Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.29 KB, 30 trang )

Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

I. Đặt vấn đề.
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Trong chương trình học Phổ thông bậc học Tiểu học là cấp học đầu tiên có
nhiệm vụ quan trọng là đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách cho học sinh.
Đây là bậc học cung cấp những kiến thức và rèn luyện các kỹ năng bằng (nghe, nói,
đọc, viết) và các hoạt động thực tiễn trong các môn học đều có mối quan hệ mật
thiết với nhau, song song với công tác giảng dạy môn Tiếng việt thì môn Toán được
người giáo viên hết sức quan tâm lưu ý và đặc biệt giải toán có lời văn là một mạch
kiến thức rất quan trọng của bộ môn toán ở Tiểu học. Sở dĩ như vậy là vì giải toán
có lời văn không những học sinh vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn mà còn
củng cố, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức của học sinh, đồng thời giúp học sinh rèn
luyện tính tư duy, linh hoạt, sáng tạo, trí thông minh.
Các bài toán có lời văn khác với các bài toán không có lời văn ở chỗ trong bài
toán có chứa lời văn. Chính vì vậy việc giải toán có lời văn sẽ khác với giải toán
không có lời văn. Lời văn của bài toán có thể cho dưới dạng tường minh hoặc
không tường minh, đòi hỏi học sinh phải tư duy để hiểu được. Ví dụ trong một bài
toán có những từ ngữ đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ như thêm vào, bớt đi nhiều
hơn, ít hơn.
Khi tiến hành giải toán có lời văn phải trải qua các bước nối tiếp nhau gọi là quy
trình giải toán. Đối với học sinh lớp 3 thì việc nắm được các quy trình giải toán có
lời văn sẽ làm cho việc giải quyết bài toán một cách nhanh chóng, chính xác và
hiệu quả, giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực
hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn
luyện kỹ năng thực hành và thực tiễn.
- Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ
năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
- Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao
động như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể,…
Ở tiểu học, học sinh lớp 3 thì giải toán có lời văn không còn mới lạ, khả năng


nhận thức và tư duy của các em đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và phát
triển.Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy
nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các
bài toán có lời văn là các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

1


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về
vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ
thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các
điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính.
Từ những lý do đó, đối với học sinh lớp 3 việc học toán và giải toán có lời văn
rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải
nghiên cứu biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững
vàng, hiểu sâu bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp
suy luận lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong
cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Để giúp học sinh
biết cách tìm lời giải và trình bày bài giải bài toán có lời văn được tốt, một việc rất
quan trọng là việc hình thành cách giải các dạng toán có lời văn cho học sinh. Từ
những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài: "Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học
sinh lớp 3"
2. Nhiệm vụ của sáng kiến kinh nghiệm.
1. Tìm hiểu nội dung giải toán có lời văn ở lớp 3.
2. Tìm hiểu thực trạng giải toán có lời văn của học sinh lớp 3 trường Tiểu học
Lãng Sơn - Yên Dũng - Bắc Giang.
3. Tìm hiểu, phân tích các bước giải toán có lời văn ở lớp 3 giúp học sinh dễ

dàng trong giải toán.
4. Rút ra một số kinh nghiệm sau khi nghiên cứu đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát điều tra, nghiên cứu thực tế
Phương pháp nêu vấn đề.
Phương pháp thảo luận nhóm.
Phương pháp quan sát trực quan.
Phương pháp thống kê số liệu.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Học sinh lớp 3B trường Tiểu học Lãng Sơn.
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

2


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Sách giáo khoa Toán 3.
Sách phân loại và phương pháp giải toán 3.
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận
Giải toán có lời văn là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng
dạy môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ
với nội dung của số học và số học tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản
và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời
văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau:
Các khái niệm, các quy tắc về toán trong sách giáo khoa nói chung được thể
hiện thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vân dụng các
kiến thức rèn kĩ năng tính toán. Đồng thời thông qua việc giải toán của học sinh mà

giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về
kiến thức, kĩ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục.
Việc kết hợp học và thực hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực
hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với đời sống thực tế
một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng thực hành
cần thiết trong đời sống hàng ngày từ đó giúp các em biết vận dụng các kĩ năng đó
vào cuộc sống.
Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những
cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật
biện chứng: việc giải toán với tài thích hợp có thể giới thiệu cho các em những
thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc giải toán có
thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học Ví dụ: các số, các phép tính,
các đại lượng... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt
động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái
đã biết và cái phải tìm.
Việc giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học
sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của người lao động mới. Khi giải một
bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em phải phân
biệt cái đã cho và cái cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện của bài
toán giữa cái đã cho và cái phải tìm.

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

3


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

2. Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế các năm giảng dạy theo chương trình mới tôi thấy chương trình

