Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Tổ chức và hoạt động của thanh tra giao thông vận tải – từ thực tiễn sở giao thông vận tải thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 119 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V TH TRUNG

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA THANH TRA GIAO THÔNG VậN TảI Từ THựC TIễN Sở GIAO THÔNG VậN TảI THàNH PHố Hà NộI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V TH TRUNG

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA THANH TRA GIAO THÔNG VậN TảI Từ THựC TIễN Sở GIAO THÔNG VậN TảI THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp - Lut Hnh chớnh
Mó s: 60 38 01 02

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN MNH HNG

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Trung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM .......10
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.3.

Quan niệm về thanh tra nhà nƣớc và thanh tra giao thông
vận tải ............................................................................................... 10

Quan niệm về thanh tra nhà nước ..................................................... 11
Quan niệm về thanh tra giao thông vận tải ....................................... 20
Tổ chức cơ quan thanh tra giao thông vận tải trong bộ
máy hành chính nhà nƣớc ............................................................. 23
Các hình thức hoạt động thanh tra giao thông vận tải ............... 27

1.4.

Vai trò của thanh tra giao thông vận tải trong quản lý
hành chính nhà nƣớc...................................................................... 32

1.5.

Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả tổ chức và hoạt động
thanh tra giao thông vận tải ............................................................ 37

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI HÀ NỘI .............. 45
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.

Thực trạng cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội ...................................... 45
Ưu điểm của cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Sở giao thông vận tải Hà Nội ...................................................... 48
Nhược điểm của cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội........................................... 51
Thực trạng về cơ cấu tổ chức của Thanh tra Sở giao thông

vận tải Hà Nội ................................................................................. 54


2.3.

Trạng hoạt động của Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà
Nội trong những năm gần đây ...................................................... 59

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA SỞ GIAO THÔNG VẬN
TẢI HÀ NỘI .................................................................................... 84
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.

3.2.4.

3.2.5.
3.2.6.

Phƣơng hƣớng đảm bảo tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Sở giao thông vận tải Hà Nội................................................... 84
Phương hướng hoàn thiện tổ chức của Thanh tra Sở giao thông
vận tải Hà Nội .................................................................................. 85
Phương hướng hoàn thiện về hoạt động của Thanh tra Sở giao
thông vận tải Hà Nội ........................................................................ 87

Giải pháp đảm bảo tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở
giao thông vận tải Hà Nội .............................................................. 91
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Sở giao thông vận tải Hà Nội ...................................................... 91
Hoàn thiện tổ chức bộ máy và củng cố, kiện toàn đội ngũ công
chức Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội .................................. 96
Chấn chỉnh công tác của Thanh tra Sở theo hướng tăng cường
hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật chuyên ngành;
hạn chế thực hiện kiểm tra, giám sát đối với cơ quan, tổ chức
trong lĩnh vực/ngành ........................................................................ 97
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc
và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức Thanh tra Sở
giao thông vận tải Hà Nội ................................................................ 98
Tăng cường sự phối hợp trong hoạt động của Thanh tra Sở
giao thông vận tải với các cơ quan hữu quan ................................... 99
Tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm của
Thanh tra Sở giao thông vận tải ..................................................... 102

KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GPLX:

Giấy phép lái xe

GTVT:

Giao thông vận tải


KDVT: Kinh doanh vận tải
UBND: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC HÌNH VẼ

Số hiệu

Tên hình

Trang

Hình 1.1. Sơ đồ tổ chức thanh tra ngành giao thông
vận tải hiện nay

25


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến việc lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền hành chính nhà nước, nhằm xây
dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, vững mạnh,
từng bước hiện đại; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành
chính nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển. Đồng thời, xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
của dân, do dân, vì dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực
và phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Quản lý hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm trật tự của xã hội, duy trì sự phát triển xã hội; vì vậy, nâng cao chất
lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là yêu cầu và mong muốn
của mọi quốc gia. Trong đó, thanh tra nhà nước - một trong những chức năng
thiết yếu của quản lý hành chính Nhà nước, đã góp phần hoàn thiện bộ máy
Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia. Tại Hội
nghị thanh tra toàn miền Bắc ngày 14 tháng 3 năm 1972, cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nhấn mạnh:
Thanh tra là một loại công việc cực kỳ trọng yếu, không thể
thiếu; các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước dứt khoát phải
tổ chức tốt công tác thanh tra, phải có người làm tai mắt cho mình,
thường xuyên mắt phải thấy, tai phải nghe công việc chung và
những công việc trọng yếu có chạy đều không, có cái gì không tốt,
ở chỗ nào không tốt, do đâu mà không tốt và từ đó giúp cho người
lãnh đạo kịp thời phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phát huy cái
đúng, sửa cái sai. Không thấy tầm quan trọng, ý nghĩa trọng yếu, vị
trí và tác dụng của thanh tra là không đúng, rất không đúng.
1


