ảnh có các đặc tính: tính hiện thực, tính đơn nhất của biểu
hiện, tính “dung lượng”, sự phát triển hành động ở “thì hiện tại”, phải là một
“hiện thực nghệ thuật”-được truyền đạt một cách có “chọn lựa, gọt dũa, và
phải có“vai trò ý nghĩa”. Sáu thuộc tính trên của hình ảnh điện ảnh đã thật sự
chứng minh cho tính chất độc đáo và đặc trưng của tri giác, cảm giác và trí

18


tuệ, đồng thời cho phép chúng ta hiểu được những nguyên nhân sâu xa của
“sức mạnh tinh thần to lớn và dễ truyền” trong nghệ thuật điện ảnh, như
Giăng Épstanh đã nói.
Đặc trưng của điện ảnh đòi hỏi phải làm thế nào cho các hình ảnh, bối
cảnh trên màn ảnh phải thật sự hiện thực và tạo ra tính chân thực cho hành
động. Bởi vậy, mọi hình ảnh xuất hiện trên màn ảnh đều thông qua dàn cảnh.
Dàn cảnh là một trong những kỹ thuật làm điện ảnh quen thuộc nhất. Đó là
một phần việc của làm phim giống như nghệ thuật sân khấu: xếp đặt, ánh
sáng, phục trang và hành vi nhân vật. Trong sự kiểm soát của dàn cảnh, người
đạo diễn đưa ra tiêu điểm cho máy quay. Bất kỳ loại phim nào mà chúng ta
xem đều sử dụng dàn cảnh. Dàn cảnh cho phép những vật thể có khả năng
diễn đạt cảm xúc và suy nghĩ, đồng thời cũng tích cực hoá chúng để tạo ra các
khuôn mẫu khác nhau. Cảnh có thể được dàn dựng, bài trí hoặc sử dụng chính

những bối cảnh thiên nhiên, ví dụ như: sa mạc với những cơn bão cát trong
phim Gió, thung lũng chết hoang dã và nóng bức trong Lòng tham, ngọn núi
lạnh lẽo và chết chóc trong phim Địa ngục trắng… tất cả những bộ phim trên
đều là những phim nổi tiếng ở chỗ bối cảnh xung quanh kịch rất phù hợp với
nó đồng thời góp phần vào việc xác định tâm trạng của các nhân vật. Tuy
nhiên cảnh quay không chỉ là thùng chứa những sự kiện của con người mà
còn tác động đến việc dẫn chuyện. Toàn bộ thiết kế cảnh có thể xếp đặt làm
thế nào để chúng ta hiểu được diễn biến của câu chuyện.
Nhiều tác động của hình ảnh là do thuật bố trí ánh sáng đem lại. Trong
lĩnh vực điện ảnh, thuật bố trí ánh sáng không chỉ là sự chiếu sáng mà còn cho
phép chúng ta nhìn thấy hành động. Nó tạo hình cho các vật thể bằng cách tạo
ra các mảng sáng, mảng tối, đồng thời nó còn tạo hình cho toàn bộ bố cục
cảnh quay. Ánh sáng là tất cả mọi thứ, nó biểu đạt ý thức hệ, cảm xúc, màu
sắc, chiều sâu, phong cách. Nó có thể xoá mờ, kể chuyện, miêu tả. Với thuật

19


bố trí ánh sáng phù hợp, gương mặt xấu xí nhất, sự biểu hiện ngô nghê nhất
cũng có thể toả ra vẻ đẹp của sự thông minh.
Cùng với ánh sáng là màu sắc, một cấu tạo quan trọng của cảnh để tạo
nên hình ảnh. Bộ phim Play Time của Jacques Tati đã đưa ra sự thay đổi
chính xác về kế hoạch màu sắc. Phần đầu của bộ phim, cảnh và trang phục
hoàn toàn là màu sáng, màu nâu và màu đen - những gam màu lạnh. Phần sau
của bộ phim, bắt đầu từ cảnh trong nhà hàng, màu sắc chuyển sang những
gam tươi sáng, như đỏ, hồng, xanh lá cây… Sự thay đổi màu sắc của cản hỗ
trợ cho sự phát triển của câu chuyện.
Trang phục hay phục trang thường phối hợp với việc dựng cảnh. Nó như
một bộ phận cấu thành của một phong cách dàn dựng nhất định của một bộ
phim. Phục trang hiện trên nền những bối cảnh khác nhau, nhằm nhấn mạnh

những động tác và tư thế của các nhân vật, phù hợp với những gì mà họ thể
hiện. Phục trang trong điện ảnh cần phải hết sức chân thực và thật sự điển
hình. Nó làm nổi bật lên tính cách và sự nhận thức, trạng thái xã hội của nhân
vật. Phục trang cũng có thể tạo ra những ấn tượng tâm lý đối với người xem
và nó có thể đóng vai trò thúc đẩy, tạo dựng nhân quả trong cách kể chuyện.
Ánh sáng, trang phục, màu sắc… có một vị trí quan trọng như vậy nhưng
diễn xuất của diễn viên còn có vai trò to lớn hơn: “Dù không sử dụng cảnh
dựng sẵn, nhờ diễn xuất của các diễn viên, điện ảnh vẫn cứ là một nghệ
thuật”, “điện ảnh vẫn không thể thực sự phát triển thành một nghệ thuật
phong phú và vĩ đại được nếu không có sự tham gia của diễn viên” [10; 175].
Sự cần thiết đó là do những người xây dựng phim không thể nào quay được
một khối lượng lớn lao các cảnh phim trong cuộc sống thực để dựng thành tác
phẩm. Và nếu thiếu sự tham gia của các diễn viên thì không thể quay được
những bộ phim nhằm mục đích phát hiện một cách toàn diện thế giới nội tâm
của từng người và những số phận riêng, phức tạp của họ.

20


×