Toán lớp 3 gồm các mạch kiến thức: Số học; Đại lượng và đo đại lượng; Các yếu tố
hình học; Giải toán có lời văn. Các mạch kiến thức này hỗ trợ cho nhau tạo ra sự
thống nhất về quan điểm sư phạm. Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý, đan xen
và phù hợp với các mạch kiến thức khác trong Sách giáo khoa Toán 3.
Dạy học giải toán là con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy, sáng tạo
cho học sinh đồng thời rèn luyện khả năng diễn đạt và cách trình bày cho học sinh.
Tuy nhiên trong thực tế học sinh giải toán vẫn còn máy móc chưa sáng tạo, còn bộc
lộ nhiều hạn chế về phương pháp giải toán cũng như khả năng diễn đạt khi giải
toán.
3. Đánh giá thực trạng
3.1. Thuận lợi:
Hầu hết các giáo viên đã tìm hiểu kỹ bài dạy và truyền đạt đủ kiến thức cơ
bản trong yêu cầu của sách giáo khoa. Giáo viên đã kết hợp nhiều phương pháp
trong một tiết dạy (giảng giải, trực quan, vấn đáp gợi mở) để dẫn dắt học sinh tìm
ra kiến thức, quan tâm đến việc dạy toán có lời văn.
Nhìn chung các em học sinh trong trường có kỹ năng tóm tắt trình bày bài
giải các bài toán có lời văn tương tự như những bài toán mẫu và có sự suy luận
sáng tạo tìm ra các cách giải khác mà các bước giải có lý kết quả đúng.
Nhà trường có thư viện với nhiều đầu: sách học sinh, sách tham khảo, sách
hướng dẫn.
Bản thân nắm chắc và sâu kiến thức về toán trong chương trình tiểu học.
100% học sinh được học hai buổi/ ngày tạo thuận lợi về thời gian rèn cho các
em.
3.2. Khó khăn:
Việc dạy giải toán có lời văn đã được quan tâm song chưa nhiều, trong
chương trình sách giáo khoa một số tiết chỉ yêu cầu làm một bài hoặc không có bài
nào theo chương trình giảm tải. Khi dạy thầy cô còn giảng nhiều, làm mẫu nhiều.
Do đó học sinh lĩnh hội một các máy móc, thụ động.

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang


4


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Một số học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm hoặc khả năng suy luận sâu
chuỗi công thức, kiến thức liên quan còn chưa tốt, còn hay lẫn lộn các dạng toán cơ
bản.
4. Biện pháp tiến hành
a. Tìm hiểu học sinh:
Trước khi bước vào năm học mới, tôi đã tiến hành tìm hiểu tỉ mỉ, sâu sắc, toàn
diện hoàn cảnh gia đình của từng em thông qua giáo viên chủ nhiệm năm trước và
buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm. Đồng thời kết hợp với sổ điểm của năm học
trước để nắm được hạnh kiểm, khả năng học môn toán của từng em. Sau đó tôi tiến
hành khảo sát học sinh đầu năm về nội dung “Giải toán có lời văn” của môn toán
mà các em đã được học ở lớp 2. Từ kết quả thu được, tôi đã tiến hành phân loại cụ
thể từng nhóm đối tượng học sinh như sau:
Số học sinh giải và trình bày bài giải đúng là: 9 em = 31%
Số học sinh trả lời sai nhưng có phép tính và đáp số đúng là: 9 em = 31%
Số học sinh trả lời đúng và có phép tính đúng nhưng ghi danh số sai là: 7 em =
24%
Số học sinh không làm được là: 4em = 12%
Từ kết quả khảo sát thu được ở trên tôi đã ghi chép cẩn thận vào sổ theo dõi .
Tôi rất lo lắng, băn khoăn, suy nghĩ và tự đặt ra các câu hỏi cho mình: Tại sao sau
một thời gian nghỉ hè nhiều em lại không làm được bài toán có lời văn như vậy?
Hay là ở lớp 2 các em chưa nắm chắc kĩ năng giải loại toán này ?... Nhưng tôi đã
kiểm tra lại sổ theo dõi chất lượng năm học trước thì thấy kết quả môn toán không
phải là thấp. Do vậy tôi đã thường xuyên gần gũi học sinh trong các giờ học toán,
để tìm hiểu nguyên nhân. Cuối cùng tôi cũng đã tìm được câu trả lời: Phần lớn các

em qua thời gian nghỉ hè với bản tính hiếu động và không được rèn luyện thường
xuyên nên các em đã bị hẫng hụt về nội dung này. Cũng có một số em thực sự học
tập một cách máy móc, thụ động và yếu về nội dung giải toán.
Nắm được nguyên nhân dẫn đến kết quả trên, tôi đã tự đề ra cho mình là cần phải
nghiên cứu nội dung “Giải toán có lời văn” Toán lớp 3 để phân loại và đề ra
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

5


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

phương pháp giảng dạy có hiệu quả cho từng loại bài cụ thể và phù hợp với từng
đối tượng học sinh, giúp các em nắm chắc cách làm từng loại bài và vận dụng sáng
tạo khi thực hành .
b. Phân loại và các giải pháp khi giải toán có lời văn ở lớp 3.
Đối với học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng, với nội dung giải
toán có lời văn thì khả năng giải toán là thước đo năng lực của học sinh. Để giúp
học sinh giải toán được tốt, tôi đã nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa Toán lớp
3, phân loại thành các dạng bài cụ thể đề ra phương pháp hướng dẫn với mỗi loại
bài. Giáo viên cần tổ chức giờ học dưới dạng các hoạt động học tập, học sinh được
phát huy tính tích cực, chủ động cố gắng tự mình chiếm lĩnh kiến thức dưới sự
hướng dẫn có mức độ của thầy.
b.1.Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
Bài 2 (trang 26): Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được

1
số vải đó. Hỏi
5


cửa hàng đó đã bán mấy mét vải xanh?
Học sinh thường làm sai :
Cửa hàng đó đã bán số mét vải xanh là:

40 - 5 = 35(m)

Nguyên nhân: Do các em chưa nắm được cách giải dạng toán “Tìm một trong
các phần bằng nhau của một số”. Các em đã nhầm với dạng bài toán bớt đi một số
đơn vị.
Biện pháp khắc phục: Giáo viên chỉ ra chỗ sai để kịp thời uốn nắn, khắc phục
sai lầm về cách tính, cách trình bày và cách ghi phép tính. Đặc biệt chỉ rõ sai lầm
trong tư duy, tưởng tưởng cho học sinh.
Giáo viên cần chú ý khắc sâu kiến thức cơ bản, yêu cầu học sinh nắm chắc quy
tắc, hiểu bản chất của dạng toán “Tìm một trong các phần bằng nhau của một số” ta
lấy số đó chia cho số phần. Học sinh biết xác định được điều kiện của bài toán biết
được “số đó” và số phần.
Cách giải: Cửa hàng đó đã bán số mét vải xanh là:

40 : 5 = 7(m)
Đáp số: 7m vải

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

6


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

b.2. Gấp một số lên nhiều lần.
Bài 1( trang 33).