Thanh tra giao thông vận tải là một trong những chức năng thiết yếu và
không thể thiếu của quản lý hành chính nhà nước về giao thông vận tải nhằm
phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm; kiến nghị các cơ
quan thẩm quyền khắc phục những khiếm khuyết và tồn tại trong công tác
quản lý; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực giao
thông vận tải. Thanh tra giao thông vận tải góp phần đảm bảo thực hiện chính
sách, pháp luật; đảm bảo trật tự an toàn giao thông; thực hiện công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo… Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế
- xã hội, góp phần tăng cường trật tự kỷ cương trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.

Trong những năm qua, thanh tra nhà nước nói chung và thanh tra ngành
giao thông vận tải nói riêng đã củng cố, kiện toàn bộ máy và hoạt động để có
những đóng góp thiết thực đối với công tác quản lý hành chính nhà nước
trong lĩnh vực giao thông vận tải. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực thì còn
tồn tại một số mặt hạn chế nhất định trong công tác tổ chức bộ máy và hoạt
động của thanh tra giao ngành thông vận tải.
Với những lý do trên mà việc chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của
Thanh tra giao thông vận tải - từ thực tiễn Sở giao thông vận tải thành phố
Hà Nội” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ là cần thiết và đáp ứng những
yêu cầu của thực tiễn đặt ra ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tính đến thời điểm hiện tại đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học,
nhiều bài viết chuyên khảo trên các Báo thanh tra, Tạp chí thanh tra hoặc các
Báo, Tạp chí chuyên ngành đề cập đến tổ chức và hoạt động của thanh tra ở
những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong đó có những công trình nghiên
cứu như sau:

2


Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học.
Đề tài khoa học cấp bộ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống thanh
tra Nhà nước theo hướng cải cách hành chính”, năm 1996 (Chủ nhiệm đề tài:
Trần Đức Lượng, Vụ trưởng vụ thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo khối
kinh tế tổng hợp – Thanh tra Nhà nước). Đề tài phân tích những hạn chế, bất
cập về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra từ đó đưa ra những
phương hướng nhằm đổi mới hệ thống thanh tra phù hợp với công cuộc cải
cách hành chính lúc bấy giờ.
Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước: “Hoàn thiện cơ chế thanh tra,

kiểm tra, giám sát ở Việt Nam” (Chủ nhiệm đề tài: Trần Đức Lượng, Vụ trưởng
vụ thanh tra kinh tế II – Thanh tra Nhà nước, nghiệm thu 2002). Đề tài đánh giá
được thực trạng của các cơ quan, tổ chức có chức năng thanh tra, trong đó tác
giả chỉ ra và phân tích ba hoạt động thanh tra còn chồng chéo nhau.
Ngoài ra, còn có đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác thanh tra”(Chủ nhiệm đề tài: Quách Lê Thanh, Tổng thanh
tra, Thanh tra chính phủ, nghiệm thu tháng 05/2006).
Thứ hai, sách chuyên khảo.
“Những vấn đề pháp lý cơ bản của v ii c đổi mới t ổ chức và hoạt độ̣ng
của Thanh tra nhà nước ở Vii t Nam” (1998); Phó tiến sỹ Luật học Phạm Tuấn
Khải, Nhà xuất bản Công an nhân dân Hà Nội.
“Kỷ yếu khoa học thanh tra” từ tập 1 đến tập 8 của Viện Khoa học
thanh tra phát hành năm 2003.
“Cơ chế giám sát, kiểm toán và thanh tra ở Việt Nam” do Viện Khoa
học thanh tra phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2004.
Thứ ba, các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ.
Luận án Tiến sỹ Luật học,tác giả Nguyễn Văn Tuấn: “Vai trò của các
cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp

3


ở Việt Nam” (2015) - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Người
hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đinh Văn Mậu. Luận án đã nghiên cứu những
vấn đề pháp lý cơ bản về các cơ quan thanh tra nhà nước, vai trò của các cơ
quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp. Tác
giả nêu ra những yêu cầu khách quan nhằm phát huy vai trò của các cơ quan
thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp; từ đó đưa
ra quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước
trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp.

