Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Đặc điểm truyện đồng thoại viết cho trẻ em của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.34 KB, 62 trang )

Lời Cảm Ơn
Xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo hướng
dẫn Th.s Trần Thị Mỹ Hồng đã luôn hướng dẫn chu đáo, tận
tình và luôn động viên trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc đối với các thầy cô
giáo trong Khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non, Trường Đại
học Quảng Bình đã động viên trong suốt 4 năm học.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, giúp đỡ trong
học tập và trong quá trình nghiên cứu khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Đinh Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu không trùng với kết quả của tác giả nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Quảng Bình, tháng 05 năm 2017
Sinh viên

Đinh Thị Thảo Ly


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................... 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................... 2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................. 7


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 7
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................... 7
6. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................... 8
NỘI DUNG........................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI VÀ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI................................................................................... 9
1.1. Tác giả Tô Hoài .............................................................................................. 9
1.1.1. Vài nét về tiểu sử ......................................................................................... 9
1.1.2. Những chặng đường sáng tác .................................................................... 10
1.1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám.................................................................. 10
1.1.2.2. Sau cách mạng tháng tám ....................................................................... 14
1.2. Truyền đồng thoại ........................................................................................ 18
1.2.1. Khái niệm truyện đồng thoại ..................................................................... 18
1.2.2. Đặc điểm truyện đồng thoại ...................................................................... 19
CHƯƠNG 2: ĐỀ TÀI, NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI
VIẾT CHO TRẺ EM CỦA TÔ HOÀI ............................................................ 23
2.1. Đề tài trong truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô Hoài........................ 23
2.1.1. Đề tài về tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước........................... 23
2.1.2. Đề tài về tình bạn....................................................................................... 26
2.2. Nhân vật trong truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô Hoài ................... 28
2.2.1. Các loại nhân vật ....................................................................................... 28
2.2.1.1. Nhân vật - con vật .................................................................................. 29
2.2.1.2. Nhân vật - thiên nhiên ............................................................................ 33
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện đồng thoại viết cho trẻ em của
Tô Hoài................................................................................................................37


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
ĐỒNG THOẠI VIẾT CHO TRẺ EM CỦA TÔ HOÀI................................. 40
3.1. Nghệ thuật hư cấu, tưởng tượng................................................................... 40

3.2. Nghệ thuật kể chuyện ................................................................................... 43
3.3. Nghệ thuật miêu tả ....................................................................................... 46
3.4. Nghê thuật sử dụng ngôn ngữ ...................................................................... 49
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 57


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xưa đến nay, văn học đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong
đời sống con người. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình
nghệ thuật, văn học làm phong phú hơn hiểu biết của con người, góp phần hình
thành nhân cách, đúng như M.Gorki đã từng nói “ Văn học là nhân học”.
Ở Việt Nam, trong sự phát triển của nền văn học dân tộc, mỗi đối tượng,
mỗi lứa tuổi, cũng có những sáng tác văn học phù hợp. Trong đó, văn học thiếu
nhi là một bộ phận quan trọng góp phần làm nên diện mạo của văn học nước
nhà. “Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống”. Đó là những bức tranh muôn
màu về cuộc sống, về thế giới tâm hồn đáng yêu, hồn nhiên và trong sáng của
lứa tuổi ấu thơ.
Và với bất kì ai, tuổi thơ là quãng thời gian đáng nhớ, quãng thời đẹp,
quãng thời gắn bó với những cảm xúc, suy nghĩ hồn nhiên, sống động. Những
lời hát ru, những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu sẽ theo chúng ta suốt cuộc đời
và trở thành kỉ niệm khó quên của tuổi thiếu niên. Lớn lên, khi bắt đầu biết đọc
những con chữ các em lại tiếp tục tìm những câu chuyện phù hơp sở thích, để
thỏa mãn trí tưởng tượng phong phú của mình. Văn học thiếu nhi, vì vậy đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu của bất kì nên văn học nào.
Khi nhắc đến văn học trẻ em, chúng ta không thể không nhớ đến Tô Hoài.
Ông được xem là người có công đặt viên gạch đầu tiên dựng nên ngôi nhà văn
học trẻ em Việt Nam hiện đại. Nhà văn Tô Hoài là một nhà văn tài năng và là
tấm gương sáng về lao động nghệ thuật. Nhà văn đã có nhiều tác phẩm dành cho

trẻ em. Từ những câu chuyện nhỏ hằng ngày, từ những cốt truyện khai thác từ
truyện cổ tích, truyền thuyết trong dân gian, từ chuyện viết về những loài vật
gần gũi, đáng yêu đến những loài cây cối xanh tươi,… tác giả dành phần lớn sự
nghiệp cầm bút viết nên những tác phẩm hay dành tặng lứa tuổi thiếu nhi. Thông
qua hình tượng nhân vật, tác giả đã giúp các em có nền tảng tốt đẹp để cảm nhận
và thấu hiểu điều hay lẽ phải ở đời.
1