Năm nay em 6 tuổi, tuổi chị gấp hai lần tuổi em. Hỏi chị năm nay bao nhiêu tuổi ?
Học sinh thường làm sai :
Năm nay tuổi của chị là:

6 + 2 = 8(tuổi)

Nguyên nhân: Do các em chưa nắm được cách giải dạng toán gấp một số lên
nhiều lần. Các em đã nhầm với dạng bài toán thêm một số đơn vị.
Biện pháp khắc phục:
Trong khi dạy học bài mới, giáo viên cần chú ý khắc sâu kiến thức cơ bản, yêu
cầu học sinh nắm chắc quy tắc, hiểu bản chất của dạng toán gấp một số lên nhiều
lần
Rèn kĩ năng giải bài toán qua việc chú ý đưa ra những sai lầm mà học sinh thường
mắc phải. Cho học sinh thực hiện sau đó giáo viên phân tích kĩ nguyên nhân sai
lầm của các em để kịp thời uốn nắn, sửa chữa.
Rèn luyện kĩ năng nhớ quy tắc bằng cách cho học sinh thông qua các ví dụ (Với
dạng toán này học sinh phải nắm chắc được điều kiện của bài toán là phải biết
được số đó và số lần; Muốn gấp một số lên nhiều lần ta lấy số đó nhân với số lần).
Cách giải: Năm nay, tuổi của chị là:
6 × 2 = 12(tuổi)
Đáp số: 12 tuổi
Từ đó giáo viên có thể đưa một số bài nâng cao cho học sinh giỏi: Số bé nhất có
hai chữ số gấp 2 lần thì được bao nhiêu?; Học sinh xác định được số bé nhất có hai
chữ số là 10; 10 gấp 2 lần ta lấy (10 × 2 = 20)
b.3. Giảm một số đi nhiều lần
Bài 3b( trang 37)
Một công việc làm bằng tay hết 30 giờ, nếu làm bằng máy thì thời gian giảm đi 5
lần. Hỏi làm công việc đó bằng máy hết mấy giờ ?
Học sinh thường làm sai :
Làm công việc đó bằng máy hết số thời gian là:

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

7


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

30 - 5 = 25( giờ)
Nguyên nhân: Do các em chưa nắm được cách giải dạng toán “Giảm đi một số
lần”. Các em đã nhầm với dạng bài toán bớt đi một số đơn vị.
Biện pháp khắc phục:
Trong khi dạy học bài mới, giáo viên cần chú ý khắc sâu kiến thức cơ bản, yêu
cầu học sinh nắm chắc quy tắc, hiểu bản chất của dạng toán giảm đi một số lần
(Muốn giảm một số đi nhiều lần ta chia số đó cho số lần).
Rèn luyện kĩ năng nhớ quy tắc bằng cách cho học sinh thông qua các ví dụ ( Với
dạng toán này học sinh phải nắm chắc được điều kiện của bài toán là phải biết
được số đó và số lần; với bài toán trên thì số đó là 30 giờ, số lần là 5 lần).
Giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ nhằm giúp học sinh chọn
phép tính chia khi giải.
30 giờ

Làm tay
ay

Làm máy
ay

? giờ
Cách giải: Làm công việc đó bằng máy hết số giờ là:
30 : 5 = 6(giờ)

Đáp số: 6 giờ

b.4. Các bài toán đơn về “nhiều hơn” “ít hơn” “so sánh nhiều hơn hoặc ít
hơn một số đơn vị”.
Bài 1 (trang 12): Đội một trồng được 230 cây, đội một trồng được ít hơn đội hai 90
cây. Hỏi đội hai trồng được bao nhiêu cây ?
Bài 2(trang 12): Một cửa hàng buổi sáng bán được 635 lít xăng, buổi sáng bán
được nhiều hơn buổi chiều 128 lít xăng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao
nhiêu lít xăng ?
Bài 4 (trang 12): Bao gạo cân nặng 50 kg, bao ngô cân nặng 35kg. Hỏi bao ngô
nhẹ hơn bao gạo bao nhiêu ki - lô - gam?
Học sinh thường làm sai:
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

8


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bài 1 : Đội hai trồng được số cây là: 230 – 90 = 140(cây)
Bài 2: Buổi chiều cửa hàng đó bán được số lít xăng là: 635 + 128 = 763(l)
Nguyên nhân: Do các em chưa nắm chắc được dạng toán nhiều hơn và dạng
toán ít hơn. Ở bài 1 ta dùng từ “ít hơn”, học sinh cứ thấy có từ “ít hơn”là làm tính
trừ. Còn ở bài 2 ta dùng từ “nhiều hơn”, học sinh cứ thấy có từ “nhiều hơn”là làm
tính cộng.
Biện pháp khắc phục: Ở giai đoạn đầu của lớp 3 các em được học các dạng bài
toán đơn. Mỗi bài toán đơn đều thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ giữa
cái đã cho và cái phải tìm. Điều quan trọng nhất là giáo viên giúp học sinh biết
chọn được một phép tính thích hợp với tình huống đó. Để làm rõ mối quan hệ này,
giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách tóm tắt bài toán. Ở lớp 3 thường sử

dụng sơ đồ đoạn thẳng để minh họa điều kiện của bài toán.
Bài 1
Đội một

230 cây
90 cây

Đội hai
? cây

Sơ đồ này thường sử dụng trong bài toán về “ Nhiều hơn” (dạng trực tiếp: tìm số
lớn), nhằm giúp học sinh chọn phép tính cộng khi giải.
Bài 2