Luận án tiến sỹ luật học, tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền: “Hoàn
thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay” (2009) – Viện Nhà nước
và pháp luật. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận cơ bản về hoàn thiện pháp
luật thanh tra và những nội dung cơ bản của pháp luật thanh tra; đưa ra
những nhận xét về sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra từ khi
có nhà nước dân chủ nhân dân. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá về thực
trạng pháp luật thanh tra và việc thực hiện pháp luật thanh tra ở nước ta; đề
xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật thanh tra thông qua phân tích
những yêu cầu khách quan.
Luận văn thạc sỹ, tác giả Dương Hương Liên: “Tổ chức và hoạt động
của các cơ quan thanh tra Nhà nước trong giai đoạn hiện nay” (2009); Khoa
luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn trình bày những vấn đề pháp lý cơ
bản; quá trình hình thành và phát triển của các cơ quan thanh tra nhà nước ở
Việt Nam. Tác giả đi vào phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan thanh tra nhà nước, chủ yếu là các cơ quan thanh tra trực thuộc
cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền; từ đó đề xuất một số quan
điểm, phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thanh tra; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra nhằm đáp
ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế; xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ

4


thống pháp luật về thanh tra; nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ;
tăng cường phối hợp giữa các cơ quan thanh tra với các cơ quan có chức năng
kiểm tra, thanh tra, giám sát, các tổ chức đảng và các tổ chức xã hội khác.
Luận án Phó tiến sỹ khoa học Luật học, tác giả Phạm Tuấn Khải: “Cơ
sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra
nhà nước ở Việt Nam”(1996); Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn –
Đại học quốc gia Hà Nội; Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS luật học

Nguyễn Niên, Phó tiến sỹ luật học Lê Bình Vọng. Luận án đặc biệt nhấn
mạnh nội dung thanh tra – chức năng thiết yếu của quản lý hành chính nhà
nước, đề cập đến thực trạng của việc tổ chức hoạt động của thanh tra nhà
nước. Từ đó đưa ra những kiến nghị về đổi mới cơ bản hệ thống tổ chức thanh
tra nhà nước theo nguyên tắc “thanh tra nằm trong bộ máy hành pháp nhưng
độc lập tương đối với hành pháp”; những kiến nghị đổi mới hệ thống pháp
luật về thanh tra, trong đó đặc biệt chú trọng tăng thêm quyền hạn cho các tổ
chức thanh tra, hoàn thiện hình thức, phương pháp và quy chế thanh tra viên.
Ngoài ra, còn có các luận văn thạc sỹ như sau:
Phùng Viết Long, (2014): “Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực trật tự,
giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ,
Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Lê Tuấn Anh (2013): “Áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thanh tra ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô” Luận
văn thạc sỹ, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Thứ tư, các bài nghiên cứu đăng trên Báo, tạp chí, Website.
Nguyễn Đình Bính - Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ (2007), “Một số vấn
đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra”, Tạp chí Thanh tra, số 01/2007.
Vũ Văn Chiến (2008), “Hoạt động thanh tra hành chính - Thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí Thanh tra; số 03,04/2008.

5


Ths. Nguyễn Văn Tuấn_Trưởng phòng, Vụ Pháp chế - Thanh tra Chính
phủ: Bàn về vai trò của thanh tra trong bộ máy nhà nước, Tạp chí điện tử
thanh tra(thanhtravietnam.vn), Ngày đăng: 17/06/2014, Truy cập: 15/03/2017.
ThS. Hồ Thị Thu An, Trưởng phòng, Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính
phủ: “Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành”, Đăng trên Website: Viện khoa học thanh tra, ngày 8 tháng 9

năm 2015, truy cập: ngày 15/03/2017.
ThS. Văn Tiến Mai, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính
phủ:Một số vướng mắc trong thực hiện Luật Thanh tra năm 2010 và giải
pháp khắc phục, Đăng trên website: Viện khoa học thanh tra, ngày 8 tháng 8
năm 2012, truy cập: ngày 15/03/2017.
Bên cạnh đó, còn có các bài viết liên quan trên tạp chí như: Tạp chí
Thanh tra, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Xây dựng Đảng...
Những công trình nghiên cứu trước đây đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về
thanh tra cũng như tiếp cận vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau về tổ chức và
hoạt động của thanh tra nhà nước nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về
lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Thanh tra giao thông vận tải
ở cấp độ Luận văn thạc sỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt
động của Thanh tra giao thông vận tải - từ thực tiễn Sở giao thông vận tải
thành phố Hà Nội” vừa có tính mới, tính lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng
những yêu cầu trong tình hình hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về tổ chức và hoạt động thanh tra giao thông vận tải; để đưa ra những ưu
điểm, hạn chế về tổ chức và hoạt động Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà

6


Nội; tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế đó; đưa ra phương hướng,
giải pháp đảm bảo cho tổ chức và hoạt động thanh tra giao thông vận tải.
Để đạt được mục đích đặt ra, nhiệm vụ của luận văn này là phân tích,
làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động thanh tra giao thông vận tải về

cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động, vai trò của thanh tra giao thông vận tải
trong quản lý hành chính nhà nước, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ
chức và hoạt động thanh tra giao thông vận tải; nghiên cứu và đánh giá về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra Sở GTVT Hà Nội, từ đó đưa ra những
phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo cho tổ chức và hoạt động Thanh
tra Sở GTVT Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói
chung và Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn là phương pháp tư duy trừu
tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê,phương pháp so sánh nhằm làm rõ các vấn đề mang tính lý luận về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra giao thông vận tải; đánh giá thực trạng tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống văn bản pháp luật về
thanh tra nói chung và thanh tra ngành giao thông vận tải nói riêng; tổ chức và
hoạt động Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội.
Về phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận

7


cơ bản thanh tra giao thông vận tải; về tổ chức và hoạt động của cơ quan
thanh tra giao thông vận tải. Từ đó, đưa ra những ý kiến đánh giá những ưu

điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó về tổ chức và hoạt động
thanh tra giao thông vận tải thành phố Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng và giải pháp đảm bảo cho tổ chức và hoạt động trong
công tác thanh tra.
Việc nghiên cứu đề tài luận văn được tiến hành trên cơ sở các văn bản
pháp luật từ Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư và các văn kiện
của Đảng đề cập đến vấn đề này cho đến các công trình nghiên cứu khoa học
gần đây như Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ, đề tài khoa học, sách chuyên
khảo, bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí khoa học. Đồng thời, việc
nghiên cứu đề tài luận văn còn dựa trên cơ sở tổng hợp các số liệu thống kê
trong báo cáo Hội nghị đại biểu cán bộ, công chức; kết quả tổ chức và hoạt
động Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội trong những năm gần đây.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và
chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở giao thông vận tải ở nước
ta, do đó có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, sinh viên
pháp lý khi nghiên cứu về những vấn đề có liên quan.
Luận văn đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội; đồng thời chỉ ra những ưu
điểm về hạn chế từ đó làm cơ sở cho việc xác định phương hướng và đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức và hoạt động Thanh
tra Sở giao thông vận tải. Luận văn có ý nghĩa tham khảo cho việc nghiên cứu
và xây dựng Chiến lược phát triển ngành thanh tra trong thời gian tới ở nước ta.

8


7. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn gồm 03 chương như sau:
 Chương 1. Khái quát chung về tổ chức và hoạt động của thanh tra
giao thông vận tải ở Việt Nam.
 Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở giao
thông vận tải Hà Nội.
 Chương 3. Phương hướng và giải pháp đảm bảo cho tổ chức và hoạt
động Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội.

9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về thanh tra nhà nƣớc và thanh tra giao thông vận tải
Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, ở nước ta dưới các triều đại phong
kiến chưa có cơ quan với tên gọi là “Thanh tra” nhưng đã xuất hiện chức danh
“Ngự sử đài” với vai trò thực hiện giám sát; thay mặt Vua giải quyết những
khiếu kiện của dân và kiểm tra việc cai trị của quan lại địa phương.
Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến năm 2010: Từ khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, nhận thức được sự cần thiết
của cơ chế thanh tra, giám sát nên ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Sắc lệnh 64-Sắc lệnh thành lập Ban thanh tra đặc biệt và Tòa án đặc biệt với
thẩm quyền lớn, hoạt động hiệu quả trong tình hình chính trị ổn định của nước
ta bấy giờ. Với Sắc lệnh 64, lần đầu tiên thuật ngữ “Thanh tra” được ghi nhận
trong văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta lúc bấy giờ. Ngày 19/12/1945
Sắc lệnh 138b được ban hành quy định Ban Thanh tra Chính phủ thay thế cho
Ban thanh tra đặc biệt. Thời kì từ năm 1949 đến 1970 miền Bắc vừa đi vào
xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa chi viện cho chiến trường miền Nam, do đó