Đồng thoại là mảng truyện mượn hình ảnh của loài vật để khắc họa những
diễn biến tâm lý, tình cảm, sự nhận thức và thái độ của thế giới tuổi thơ trước
thế giới và cuộc sống xung quanh. Có thể nói, truyện đồng thoại đã thực sự tạo
ra một thế giới rất riêng, sinh động hấp dẫn nhưng cũng rất gần gũi với tâm sinh
lý, với trí tưởng tượng của trẻ thơ. Bởi vậy mà truyện đồng thoại đã trở thành
người bạn thân thiết của tuổi thơ, là nguồn dinh dưỡng tinh thần không thể thiếu
cuả các bạn độc giả nhỏ tuổi. Là một giáo viên tương lai chúng tôi muốn thông
qua kết quả nghiên cứu của đề tài này để có hướng giúp bản thân tích lũy vốn tri
thức, đồng thời giúp trẻ tìm hiểu, cảm nhận được cái hay, cái đẹp những bài học
ý nghĩa đằng sau mỗi câu chuyện.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Đặc điểm
truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô Hoài”, để góp phần khám phá,
khẳng định tài năng của nhà văn, đồng thời có cách tiếp cận đúng đắn truyện
đồng thoại của Tô Hoài.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ những năm đầu thế kỷ XX, truyện đồng thoại được nhiều tác giả nghiên
cứu và có những đánh giá sâu sắc. Có nhiều công trình nghiên cứu về đặc trưng,
chức năng của thể loại truyện đồng thoại như: Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại
của Vân Thanh, Lại nói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Võ Quảng,
Về sức tưởng tượng của đồng thoại của Nguyễn Kiên và Truyện đồng thoại viết
cho lứa tuổi nhi đồng của Định Hải. Trong các công trình trên các tác giả trên

đều khẳng định: Truyện đồng thoại phản ánh cuộc sống không theo quy luật tả
thực mà theo quy luật tưởng tượng. Theo họ, nhờ tưởng tượng mà cuộc sống
trong truyện đồng thoại hiện lên rõ hơn, lộng lẫy hơn, có sức khái quát cao hơn.
Nhờ đó, thể loại này dễ dàng bắt nhịp với tuổi thơ, tham gia rất sớm vào quá
trình hình thành nhân cách của mỗi con người. Khi nói về đặc trưng của truyện
đồng thoại, các tác giả trên cũng bàn đến vấn đề nhân vật. Theo họ, hệ thống
nhân vật của truyện đồng thoại rất đa dạng, nhưng trọng tâm vẫn là loài vật, và
chúng được miêu tả theo một số nguyên tắc nhất định như: nhân cách hóa, cách
điệu hóa… Nhân vật của đồng thoại không chỉ là người mà còn đủ các loài vật,
2


loài có xương sống hoặc không có xương, biết nhảy, biết bay, biết bơi lội (…),
là các loài cây cỏ hoa quả mọc ở bất cứ khí hậu nào. Cả từ cây kim sợi chỉ cho
đến đoàn tàu, chiếc cầu sắt, đều có thể biến thành nhân vật của đồng thoại.
Ngoài ra, bàn về vai trò, chức năng giáo dục của truyện đồng thoại, còn có
các tác giả Ngô Quân Miện, Lã Thị Bắc Lý và Nguyễn Thị Ánh Tuyết. Tác giả
Ngô Quân Miện nhận thấy: “Việc đưa những tình cảm, tư tưởng cao đẹp vào
tâm hồn các em nhi đồng qua con đường đồng thoại là con đường có hiệu quả
hơn hết”. Nhà tâm lí học Nguyễn Thị Ánh Tuyết trong “Truyện đồng thoại với
trẻ thơ” cũng có quan điểm tương tự khi viết rằng: Truyện đồng thoại ngắn gọn,
đậm chất mơ tưởng, có khả năng khơi dạy ở các em những cảm xúc thú vị, bất
ngờ, đồng thoại nó “Khiến cho một đứa trẻ từ một thính giả thụ động biến thành
một người tham gia tích cực vào các sự kiện của các nhân vật vốn chi là chim
nuông, cây cỏ hay những vật vô tri, vô giác mà trở thành người bạn thân thiết
với chúng” [13,tr.53]. Bài viết Truyện đồng thoại với giáo dục mẫu giáo của Lã
Thị Bắc Lý tiếp cận vấn đề theo hướng khác, đó là đi vào phân tích những tác
động cụ thể như việc bồi dưỡng lòng nhân ái, cảm xúc thẩm mĩ... Trên cơ sở đó,
tác giả đã chứng minh khả năng to lớn của truyện đồng thoại trong việc thực
hiện chức năng giáo dục, một chức năng vốn rất được coi trọng trong văn học

thiếu nhi.
Nhân năm Quốc tế thiếu nhi (1980), một cuộc hội thảo toàn quốc về văn
học thiếu nhi đã được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (ngày 22 23/08/1981), thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà văn và nhà nghiên cứu.
Tại hội thảo này, nhà văn Nguyên Ngọc, thay mặt Ban chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam trình bày bản báo cáo để dẫn 35 năm văn học thiếu nhi. Báo cáo
khẳng định: cùng với nhiều loại văn xuôi khác, truyện đồng thoại đã đạt được
bước tiến mạnh mẽ, nhiều tác phẩm “có sức sống, sức tỏa sáng lâu dài”. Cũng
tại Hội thảo này, nhà văn Ngô Quân Miện có bài viết riêng về truyện đồng thoại
với nhan đề Đồng thoại với việc bồi dưỡng tâm hồn các em. Trong phần đầu bài
viết, tác giả khẳng định, truyện đồng thoại là loại truyện thích hợp nhất với các
em nhi đồng, được nhiều người quan tâm khai thác. Nhờ vậy, theo thời gian,
3