635 lít

Buổi sáng
128 lít

Buồi chiều
? lít

Sơ đồ dạng này thường sử dụng trong bài toán về “ít hơn” (dạng trực tiếp : Tìm số
bé) nhằm giúp học sinh chọn phép tính trừ khi giải.
Giáo viên nhắc nhở học sinh tránh quan niệm sai : Hễ cứ thấy “nhiều hơn” là
làm tính cộng và “ít hơn” là làm tính trừ.
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

9



Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bài 4 (trang 12)
50 kg
Bao gạo
? kg

Bao ngô
35 kg

Sơ đồ dạng này thường dùng trong bài toán “So sánh hai số hơn kém nhau bao
nhiêu đơn vị” nhằm giúp học sinh chọn phép tính trừ.
Các bài toán nêu trên là các bài toán đơn, thể hiện mối quan hệ hiệu. Đó là các
tình huống khi so sánh hai số:
Tìm một số khi biết số đó lớn hơn (hoặc nhỏ hơn) số đã cho một số đơn vị.
Biết hai số. Tìm xem số này lớn hơn (hoặc nhỏ hơn) số kia bao nhiêu đơn vị.
Việc tìm hiểu bài toán bằng cách vẽ sơ đồ minh họa là một trong những biện
pháp nhằm giúp học sinh chọn được phép tính giải thích hợp. Tiếp theo đó, giáo
viên hướng dẫn học sinh biết cách trình bày bài giải gồm: lời giải, phép tính và đáp
số. Lời giải là câu trả lời cho câu hỏi của bài toán.
Dạy giải toán đơn có vai trò quan trọng đối với dạy giải toán hợp. Vì thế giáo viên
cần giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng giải toán đơn, nhất là biết đặt câu hỏi cho
bài toán đơn còn thiếu câu hỏi.
b. 5. Các bài toán hợp
Bài 2 (trang 50): Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn
thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?
Bài 2 (trang 51): Một thùng đựng 24l mật ong, lấy ra

1

số lít mật ong đó. Hỏi
3

trong thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong?
Học sinh thường làm sai:
Bài 2 trang 50:

Cả hai thùng đựng được số lít dầu là: 18 + 6 = 24(l)

Bài 2 trang 51: Trong thùng còn lại số lít mật ong là: 24 : 3 = 8(l)

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

10


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Nguyên nhân: Học sinh chưa đọc kĩ bài toán, không hiểu đây là bài toán hợp bài toán giải bằng hai phép tính.
Biện pháp khắc phục: Ở giai đoạn tiếp theo của chương trình Toán 3, học sinh
được học giải bài toán bằng hai phép tính. Mỗi bước tính là một bước giải một bài
toán đơn. Kết quả ở phép tính ở bước tính thứ nhất sẽ là một thành phần của phép
tính của bước tính thứ hai. Giáo vên cần giúp học sinh nêu lên lược đồ giải toán
hợp như sau:
Phân tích bài toán:
Đọc kĩ bài toán, nhất là điều kiện của bài toán và câu hỏi của bài toán.
Tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng cách đặt một câu hỏi phụ để lập
bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó. Sau đó lập bài
toán đơn thứ hai rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó. Chẳng hạn:
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích.

Bài 2 (trang 50) Bước 1: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thừng thứ hai đựng
nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi thùng thứ hai đựng bao nhiêu lít dầu ?
Học sinh có thể vẽ sơ đồ minh họa (ở giấy nháp)
Thùng 1:

18 lít
6 lít

Thùng 2:
? lít

Học sinh chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
18 + 6 = 24 ( lít )
Bước 2: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng 24 lít dầu. Hỏi cả hai
thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

11


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Học sinh có thể vẽ sơ đồ minh họa (ở giấy nháp)
18 lít
Thùng 1:
6 lít

Thùng 2:


? lít

24 lít
Học sinh chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
18 + 24 = 42 (lít)
Từ cơ sở phân tích trên, học sinh trình bày bài giải có hai câu lời giải, hai phép
tính và đáp số (giáo viên cần nhắc học sinh phần tóm tắt không phải là một thành
phần trong trình bày bài giải). Qua học sinh thực hành trình bày bài giải, giáo viên
theo dõi uốn nắn học sinh kịp thời về cách trình bày bài giải và ghi danh số (dựa
vào nội dung câu hỏi của bài toán)
Bài giải
Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
18 + 6 = 24 (l)
Cả hai thùng đựng được số lít dầu là:
18 + 24 = 42 (l)
Đáp số: 42 l dầu.
b.6. Các bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Trong chương trình Toán 3 đã xuất hiện bài toán liên quan đến rút về đơn vị
(ở cuối học kì I và giữa học kì II), đây là dạng toán lần đầu tiên học sinh được làm
quen. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị có hai loại bài cơ bản (tìm giá trị của
nhiều phần và tìm số phần). Ví dụ:
Bài 2(trang 128): Có 35 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó đựng bao
nhiêu ki-lô-gam gạo ?
Bài 1 (trang 166): Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi 15 kg đường đựng
trong mấy túi như thế ?