hoạt động thanh tra chưa được chú trọng. Cho đến giữa năm 1970 đến năm
1990 do chuyển biến tích cực của tình hình thì hoạt động thanh tra được chú
trọng hơn thể hiện ở việc từng bước bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra như: Điều lệ tổ chức và
hoạt động của Ủy ban thanh tra Chính phủ (1977), Nghị quyết 26-HĐBT ngày
15 tháng 2 năm 1984 của Hội đồng bộ trưởng về việc tăng cường tổ chức
thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra,…. Thời kỳ từ năm 1990 đến 2010,
các pháp lệnh về thanh tra được ban hành tuy nhiên sau nhiều năm thực hiện

10


đã bộc lộ những hạn chế do đó ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội thông
qua Dự án Luật thanh tra - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất lúc bấy giờ về
tổ chức và hoạt động thanh tra.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, Luật thanh tra 2010 đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 15 tháng 11 năm 2010 đã kế thừa các quy định tiến bộ của Luật
Thanh tra năm 2004; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế
giới về công tác thanh tra, đồng thời khắc phục được những hạn chế của
Luật thanh tra 2004.
Như vậy, có thể nói trải qua các thời kỳ lịch sử, Nhà nước luôn cần có
thanh tra để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính
nhà nước; thực hiện phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật. Đồng thời phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật từ đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các
biện pháp khắc phục; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.1. Quan niệm về thanh tra nhà nước
Theo từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản NXB

Văn hóa thông tin (năm 2013) thì “Thanh tra là: 1. điều tra, xem xét để làm
rõ; 2. Người làm nhiệm vụ thanh tra” [37, tr.577].
Theo Từ điển Luật học, thanh tra "là sự tác động của chủ thể đến đối
tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích
nhất định".
Theo quan niệm của TS. Phạm Tuấn Khải thì:
Thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang
thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định
– sự tác động có tính trực thuộc [12, tr.13] hay: Thanh tra là sự kiểm

11


tra, kiểm soát sự tuân thủ, thực hiện đúng đắn; xem xét nhằm phát
hiện sự có mặt, hoặc tìm dấu hiệu của tình trạng không có hiệu quả;
chỉ sự kiểm soát việc ra vào một khu vực nào đó [12, tr.14].
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật, sách báo khoa học pháp lý hay
trong đời sống, thường xuất hiện thuật ngữ “kiểm tra” tồn tại song song với
thuật ngữ “thanh tra, giữa chúng có mối quan hệ qua lại và gắn bó với nhau.
Kiểm tra và thanh ra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng chung
của quản lý hành chính Nhà nước, là hoạt động mang tính chất “phản hồi” của
quản lý hành chính nhà nước. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thanh tra là một
loại hình đặc biệt của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa rộng, thanh tra
lại bao hàm cả kiểm tra. Do đó, để hiểu một cách sâu sắc hơn về thuật ngữ
này, cũng như phân định hoạt động thanh tra với các hoạt động khác thì cần
thiết phải tìm hiểu khái niệm liên quan với nó.
Theo từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin (năm 2013) thì Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét” [37, tr.319].
Theo nghĩa rộng, kiểm tra được dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức

xã hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà
nước. Với cách tiếp cận này, kiểm tra không chứa đựng tính quyền lực nhà
nước bởi lẽ các chủ thể thực hiện hoạt động kiểm tra không có quyền áp dụng
trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể xem xét, đánh giá một
sự việc có được thực hiện đúng với quy tắc, quy định đã đề ra hay không; “kiểm
tra là một phương diện, một mặt của hoạt động thanh tra hoặc hoạt động kiểm
tra như là một bộ phận “hạt nhân” của hoạt động thanh tra” [12, tr.17]. Với
cách tiếp cận này, chủ thể kiểm tra có thể áp dụng một chế tài pháp lý nhất
định như áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
buộc phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính.
12