“cái vốn đồng thoại của chúng ta ngày một thêm dày và đa dạng hơn trước”.
Trong Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi Việt Nam, Vân Thanh thừa nhận:
“Kể từ Dế Mèn của Tô Hoài, dòng đồng thoại luôn chảy trong văn học thiếu nhi
Việt Nam”. Năm 2011, trong luận án Tiến sĩ của Lê Nhật Ký có tên Thể loại
truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại, tác giả đã khổ công sưu tập
và phân loại để có đối tượng khảo sát là 1054 đồng thoại của 275 tác giả. Luận
án đã đưa đến cho người đọc một cái nhìn tổng quan sâu sắc về thể loại truyện
đồng thoại nói chung, trong đó tác giả đã gọi Tô Hoài là “Người đi tiên phong
và tạo được đỉnh cao” trong truyện đồng thoại.
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài đã được rất nhiều các nhà phê
bình, nghiên cứu tìm hiểu; nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông
có những nhận xét, ghi nhận sâu sắc, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên
cứu, dạy - học các tác phẩm của ông. Trong cuốn Tô Hoài về tác giả và tác
phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê
(giới thiệu) và Vân Thanh (tuyển chọn), Phong Lê cho rằng: “Đặc sắc của Tô
Hoài trước năm 1944 là truyện ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn

về cảnh và người một vùng quê ven đô - quê ngoại và cũng là quê sinh - nơi tác
giả đã sinh sống suốt đời cho đến hôm nay” [11,tr.47]. Ngòi bút của Tô Hoài đã
miêu tả sự thay đổi của cuộc sống xung quanh mình những năm trước năm
1945.
Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại (quyển IV, Nxb Tân
Dân, H. 1944) nhận xét: “Truyện ngắn của Tô Hoài không những đặc biệt về lời
văn, cách quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đặc biệt cả về
những đầu đề do ông lựa chọn nữa”. “Truyện của ông có những tính chất nửa
tâm lý, nửa triết lý, mà các vai lại là loài vật. Mới nghe tưởng như những truyện
ngụ ngôn, nhưng thật không có tính cách ngụ ngôn chút nào: Ông không phải
một nhà luận lý, truyện của ông không để răn đời. Nó là những truyện tả chân về
loài vật, về cuộc sống của loài vật, tuy bề ngoài có vẻ lặng lẽ, nhưng bên trong
có lắm cái “Ồn ào”, vui cũng có mà buồn cũng có” [Theo Phong Lê - Vân
Thanh, sđd.59].
4


Tác giả Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 (Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp H.1975) nói về đặc điểm truyện đồng thoại của
Tô Hoài như sau: “Trong các truyện đồng thoại (Con mèo lười, Chim chích lạc
rừng, Cá đi ăn thề), Tô Hoài đã phát huy nhân tố tưởng tượng, phần phong phú
nhất trong tư duy các em nhỏ. Truyện đồng thoại của Tô Hoài cũng là sự kết hợp
giữa khả năng quan sát loài vật rất tinh tế với một bút pháp miêu tả giàu chất trữ
tình và chất thơ. Thiên nhiên ở đây màu sắc rực rỡ, âm thanh náo nức và luôn
chuyển động rộn ràng, tươi vui đúng như thị hiếu hàng ngày của tuổi thơ” [Theo
Phong Lê - Vân Thanh, sđd, tr.94].
Tác giả Trần Hữu Tá trong Văn học Việt Nam 1945-1975, tập 2 (Nxb Giáo
dục 1990) đã dành cho Tô Hoài những lời khen ngợi: “Tô Hoài có khả năng
quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả linh động. Người, vât, thiên nhiên, cảnh
sinh hoạt,… tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái thần của đối