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

12



Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Học sinh thường làm sai:
Bài 2 (trang 128): Mỗi bao đựng số gạo là: 35 × 7 = 245(kg)
Năm bao đựng số gạo là: 245 × 5 = 1225(kg)
Đáp số: 1225kg gạo
Bài 1(trang 166): Mỗi túi đựng được số đường là: 40 : 8 = 5(kg)
15kg đường đựng được trong số túi như thế là: 15 × 5 = 75(túi)
Đáp số: 75 túi
Nguyên nhân: Do các em chưa nắm chắc được hai bước giải của bài toán liên quan
đến rút về đơn vị, khi giải còn lẫn giữa hai loại bài cơ bản.
Biện pháp khắc phục: Khi giải bài toán này giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm
chắc hai bước giải.
Bước 1: Tìm giá trị của một phần (thực hiện phép tính chia);(bước này chính là
bước liên quan đến rút về đơn vị)
Bước 2: Tìm giá trị của nhiều phần (thực hiện phép tính nhân) hoặc tìm số phần
(thực hiện phép tính chia)
Trong hai bước giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói trên, giáo viên cần
phải hướng dẫn học sinh thực hiện các bước nhỏ cụ thể.
Khi giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị học sinh phải so sánh được sự giống
nhau và khác nhau của hai loại bài cơ bản (tìm giá trị của nhiều phần và tìm số
phần).
Giống nhau ở bước 1;
Khác nhau ở bước 2
Chẳng hạn:
Bài 2 (trang 128): Bước 1: Tìm hiểu bài toán
Học sinh đọc và phân tích bài toán:
Học sinh phân tích bài toán (Đã cho biết cái gì ? Phải tìm cái gì?)
Học sinh tóm tắt:


7 bao có : 28 kg

5 bao có : ... kg ?
Bước 2: Lập kế hoạch giải :
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

13


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Tìm số ki-lô-gam gạo trong mỗi bao: Biết 7 bao gạo có 28 kg, muốn biết mỗi bao
gạo có bao nhiêu kg phải thực hiện phép tính gì? (phép chia)
28 : 7 = 4 (kg)
Biết mỗi bao gạo có 4 kg gạo, muốn tìm 5 bao gạo có bao nhiêu kg gạo ta phải
làm tính gì? (phép nhân)
4 x 5 = 20 (kg)
Học sinh trình bày bài giải, giáo viên theo dõi uốn nắn.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải
Bài giải
Số ki-lô-gam gạo đựng trong mỗi bao là:
28 : 7 = 4 (kg)
Số ki-lô-gam gạo đựng trong năm bao là:
4 x 5 = 20 (kg)
Đáp số: 20 kg gạo
Bài 1(trang 166): Đối với bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh theo các
bước nhỏ ở bài trên (đối với lớp có nhiều đối tượng học sinh yếu) hoặc giáo viên
có thể gợi ý trực tiếp.
Muốn tìm xem 15 kg đường đựng trong mấy túi thì phải tìm xem mỗi túi đựng

mấy kg đường ?
Học sinh có thể chọn phép tính: 40 : 8 = 5 (kg)
5 kg đường đựng trong một túi thì 15 kg đường đựng trong mấy túi ?
Học sinh chọn phép tính: 15 : 5 = 3 (túi)
Học sinh trình bày bài giải, giáo viên theo dõi uốn nắn:
Bài giải
Số ki-lô-gam đường đựng trong mỗi túi là:
40 : 8 = 5 (kg)
Số túi cần có để đựng hết 15 ki-lô-gam đường là:
15 : 5 = 3 (túi)
Đáp số: 3 túi
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

14


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Qua nghiên cứu tôi thấy rằng, khi dạy học sinh giải bài toán hợp là dạng toán mới
ở lớp 3, giáo viên cần chú ý những vấn đề sau:
Khi tóm tắt bài toán, giáo viên cho học sinh đọc kĩ bài toán. Điều này hết sức cần
thiết nhằm làm rõ giả thiết (Bài toán cho biết gì?) và kết luận (bài toán hỏi gì? Yêu
cầu gì?). Có thể tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng. Từ đó học sinh có thể tìm
mối quan hệ giữa “Cái đã biết và cái chưa biết” đó là cầu nối để tìm ra cách giải
quyết một cách hợp lý.
Khi trình bày lời giải, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ quy trình phải làm: viết
được câu lời giải và phép tính tương ứng. Cần kiên trì để học sinh diễn đạt câu trả
lời bằng lời trước khi viết câu lời giải. Có thể chấp nhận cách diễn đạt tuy “vụng
về” nhưng đúng, rồi giáo viên uốn nắn, hướng dẫn học sinh chỉnh sửa dần. Cái khó
của việc giải toán ở lớp 3 đối với học sinh là trình bày (viết) bài giải bài toán có lời

văn vẫn còn gặp khó khăn. Điều này đòi hỏi giáo viên không sốt ruột, vội vàng làm
thay học sinh mà phải cho học sinh tự luyện viết câu lời giải nhiều.
b.7. Các bài toán về chu vi, diện tích của hình chữ nhật và hình vuông.
Bài 1b(trang 87): Tính chu vi hình chữ nhật có chiều dài 2dm, chiều rộng 13cm.
Học sinh thường làm sai:
Chu vi của hình chữ nhật đó là: (2 + 13) × 2 = 30(cm)
Nguyên nhân: Học sinh không nắm được điểm lưu ý là khi tính chu vi của hình
chữ nhật thì chiều dài và chiều rộng phải cùng đơn vị đo. Cho nên không biết đổi
2dm = 20cm
Biện pháp khắc phục: Khi dạy bài mới, giáo viên cần chú ý khắc sâu kiến thức cơ
bản. Yêu cầu học sinh nắm chắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật và nắm chắc
điểm lưu ý chiều dài và chiều rộng phải cùng đơn vị đo.
Cách giải đúng: Đổi 2dm = 20cm
Chu vi của hình chữ nhật đó là:
(20 + 13) × 2 = 66(cm)
Đáp số: 66cm
Bài 3 (trang 89): Tính cạnh hình vuông, biết chu vi hình vuông là 24cm.
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