Xét về bản chất, có thể thấy rằng hoạt động thanh tra, kiểm tra của các
cơ quan hành chính Nhà nước thì không có sự phân biệt rạch ròi mà sự phân
biệt chỉ mang tính tương đối. Khi tiến hành thanh tra, thường phải tiến hành
nhiều thao tác nghiệp vụ, đó thực chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến
hành kiểm tra để làm rõ vụ việc, lại lựa chọn được nội dung thanh tra.
Theo Luật thanh tra 2010 định nghĩa:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành [22, Điều 3, Khoản 1].
Tuy nhiên, để xây dựng khái niệm về thanh tra nhà nước một cách toàn
diện, tác giả phân tích nhằm làm rõ những khía cạnh của hoạt động thanh tra
nhà nước như sau:
Thứ nhất, nội dung hoạt động thanh tra nhà nước
Thanh tra nhà nước là một chức năng thiết yếu của quản lý hành chính

nhà nước. Nội dung hoạt động thanh tra nhà nước là xem xét, đánh giá việc
làm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định từ đó đưa ra kết luận thanh tra. Thông qua kết luận thanh tra nhằm
phát huy những nhân tố tích cực cũng như có biện pháp phòng ngừa và xử lý
vi phạm góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý hành chính nhà nước; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích nhà nước, các quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là
chức năng thiết yếu của quản lý hành chính nhà nước, do đó, các hoạt động
thanh tra nhà nước được tiến hành trên cơ sở hoạt động thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành.

13


Theo Luật Thanh tra 2010 định nghĩa:
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy
định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh
vực đó [22, Điều 3, Khoản 2, 3].
Như vậy, thanh tra hành chính được hiểu là hoạt động thanh tra mang
tính chất nội bộ, trong nội bộ các cơ quan nhà nước, là thanh tra của cơ quan
cấp trên đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cấp dưới, là thanh tra của
chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác thuộc quyền quản lý. Khái niệm
này phân biệt với thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá

nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Đây là hoạt động thanh tra
hướng ra ngoài bộ máy, ra ngoài xã hội nhằm đảm bảo trật tự kỷ cương, pháp
luật phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh
tra chuyên ngành được tiến hành thường xuyên, nếu phát hiện có vi phạm thì
xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, đặc điểm cơ bản của hoạt động thanh tra nhà nước
Thanh tra luôn gắn với quản lý hành chính nhà nước. Có thể nói đây là
một chức năng thiết yếu của quản lý hành chính nhà nước. Lênin đã từng viết:
“Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không
phải là hai”. Như vậy, quản lý hành chính nhà nước và thanh tra có mối quan

14


hệ mật thiết với nhau, trong đó quản lý hành chính nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương, quy định
thẩm quyền của cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía
các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý hành
chính nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực
hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt
của các cơ quan có thẩm quyền. Điểm chung giữa quản lý hành chính nhà
nước và thanh tra là nhân danh quyền lực nhà nước tác động lên các đối tượng
bị quản lý. Tuy nhiên khi xem xét dưới góc độ cơ cấu, chức năng của quản lý
thì thanh tra chỉ là công cụ, phương tiện để quản lý hành chính nhà nước [11].
Thanh tra mang tính quyền lực nhà nước. Thanh tra nhà nước là một
chức năng thiết yếu của quản lý hành chính nhà nước; là một hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước mà chủ thể tiến hành là cơ quan hành chính Nhà
nước hoặc cá nhân có thẩm quyền. Do đó, thanh tra nhà nước được xác lập để
tổ chức thực hiện quyền hành pháp và hoạt động trên cơ sở quyền hành pháp.
Chủ thể thanh tra nhân danh Nhà nước và luôn áp dụng quyền năng của Nhà

nước trong quá trình hoạt động của mình; do đó thanh tra chỉ xuất hiện từ khi
Nhà nước ra đời và tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước. Tính
quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy
– phục tùng, một đặc tính quan trọng của quản lý hành chính nhà nước. Tính
quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra phải được cụ thể hoá trong chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống thanh tra, phương thức tiến hành
thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối
tượng bị thanh tra, sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan hữu
quan. Thể hiện ở việc: các kết luận thanh tra có giá trị bắt buộc thực hiện đối
với đối tượng thanh tra; trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
khi cần thiết trong quá trình thanh tra; kiến nghị hướng giải quyết những vi
phạm pháp luật với cơ quan có thẩm quyền…
15