tượng và thường bằng một chất thơ” [Theo Phong Lê - Vân Thanh, sđd, tr.158].
Trần Đình Nam trong Tạp chí văn học (số 9 -1995) khẳng định tài năng
thiên bẩm và khả năng quan sát tinh tế đã giúp cho “Tô Hoài có một xê - ri sách
viết về các con vật: dế, chuột, chim, mèo, cá,… được gọi là truyện loài vật.
Truyện loài vật của Tô Hoài là một cống hiến độc đáo vào văn học hiện đại nói
chung và văn học thiếu nhi nói riêng - ở nước ta chưa có ai viết về loài vật được
như ông” [Theo Phong Lê - Vân Thanh, sđd, tr.167].
Nhà văn Hà Minh Đức trong Đi tìm chân lý nghệ thuật (Nxb Văn học 1998)
cũng đã nhận xét: “Truyện loài vật của Tô Hoài cũng nhằm nói nhiều với thế
giới con người, nhưng kín đáo và có hàm ý sâu xa (…) Tô Hoài là người biết tạo
yếu tố truyện, phát hiện yếu tố truyện trong đời sống tự nhiên của loài vật (…).
Ngòi bút của Tô Hoài đã phát hiện cái ngộ nghĩnh, lố lăng, khoe mẽ, đa điệu của
một số loài vật. Tác giả không châm biếm đả kích một đối tượng nào trong các
giống loài mà ông miêu tả. Ông không ghét bỏ mà có tìm thấy ở mỗi loài những
nét hay hay, ngộ nghĩnh và miêu tả với chất dí dỏm. Chất dí dỏm làm cho đối
tượng được nói đến thêm sinh động và trong chiều sau của cách viết này vẫn là
lòng yêu mến các loài vật” [Theo Phong Lê - Vân Thanh, sđd, tr.469 - 470].
5


Trong bài viết “Vấn đề nhận vật và tu tưởng nhân vật là vấn đề tính thời đại
sáng tác” đăng trên Tạp chí văn học (số 6 - 1995), Tô Hoài cũng đã từng phát
biểu quan niệm về đồng thoại: “Tôi nghĩ rằng câu chuyện sáng tạo nhân vật, phú
cho nhân vật ấy một tính nết, một hoàn cảnh thật không phải là việc ta chợt nghĩ
và chỉ có chủ quan ta muốn làm thế. Cả đối với những loại sáng tác, loại tưởng
tượng, dù khác thường đến như thế nào, ví dụ sáng tác cho thiếu nhi, người viết
tạo ra cái cây, đám khói, một con vật, một cái gì kỳ quái nhất, tất cả những sáng
tác phong phú đó, theo tôi nghĩ, cũng không phải là một tình cờ hay một sự chợt
nghĩ” [Theo Vân Thanh, Văn học thiếu nhi Việt Nam, tập 1, 2003, tr.289].
Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ thuật Tô

Hoài và bài viết Đặc Điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên Tạp chí Văn học.
Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật viết văn Tô
Hoài.
Năm 2007, cuốn “Truyện ngắn Việt Nam lịch sử - thi pháp - chân dung” do
nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá trình ra đời, phát triển của
truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà văn tiêu biểu. Trong đó,
Tô Hoài đã được nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi như Nguyễn Công Hoan,
Nguyên Hồng, Nam Cao... Người viết đã nhấn mạnh một số đặc trưng nghệ
thuật truyện ngắn Tô Hoài như “lối viết thông minh, hóm hỉnh, thậm chí tinh
quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha chút mùi vị chua chát
kiểu Nam Cao”, “Những con vật trong tác phẩm Tô Hoài có nét gì đó giống
người, quen thuộc với người. Tô Hoài bắt rất nhanh những nét đặc trưng trong
tính cách của chúng”; “Truyện ngắn Tô Hoài chịu nhiều ảnh hưởng của văn học
dân gian. Nhưng lối dẫn truyện, kết cấu truyện, giọng điệu trần thuật cũng như
các thủ pháp khắc họa tính cách nhân vật đã quen thuộc về truyện ngắn hiện
đại”; “Trong một số truyện, cũng giống như Nam Cao trong Chí Phèo, Tô Hoài
đã sử dụng ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của người kể chuyện hòa lẫn
với giọng điệu nhân vật.
Có thể thấy, khi nghiên cứu truyện viết cho trẻ em, trong đó có mảng đồng
thoại của nhà văn Tô Hoài, các tác giả đã đề cập tới những khía cạnh khác nhau,
6


song vẫn chưa nghiên cứu đặc điểm truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô
Hoài một cách hệ thống và toàn diện; chưa xem nó như một đối tượng nghiên
cứu khoa học độc lập. Chúng tôi xem các bài viết đó là những gợi mở và đề xuất
hướng tiếp cận đúng đắn từ các phương diện khác nhau của truyện đồng thoại
Tô Hoài. Hy vọng đây sẽ là đề tài có ý nghĩa với những ai quan tâm tới truyện
đồng thoại nói chung và đồng thoại viết cho trẻ em của Tô Hoài nói riêng.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm truyện đồng thoại viết cho trẻ em của
Tô Hoài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những tác phẩm thuộc thể loại truyện
đồng thoại trong Tuyển tập Văn học thiếu nhi của Tô Hoài (NXB Hà Nội,
2001).
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích các tác phẩm đồng thoại trong
Tuyển tập Văn học thiếu nhi của Tô Hoài (NXB Hà Nội, 2001) để thấy được đặc
sắc về nhân vật, ngôn ngữ, cốt truyện và kết cấu của thể loại truyện đồng thoại,
từ đó tổng hợp, khái quát lại và đưa ra kết luận chung.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Dùng để thống kê, phân loại các truyện
đồng thoại của Tô Hoài. Từ đó, xác định vị trí và tầm quan trọng của thể loại
truyện đồng thoại trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
- Phương pháp so sánh: Giúp người đọc so sánh truyện đồng thoại của Phạm
Hổ và những tác giả khác. Từ đó khẳng định những nét riêng về truyện đồng
thoại của nhà văn Tô Hoài.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Về lí luận: Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm chỉ ra những đặc điểm của
thể loại truyện đồng thoại nói chung và truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô
Hoài nói riêng.