15


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Học sinh thường làm sai:
Cạnh của hình vuông đó là: 24 × 4 = 96(cm)
Nguyên nhân: Học sinh chưa nắm chắc được quy tắc tính chu vi của hình vuông.
Biện pháp khắc phục: Khi dạy bài mới, giáo viên phải cho học sinh nắm chắc quy
tắc tính chu vi hình vuông (chu vi hình bằng độ dài một cạnh nhân với 4 hay chu vi
hình vuông gấp 4 lần độ dài một cạnh của nó vì vậy độ dài một cạnh của hình

vuông bằng

1
chu vi của nó).
4

Cách giải đúng: Cạnh của hình vuông đó là: 24 : 4 = 6(cm)
Đáp số: 6cm
Bài 2(trang 152): Một miếng bìa hình chữ nhật có chiều rộng 5cm, chiều dài 14cm.
Tính diện tích miếng bìa đó.
Học sinh thường làm sai:
Diện tích miếng bìa hình chữ nhật đó là: (14 + 5) × 2 = 38(cm)
Nguyên nhân: Học sinh chưa nắm chắc được quy tắc tính diện tích của hình chữ
nhật và đơn vị đo diện tích; nhầm quy tắc tính diện tích hình chữ nhật với quy tắc
tính chu vi hình chữ nhật.
Biện pháp khắc phục: Giáo viên chỉ ra được những sai lầm của học sinh để kịp
thời uốn nắn, sửa chữa cho học sinh.
Khi dạy bài tính diện tích hình chữ nhật học sinh nắm chắc quy tắc tính diện tích
hình chữ nhật; nắm được đơn vị đo diện tích học lớp 3 đó là cm 2 và phân biệt được
đơn vị đo diện tích với đơn vị đo độ dài.
Cách giải đúng: Diện tích miếng bìa hình chữ nhật đó là: 14 × 5 = 70(cm2)
Đáp số: 70cm2
Bài 3 (trang 153): Một hình chữ nhật có chiều rộng 5cm, chiều dài gấp đôi chiều
rộng. Tính diện tích hình chữ nhật đó.
Bước 1: Tìm hiểu bài toán
Học sinh đọc và phân tích bài toán:
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

16



Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Bài toán cho biết gì? (hình chữ nhật: chiều rộng 5cm, chiều dài gấp đôi chiều
rộng)
Bài toán yêu cầu làm gì? (Tính diện tích hình chữ nhật đó).
Bước 2: Lập kế hoạch giải :
Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm thế nào? (ta lấy chiều dài nhân với
chiều rộng- cùng đơn vị đo).
Chiều rộng đã biết chưa? (biết rồi 5cm)
Chiều dài biết chưa? (chưa biết, chỉ biết gấp đôi chiều rộng).
Gấp đôi là gấp mấy lần? (gấp đôi là gấp 2 lần).
Muốn tính chiều dài của hình chữ nhật ta làm như thế nào? (lấy chiều rộng nhân
với 2).
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải
Bài giải
Chiều dài của hình chữ nhật đó là:

5 × 2 = 10(cm)

Diện tích của hình chữ nhật đó là:

10 × 5 = 50(cm2)
Đáp số: 50cm2

Bài 2 (trang 154): Để ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch
men, mỗi viên gạch hình vuông cạnh 10cm. Hỏi diện tích mảng tường được ốp
thêm là bao nhiêu xăng- ti- mét vuông?
Bước 1: Tìm hiểu bài toán
Học sinh đọc và phân tích bài toán:

Bài toán cho biết gì? (mảng tường : 9 viên gạch men, mỗi viên gạch hình vuông
cạnh 10cm).
Bài toán yêu cầu làm gì? (Tính diện tích mảng tường được ốp thêm là bao nhiêu
xăng- ti- mét vuông?).
Bước 2: Lập kế hoạch giải :

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

17


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Muốn tính diện tích mảng tường được ốp thêm là bao nhiêu ta làm thế nào?(ta lấy
diện tích của một viên gạch men nhân với 9).
Diện tích của một viên gạch men đã biết chưa? (Chưa biết, chỉ biết cạnh của viên
gạch men là 10cm).
Muốn tính diện tích của mỗi viên gạch men hình vuông ta làm như thế nào?(lấy
độ dài một cạnh nhân với chính nó).
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải
Bài giải
Diện tích của mỗi viên gạch men hình vuông đó là: 10 × 10 = 100(cm2)
Diện tích của mảng tường được ốp thêm đó là: 100 × 9 = 900(cm2)
Đáp số: 900m2
Như vậy khi dạy các bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật hay
hình vuông giáo viên cần chú ý khắc sâu kiến thức cơ bản. Yêu cầu học sinh nắm
chắc quy tắc tính chu vi và diện tích của hình chữ nhật và hình vuông. Học sinh
nắm chắc lưu ý khi tính chu vi và diện tích hình chữ nhật thì chiều dài và chiều
rộng phải cùng đơn vị đo; chú ý phân biệt đơn vị đo độ dài và đơn vị đo diện tích.
5. Kết quả đạt được

Từ cơ sở kết quả khảo sát học sinh đầu năm thu được. Trong quá trình thực
hiện giảng dạy trên lớp tôi đã cố gắng học hỏi đồng nghiệp và thực hiện các
phương pháp nêu trên trong dạy nội dung “Giải toán có lời văn”. Các giờ toán hàng
ngày tôi luôn gần gũi học sinh, đặc biệt là những đối tượng tiếp thu chậm để hướng
dẫn, uốn nắn cách giải từng bài toán có lời văn cụ thể. Định kì hàng tháng tôi đã
khảo sát học sinh và thấy kĩ năng giải toán có lời văn của các em tiến bộ rõ rệt.
Đây cũng là cơ sở để tôi tiểu kết, đánh giá rút kinh nghiệm việc làm của mình để đề
ra phương hướng cho tháng tiếp theo.
Với sự nhiệt tình của thầy, cùng sự nỗ lực của trò, trong suốt quá trình từ đầu
năm học tới nay. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh mỗi tuần một lần về nội dung
Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