Thanh tra có tính độc lập tương đối: Thanh tra nhà nước là công cụ bảo
vệ trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế; là chức năng thiết yếu của các cơ
quan hành chính Nhà nước và có mối quan hệ mật thiết với hoạt động quản lý
hành chính nhà nước. Tuy nhiên, thanh tra có tính độc lập tương đối với cơ
quan hành chính Nhà nước bởi lẽ trong công tác thanh tra, các cơ quan thanh
tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện hành, đồng thời phải xuất
phát từ thực tế cuộc sống (không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà cả tính hợp
lý). Tính độc lập tương đối của thanh tra với cơ quan hành chính Nhà nước
cùng cấp thể hiện ở một số nội dung sau:
- Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ
trưởng cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn thống nhất về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh
tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh
tra cấp trên.
- Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước bổ

nhiệm sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên.
- Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có quyền
ra quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định
xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.
Thanh tra có tính khách quan: Tính khách quan của hoạt động thanh tra
thể hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra đều được thực hiện trên cơ sở tuân thủ
các quy định của pháp luật. Những nhận định, đánh giá trong quá trình thanh
tra và đưa ra kết luận thanh tra phải dựa vào những chứng cứ có thật, sự kiện
thực tế và lắng nghe ý kiến đa chiều. Nhờ tính khách quan mà hoạt động
thanh tra mới có thể đảm bảo được sự được minh bạch, công bằng.

16


Thứ ba, chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra là các cơ quan thanh tra
Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra nhà nước là hoạt động mang tính đặc thù được thực hiện
thông qua các cơ quan thanh tra nhà nước - hệ thống cơ quan chuyên trách
của bộ máy hành chính Nhà nước. Tính chuyên trách của thanh tra nhà nước
được thể hiện qua hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của mình; từ đó kịp thời
phát hiện, xử lý những cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm; đồng
thời phòng ngừa những vi phạm pháp luật. Do tính chuyên trách của hoạt
động thanh tra nhà nước nên việc tổ chức các cơ quan này phải độc lập với
các cơ quan chuyên môn khác trong bộ máy hành chính nhà nước và hoạt
động thanh tra nhà nước phải được tiến hành chủ yếu thông qua đội ngũ thanh
tra viên và công chức thanh tra chuyên ngành.
Thứ tư, đối tượng của hoạt động thanh tra nhà nước là những cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Đối với hoạt động thanh tra hành chính thì đối tượng là cơ

quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đối với thanh tra chuyên ngành thì đối
tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc các ngành,
lĩnh vực khác nhau.
Thứ năm, trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra
Trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra thường diễn ra theo ba
giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị thanh tra
Công tác chuẩn bị giúp cho hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, chủ
động, có mục tiêu rõ ràng. Các công việc chuẩn bị cho cuộc thanh tra bao gồm
những hoạt động chuẩn bị trước khi ban hành quyết định thanh tra và sau khi
ban hành quyết định thanh tra.
17


Hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Thủ
trưởng cơ quan thanh tra nhà nước (khi xét thấy cần thiết, thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước) ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra (hoặc
quyết định thanh tra viên độc lập, người được giao nhiệm vụ thanh tra) để thực
hiện quyết định thanh tra.
Người ban hành quyết định thanh tra đồng thời phê duyệt kế hoạch
cuộc thanh tra. Trường hợp thanh tra có nội dung đơn giản, thanh tra đột
xuất, quyết định thanh tra được ban hành trước khi có kế hoạch thanh tra,
sau khi có quyết định thanh tra, trưởng Đoàn Thanh tra (hoặc thanh tra viên,
người được giao thanh tra) xây dựng kế hoạch thanh tra trình người ra quyết
định thanh tra phê duyệt.
Giai đoạn 2: Tiến hành thanh tra
Khi tiến hành thanh tra cần phải công bố quyết định thanh tra sau đó mới
tiến hành thanh tra theo quy định của pháp luật như: Thu thập thông tin, tài

liệu liên quan đến nội dung thanh tra; Kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu;
Báo cáo tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ thanh tra;… đồng thời xử lý
những sai phạm phát hiện trong quá trình tiến hành thanh tra.
Giai đoạn 3: Kết thúc thanh tra
Sau khi kết thúc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên độc lập
phải báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra. Sau đó, chậm nhất
là 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định
thanh tra xem xét nội dung báo cáo và ra kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra
phải được công khai; đồng thời khi kết thúc quá trình thanh tra phải thực hiện
việc lưu giữ hồ sơ thanh tra theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được
kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ
trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách
nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra.
18


×