7


- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho
giáo viên và sinh viên trong việc tìm hiểu truyện đồng thoại nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học truyện đồng thoại trong chương trình mầm non.
6. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính gồm ba

chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về nhà văn Tô Hoài và truyện đồng thoại.
Chương 2: Đề tài, nhân vật trong truyện đồng thoại viết cho trẻ em của Tô
Hoài.
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật trong truyện đồng thoại viết cho trẻ
em của Tô Hoài.

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI VÀ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI

1.1. Tác giả Tô Hoài
1.1.1. Vài nét về tiểu sử
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 27 - 9 - 1920 tại làng Nghĩa Đô,
phủ Hoài Đức - tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy - Hà
Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai
Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,…
Tô Hoài chỉ học hết bậc Tiểu học, chủ yếu lăn lộn kiếm sống và học trong
trường đời. Bước vào tuổi thành niên ông đã phải bươn chải với rất nhiều nghề
như: dạy học tư, bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn, … nhiều khi thất nghiệp,
cuộc sống vô cùng vất vả. Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của Mặt trận Bình
dân và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh niên dân
chủ Hà Nội.
Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và bắt đầu viết bài cho
báo Cứu quốc và Cờ giải phóng.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu
quốc”. Ông là một trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số

chiến dịch ở mặt trận phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông
được kết nạp vào Đảng.
Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến
năm 1980, Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn
như: Uỷ viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội,
Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô
Hoài đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi
đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận
9


và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà,
vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Những chặng đường sáng tác
1.1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác đầu
tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất
hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng định
được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác phẩm
độc đáo, đặc sắc như: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột
(1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ
nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này, Tô
Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về việc ông đến với nghề văn, ông
viết: “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám,
1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện
ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in,
vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng
sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại chính là:

truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như: O chuột, Gã chuột bạch, Tuổi
trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực, Võ sĩ Bọ Ngựa, Đám cưới
Chuột..., người đọc nhận thấy, nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái
thiện trong cuộc sống, bày tỏ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên
trong xã hội, một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Trước hết, với Dế Mèn phiêu lưu kí, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài được
bộc lộ ở nhiều phương diện. Bằng cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết
hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các em vào
thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình ảnh của: Dế Mèn, Dế
Trũi như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa lớn.
Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào và duyên
10


dáng. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở hơi. Ếch thông thái
giả. Anh chàng Kỉm Kìm Kim hèn đớn. Cậu công tử bột Chim Chả Non có mẽ
mà đầu óc lại rỗng tuếch,... Từ đời sống và tích cách của từng con vật, nhà văn
nhằm bày tỏ quan niệm của mình về nhân sinh, về khát vọng chính đáng của
người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui, về tình thương, lòng chân
thành và sự đoàn kết. Bởi thế câu chuyện về chú Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa
dành cho trẻ em, mà còn cả cho người lớn và cho cả xã hội. Nó thực sự mang
giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người, cũng vì thế, dù ở đâu và ở
thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý nghĩa từ tác
phẩm này. Tác phẩm đã khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng như vị trí văn học
độc đáo của Tô Hoài trong văn học Việt Nam nói chung, văn học trẻ em nói
riêng.
Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để thể hiện chân thật,
sinh động họ nhà chuột. Các chủng loại chuột như: chuột nhắt, chuột cống,
chuột cộc, chuột bạch, chuột xù..., xuất hiện trong các tác phẩm của ông với

những đặc điểm, thói quen riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong số
những truyện viết về chuột thì truyện Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc bao
điều suy nghĩ. Cuộc sống của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những hạt gạo
tẻ mà người ta rắc vào một cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa vào lồng
“ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra khỏi lồng chúng vẫn không lấy gì làm thích
thú mà “ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là
họ chẳng quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, từ từ
bò vào, cũng như lúc bò ra”. Có thể nói, qua cảnh sống của vợ chồng chuột
bạch, Tô Hoài đã phê phán cách sống nhàm chán, buồn tẻ và vô vị, cũng như
tâm lí chấp nhận, lệ thuộc của một lớp người trong xã hội, đồng thời muốn thức
tỉnh những ai đang lâm vào cảnh sống đó.
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô Hoài tạo cho người đọc dấu
ấn lâu bền. Đó là gã mèo mướp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng, trên
mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả. Lúc nào
cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là cậu gà trống
11


gi “bé nhỏ sống côi cút một thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng khi lớn lại có “bộ
mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng rất đa tình, “có tật mê gái, như cái tính chung
của loài gà - cả của loài người - khi mới lớn lên”, bỏ nhà ra đi vì ái tình, hay dễ
quên đi ái tình cũ để “lần mò đi tìm một vài ái tình khác”. Với chàng gà chọi
“nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem”, “lúc nào cũng
chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để “tả cái oai lẫm liệt của
chàng”. Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu “chỉ đen những ý tình ma
chuột”, hay “đi ve gái”, thế mà khi Một cuộc bể dâu xuất hiện, họ nhà gà chết
dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm liệt nhưng rồi cũng “tắc thở” để
lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ”. Với vợ chồng Đôi gi đá “tựa vợ
chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc nhà
quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm, sống hạnh phúc, “bình lặng, chịu khó, ít ồn