18


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

giải toán có lời văn để tổng kết quá trình thực hiện của mình, kết quả thu được cuối
học kì 2 như sau:
Số học sinh trình bày bài giải đúng là: 26 em = 89,8%
Số học sinh trả lời chưa chính xác nhưng ghi phép tính đúng là: 2 em = 6,8%
Số học sinh trả lời đúng , có phép tính đúng nhưng ghi danh số sai là:
1 em = 3,4%
Kết quả trên cho thấy học sinh có tiến bộ rất nhiều so với đầu năm. Mặc dù vẫn
còn một số em sai sót khi trả lời và ghi danh số của phép tính giải. Trong 3 em còn
sai sót đó, tôi đã kịp thời hướng dẫn và các em đã nhận ra sai sót của mình trong
giải toán. Tôi tin tưởng rằng 3 em học sinh này sẽ nắm chắc kĩ năng “Giải toán có
lời văn” hơn và không mắc lỗi nữa trong thời gian tiếp theo.
III. Kết luận
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.

Nhiều năm thực hiện chương trình mới trong giảng dạy môn toán nói chung và
nội dung “Giải toán có lời văn” nói riêng. Bằng cách thực hiện như trên, tôi đã rút
ra cho mình một bài học quý báu khiến tôi phải ghi nhớ và chắc chắn nó còn theo
sát tôi trong những năm học tiếp theo. Để rèn cho học sinh kĩ năng giải toán có lời
văn có rất nhiều yếu tố. Song hai yếu tố quyết định đó là thầy và trò, người thầy
phải chủ động làm tốt các việc sau:
Cần tìm hiểu kĩ hoàn cảnh gia đình, tâm lí, lực học năm trước của học sinh.
Động viên gia đình mua đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho các em.
Vì nội dung “Giải toán có lời văn” xen kẽ giữa các mạch kiến thức khác trong
chương trình Toán 3 nên giáo viên cần dạy tốt các nội dung khác như: Số học; Đại
lượng và đo đại lượng; Yếu tố hình học.
2. Nhận định về chiều hướng phát triển của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến này tôi và đồng nghiệp đã áp dụng tại trường và đem lại hiệu quả rõ
rệt. Tôi thấy có thể áp dụng dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trên tất cả

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

19


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

các trường và đặc biệt là học sinh trung bình, yếu. đồng thời cũng có thể áp dụng
vào việc dạy giải toán có lời văn cho tất cả các khối lớp ở Tiểu học nói chung.
Nếu áp dụng sáng kiến này thì việc dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3
sẽ đạt được hiệu quả cao. Giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu
bản chất của vấn đề cần tìm. Mặt khác, giúp các em có phương pháp suy luận lôgic
thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ
đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.
3. Bài học kinh nghiệm

Giáo viên cần phải thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp nghiên cứu kĩ nội
dung các bài toán có lời văn, phân loại thành các dạng bài cơ bản để đề ra phương
pháp dạy học linh hoạt cho từng loại bài, từng nhóm đối tượng học sinh, không
cứng nhắc áp dụng một phương pháp dạy học nào. Quá trình nghiên cứu của giáo
viên phải thực hiện thường xuyên, có tiểu kết rút kinh nghiệm đề ra giải pháp cụ
thể.
Phân loại học sinh trong lớp thành từng nhóm đối tượng cụ thể để có biện pháp
giúp đỡ các em. Đồng thời giáo viên cần phải phối hợp với gia đình để kiểm tra,
uốn nắn các em ở lớp cũng như ở nhà. Bên cạnh đó cần biểu dương những học sinh
tiêu biểu, nhắc nhở những em chưa tự giác trong học tập kịp thời.
Giáo viên cần thường xuyên gần gũi học sinh trong các giờ học toán để kịp thời
phát hiện và uốn nắn những sai sót của các em.
Bên cạnh những việc nêu trên giáo viên cần xác định rõ dạy học giải toán là một
trong những con đường hình thành và phát triển tư duy của học sinh (phát hiện và
tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng
khái quát nhất định…). Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao, người giáo viên cần
phải biết tổ chức, hướng dẫn học sinh (cá nhân, nhóm, cả lớp) hoạt động theo chủ
đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ
dùng học tập, để mỗi cá nhân học sinh “khám phá” tự giải quyết bài toán thông qua

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

20


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với các kiến thức có liên quan đã
học, với kinh nghiệm của bản thân (đã học được ở trường, trong đời sống…)
Muốn có giờ dạy tốt, giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không

ngại khó ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới để
dạy, phát huy hết khả năng của học sinh. Có được như vậy tất yếu bài dạy sẽ thành
công. Trong đánh giá, việc chấm tay đôi với học sinh hoặc để học sinh tự đánh giá
bài của mình và của bạn là một điều hết sức quan trọng. Cần dùng điểm số để
khuyến khích sự sáng tạo, tích cực ở học sinh.
IV. Kiến nghị, đề xuất.
Từ những kinh nghiệm thực tế trong những năm giảng dạy, để giúp các em
làm tốt các bài toán có lời văn, tôi kiến nghị với các nhà soạn sách giáo khoa hãy
lựa chọn, sắp xếp hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để
các em có thể vận dụng tốt các kiến thức đã học.
Đối với giáo viên, ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng
nhiều cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp (mô hình, sơ đồ
đoạn thẳng, suy luận,...) để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bài hơn. Không dừng lại ở kết
quả ban đầu (giải đúng bài toán) mà nên có yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Ví dụ như yêu cầu học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm nhiều lời giải khác
nhau...
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò
chơi, đố vui... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh để hướng
vào hoạt động học, người thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động
trong việc giải toán.”
Trong giảng dạy, giáo viên cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân tích,
tổng hợp, khả năng suy luận logic, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ thể. Với bài
toán có lời văn, đó là cách giải và trình bày lời giải, sử dụng tốt tất cả các phương
pháp đã nêu ở trên. Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: “Làm phép
tính đó để làm gì?”, từ đó có hướng giải đúng, chính xác.
Sau mỗi bài toán, học sinh phải biết xem xét lại kết quả của mình là để giúp các em
tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề nào đó.