ào”, chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày trứng nở, chờ những đứa con lớn lên từng
ngày... Thế rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ đón xuân về vô tình đã làm tan tác gia
đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ vang động trong cây, cả nhà cuống
cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ chồng chim gi đá rồi sẽ như thế nào trong
cảnh tan tác đó đã khiến cho người đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Còn Mụ
ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp” đến mức những đứa con của mình gặp
nạn, hay bị chết vẫn vô tình, thản nhiên. Kể cả khi bị đá, bị đuổi đánh, “bị bỏ tù”
thì “chúng vẫn không hiểu chi”. Hơn thế nữa khi “chồng mụ” bị làm thịt, mụ
vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rõ “khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng,
tàu lá xanh xanh thì xô đến mà khởi sự ăn”.
Cùng với hình ảnh của những loài vật trên là của chú chó Đực ham vui, “la
cà” với “hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến. Đực “buồn thỉu, buồn thiu, đi
lừ khừ quên cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó trở nên “lạnh lùng
với cuộc đời và lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ sống cái cuộc đời tàn cục
buồn thiu”, “héo hắt dần”. Tác phẩm kết thúc với sự xuất hiện của một con chó
khác cũng “khỏe và béo lẳn” nhưng rồi thân phận của nó chắc gì đã khác với
con Đực.
12


Tóm lại, thế giới loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế giới
ấy gợi lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Có
lẽ, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về
loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói nghèo
cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế
tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất khách quê
người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng trang sách
với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận của bà lão
Vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Chỉ vì

một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa chì chiết đủ
điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà chẳng khác gì người đi ở mướn, chị ta
đã quát: “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại không trông được con lợn?”, thậm
chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà xuống bếp nằm ngủ ở đống rơm.
Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình như họ đã quên là có bà hiện
diện trong cuộc sống của gia đình mình. Đó là số phận của chị Hối trong truyện
Ông cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa chạy, rồi bệnh nặng dần
vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Đó
còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới
không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một “Gia đình nho nhỏ, đề huề sống
yên vui” ... Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của anh khiến người vợ bỏ đi biệt tích.
Đứa con, niềm an ủi duy nhất đối với anh ngã bệnh, hết tiền chạy chữa, trong lúc
khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi bị bắt, cùng lúc đó đứa con cũng chết. Từ
đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”.
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước cuộc
đời nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà văn hiện thực.
Tâm hồn của Tô Hoài bao giờ cũng có được vẻ đẹp trong sáng, đáng trân trọng
trong cảnh đời đen tối thời kì này. Ở đề tài nào và đối tượng khám phá nào, thế
giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân văn và
mang dấu ấn khá sâu đậm về một quãng đời của ông. Ông quan niệm: “Những
13


sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của
mình quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng
hay xót xa, hay ngịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư
tưởng tiểu tư sản của tôi” (Một quãng đường).
1.1.2.2. Sau cách mạng tháng tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại quá

lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và sáng tạo
thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Trong đó,
tiểu thuyết Miền Tây của ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á
Phi vào năm 1970.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và đề
tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi của
một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông còn
hướng đến một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người,
nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc không còn
là miền đất xa lạ, nó đã trở thành quê hương thứ hai của Tô Hoài. Ông viết về
Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà còn bằng
cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình. Bởi lẽ, với Tô Hoài:
“Đất nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”, hình ảnh
Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”, nó
có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm hứng sáng tạo và thúc đẩy nhà văn
viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất này. Trên cơ sở đó, có thể xem ông
là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là một trong những người đặt nền móng cho
nền văn học viết về đề tài Tây Bắc.
Tác phẩm đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi Cứu quốc
(1948). Ở tác phẩm này ông đã thể hiện được cảnh sống vất vả, thiếu thốn,
nhưng giàu nghĩa tình đối với cách mạng, cũng như ý chí quyết tâm chiến đấu
của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm này còn nặng về thể hiện, miêu tả
các tài liệu, bề mặt của vấn đề mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản chất của nó
14