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang


21


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Trên đây là ý kiến của cá nhân tôi, cùng một số kinh nghiệm được đúc rút trong
quá trình nghiên cứu và thực hành giảng dạy nội dung “Giải toán có lời văn” ở lớp
3. Tôi rất mong được trao đổi cùng bạn bè và đồng nghiệp để việc dạy học toán nói
chung, dạy nội dung “ Giải toán có lời văn ” nói riêng ngày càng mang lại hiệu quả
cao hơn. Rất mong sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp và các nhà quản lý
giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn !

Lãng Sơn, ngày

ĐÁNH GIÁ HỘI ĐỒNG SKKN

12

tháng 10 năm

2016
Người viết

Phạm Thị Nguyệt

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

22



Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

V. Tài liệu tham khảo
1. Trần Diên Hiển, Thực hành giải toán tiểu học, tập 1; tập 2, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm 2003.
2. Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Nguyễn Áng – Đỗ Tiến Đạt - Đào Thái Lai Trần Diên Hiển - Phạm Thanh Tâm - Vũ Dương Thuỵ, Toán 3 - Nhà xuất bản Giáo
dục 2005.
3. Phạm Đình Thực, Giải bài toán ở tiểu học như thê nào, Nhà xuất bản Giáo
dục 2003.
4. Phạm Đình Thực, Một số phương pháp tóm tắt và giải toán ở tiểu học, Nhà
xuất bản Đại học sư phạm 2005.
5. Nguyễn Phụ Hy ( Chủ biên) – Dạy học môn toán ở bậc tiểu học; Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

23


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

VI. Phụ lục
Trang
I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm

1
1-2


2. Nhiệm vụ của sáng kiến kinh nghiệm

2

3. Phương pháp nghiên cứu

2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2-3

II. Giải quyết vấn đề

3

1. Cơ sở lý luận

3

2. Cơ sở thực tiễn

4

3. Đánh giá thực trạng

4

4. Biện pháp tiến hành


5 - 18

5. Kết quả đạt được

18 - 19

III. Kết luận

19

1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm

19

2. Nhận định về chiều hướng phát triển của sáng kinh nghiệm

19 - 20

3. Bài học kinh nghiệm

20 - 21

IV. Kiến nghị, đề xuất

21 - 22

V. Tài liệu tham khảo

23


VI. Phụ lục

24

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

24


Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3

II. Điểm mới của sáng kiến
Mỗi dạng toán cơ bản giúp học sinh nắm được, nắm được quy tắc và hiểu được
điều kiện cần thiết cách giải các bài toán có lời văn. Học sinh tránh được những sai
lầm, cách nhớ máy móc. Từ đó các em hiểu bản chất của vấn đề, để áp dụng giải
các bài toán một cách dễ dàng và chính xác.
4.1. Cơ sở của vấn đề nghiên cứu.
Qua nhiều năm dạy học ở bậc tiểu học, tôi thấy rằng môn toán có vai trò hết sức
quan trọng trong nội dung chương trình của bậc tiểu học nói chung và nội dung
chương trình lớp 3 nói riêng. Môn Toán rèn và phát triển cho học sinh kĩ năng làm
tính và giải toán. Đặc biệt nội dung “Giải toán có lời văn” lớp 3 trong chương trình
tiểu học mới được cấu trúc xen kẽ xuyên suốt các mạch kiến thức khác. Việc đưa
bài toán có nội dung hình học (tính chu vi và diện tích hình chữ nhật, hình vuông)
đã góp phần khắc sâu kiến thức cả trong các mạch kiến thức số học, hình học, đại
lượng và đo đại lượng nhằm đáp ứng mục tiêu của chương trình Toán 3 mới. Nội
dung giải toán có lời văn ở lớp 3 kế thừa giải toán có lời văn ở lớp 1-2, mở rộng,
phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự nhận thức của học sinh lớp 3.
- Từ giải toán có lời văn ở lớp 1-2 (nhiều hơn, ít hơn...) với dạng bài toán đơn (có
một phép tính) đến lớp 3 học sinh được củng cố qua bài toán so sánh hai số hơn
kém nhau một số đơn vị (ở phần bổ sung đầu năm) và mở rộng, phát triển giải toán

có lời văn ở dạng toán hợp (có hai phép tính) bao gồm các bài toán có liên quan
đến hai phép tính cộng, trừ hoặc hai phép tính nhân, chia (bài toán liên quan đến rút
về đơn vị).
- Phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3, các bài toán “Gấp - giảm
một số lần”; “So sánh hơn kém nhau một số lần” ở lớp 3 cũ nay được nêu tường
minh thành bốn bài toán “Gấp một số lên nhiều lần”; “Giảm đi một số lần”; “So
sánh số lớn gấp mấy lần số bé”; “So sánh số bé bằng một phần mấy số lớn”; “Tìm
một trong các phần bằng nhau của một số”

Phạm Thị Nguyệt –Trường Tiểu học Lãng Sơn – Yên Dũng – Bắc Giang

25


×