để rồi “chết chìm trong tài liệu” như nhà văn đã tâm sự trong Một số kinh
nghiệm viết văn của tôi. Vì thế, tác phẩm trên còn thiếu sự sinh động, thiếu sức
hấp dẫn đối với người đọc.
Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc ở

mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong
phú về Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi
đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân
phong kiến. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu
mường, Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo
khổ, mà nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với tất
cả niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết
mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô Ảng,
từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi qua tay
nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà lão Ảng ăn
mày..., đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống đắng cay, tủi
nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề của thực dân và
phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài đã khẳng định,
ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc, cũng như lí giải
thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa
đày áp bức đó là con đường cách mạng.
Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con
đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối
quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.
Tài năng nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau
càng được phát huy và khẳng định qua nhiều tác phẩm khác từ sau 1955 như:
Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu,... Nhà
văn tiếp tục ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của các dân tộc ở miền núi Tây Bắc trong
đời sống kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua những hình ảnh
thực như: Hoàng Văn Thụ (dân tộc Tày), Kim Đồng (dân tộc Nùng), Giàng A
Thào, Vừ A Dính (dân tộc Hmông)... Tất cả họ đều thủy chung, gắn bó son sắt
15


với cách mạng và cuộc đời mới. Nhiều người đã ngã xuống vì cuộc sống bình

yên, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Trong số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau 1955 của Tô Hoài, tiểu
thuyết Miền Tây là tác phẩm nổi bật nhất. Miền Tây có cốt truyện xoay quanh sự
đổi đời của gia đình bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách mạng đã đem lại cho
gia đình bà nhiều niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường. Các con bà như
Thào Khay, Thào Mị đã trở thành cán bộ gương mẫu góp phần làm nên sự đổi
thay trong cuộc sống cho quê hương Tây Bắc. Bên cạnh đó, với Miền Tây, Tô
Hoài đã có thêm những nét mới về nghệ thuật trong cách triển khai cốt truyện,
dựng cảnh, cách khai thác các chi tiết nghệ thuật, và nhất là việc xây dựng thành
công một số nhân vật mang tính điển hình tạo nên ở người đọc dấu ấn sâu bền
như: Giàng Súa, Thào Khay, Vừ Sóa Tỏa. Đặc biệt, nhà văn có sự kết hợp hài
hòa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn trong quá trình sáng tạo. Chính
điều này đã góp phần làm nên vẻ đẹp rất chân thật mà cũng rất giàu chất thơ
mộng lãng mạn cho Miền Tây.
Sống trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn chuyện cũ”, ngòi bút
của ông hướng về xã hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nhìn, sự suy ngẫm
sâu sắc hơn theo thời gian và những trải nghiệm trong cuộc sống. Ở tiểu
thuyết Mười năm, với tầm nhận thức mới và từ chỗ đứng của cuộc sống hiện tại
nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc, Tô Hoài đã phản ảnh
chân thật và sinh động hơn cảnh sống bi thảm, đói nghèo, cùng quẫn ở một vùng
quê ven đô, nơi mà nhà văn đã chứng kiến và trải qua cùng với bao số phận
khác. Đồng thời, qua Mười năm, nhà văn cũng thể hiện được quá trình giác ngộ
cách mạng của quần chúng cũng như sức mạnh của họ trong các phong trào đấu
tranh chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến. Đi đầu trong
phong trào đấu tranh là lớp thanh niên như Lạp, Trung, Lê, Ba,... Họ tiếp thu
ánh sáng lí tưởng mới, và hăng hái nhiệt tình tham gia các hoạt động để đem lại
sự đổi thay cho cuộc sống.

16



Ở Mười năm, còn một số chi tiết có thể gạt bỏ để tác phẩm có thể hoàn
thiện hơn, nhưng điều cần nhận thấy, ở tác phẩm này Tô Hoài với tầm nhận thức
mới đã phát huy được sự sắc sảo trong cách quan sát và bút pháp thể hiện.
Sau tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về ngoại
thành Hà Nội như: Quê người, Quê nhà, Những ngõ phố, người đường phố, và
gần đây là Chuyện cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư
liệu, cũng như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong
phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có điều kiện
hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải
dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường và cả trong chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn
đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau
những chuyến đi lên Tây Bắc như Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi thăm
nước bạn như Tôi thăm Cămpuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song
cửa,... Đặc biệt, Tô Hoài có các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ
ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như Tự truyện,
Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các tập hồi kí này, người đọc có điều kiện để
hiểu thêm về phong cách nghệ thuật, thân phận, nhân cách nhà văn trong hành
trình văn chương của ông và một số nhà văn khác. Cách viết hồi kí của Tô Hoài
rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai thác theo mạch liên tưởng và đan
xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức hấp dẫn đối với người đọc không thua kém
gì so với thể loại khác.
Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá nhiều tác
phẩm cho thiếu nhi như: Con mèo lười, Vừ A Dính, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần,
Nhà Chử,… Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ Tô Hoài
vẫn có được cách cảm nhận và thể hiện đời sống qua trang văn phù hợp với tâm
hồn, nhận thức của tuổi thơ, để cùng các em đến với một thế giới biết bao điều
kì thú. Trên cơ sở đó góp phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả cho tâm
hồn trẻ thơ.

17


Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã khẳng
định được vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc đời
mới. Ông xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động nghệ thuật để
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2. Truyền đồng thoại
1.2.1. Khái niệm truyện đồng thoại
Thuật ngữ truyện đồng thoại có nguồn gốc từ Trung Quốc xuất hiện ở nước
ta vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX khi nền văn học đã cho ra đời
những tác phẩm thuộc thể loại này. Trong quá trình sử dụng, nó đã được qui ước
lại, thể hiện cách hiểu riêng của văn học Việt Nam. Tìm hiểu thuật ngữ này
trong nền văn học Trung Quốc, ta thấy có nhiều điểm khác biệt so với cách hiểu
của ta hiện nay.
Ở Việt Nam, thuật ngữ truyện đồng thoại có nhiều cách hiểu khác nhau,
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (bản in 1994) định nghĩa đồng
thoại theo nghĩa rộng là truyện chép cho trẻ con xem”. Còn trong từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học (bản in 2001) lại có cách hiểu khác đồng thoại là
thể truyện cho trẻ em, trong đó loài vật và các vật vô tri được nhân cách hóa tạo
nên một thế giới thần kì thích hợp với trẻ em”. Bên cạnh đó, một số nhà phê
bình trong những bài viết của mình cũng cho ý kiến về vấn đề này. Tiêu biểu là
nhận định:
Vân Thanh trong bài viết “Tìm hiểu đặc điểm của truyện đồng thoại” đăng
trên Tạp chí Văn học (4) năm 1974 đưa ra cho rằng đồng thoại là một thể loại
đặc biệt của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng.
Ở đó, các tác giả thường dùng nhân vật chính là động vật, thực vật và những vật
vô tri, lồng cho chúng những tình cảm của con người. (Cũng có khi nhân vật là
người). Qua thế giới không thực mà lại thực đó, tác giả lồng cho chúng những

tình cảm và cuộc sống của con người. Tính chất mơ tưởng và khoa trương là
những yếu tố không thể thiếu được trong đồng thoại”. Cách hiểu của Vân Thanh
18


đã phản ánh được những nét cơ bản của đồng thoại, làm cơ sở cho những định
nghĩa khác về sau.
Cao Đức Tiến, Dương Thị Hương trong chuyên đề Văn học cũng định
nghĩa: Truyện đồng thoại là sáng tác của các nhà văn hiện đại, sử dụng nghệ
thuật nhân hóa loài vật để kể chuyện về con người, đặc biệt là trẻ em, vì vậy
nhân vật chủ yếu là loài vật”.
Trong khi đó, Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký quan niệm truyện đồng thoại
là thể loại văn học được các nhà văn viết riêng cho các em với bút pháp kế thừa
từ đồng thoại dân gian gọi là đồng thoại hiện đại. Vẫn là truyện lấy loài vật (con
vật, cỏ cây, hoa quả…) làm đối tượng miêu tả, với tư cách là văn học viết, đồng
thoại hiện đại phải mới so với đồng thoại dân gian”.
Như vậy, dù có sự khác nhau đôi chút, nhìn toàn thể, các quan niệm trên có
sự thống nhất ở hai điểm: (i) truyện đồng thoại là những sáng tác hiện đại trong
nền văn học Việt Nam; (ii) đa phần các quan niệm hiểu truyện đồng thoại theo
nghĩa hẹp: thể loại truyện kể hiện đại dành cho trẻ em, có hình thức đặc thù là
nhân cách hóa loài vật.
Chúng tôi tán đồng hai quan điểm vừa nêu và xem chúng là những tiêu chí
nhận diện ban đầu của thể loại truyện đồng thoại.
1.2.2. Đặc điểm truyện đồng thoại
Văn học thiếu nhi bao gồm rất nhiều các thể loại khác nhau, trong đó thể
loại truyện đồng thoại chiếm một vị trí quan trọng bởi lẽ nó có sự hấp dẫn riêng
về nội dung, đặc trưng về lứa tuổi và về giá trị đạo đức.
Nhiều nhà nghiên cứu và nhà văn đã cho rằng, viết cho con trẻ cách dễ nhất
là soi mình vào mắt trẻ thơ. Từ đó, hiện lên một thế giới lung linh sắc màu. Đó
là những câu chuyện đồng thoại mà ở đó trẻ con có thể trò chuyện với loài vật một khả năng mà hầu hết người lớn đều đã đánh mất. Từ đó, các em có thể học

chính ngay từ bạn bè và những thứ xung quanh mình; học để lớn lên mỗi ngày
cho tâm hồn được tưới tắm trong những yêu thương, chăm sóc.
Khi viết đồng thoại, nhà văn rất chú ý tâm lý của lứa tuổi. Trong Làm thế
nào để viết cho các em hay hơn, nhà văn Phạm Hổ nói rằng, “ở lứa tuổi bé
19


(vườn trẻ, mẫu giáo, cấp I), các em thường rất thích truyện cổ tích, truyện đồng
thoại, truyện ngụ ngôn...”. Nhà văn Cửu Thọ, qua nhiều năm làm công tác xuất
bản sách cho thiếu nhi, cũng khẳng định: đối với lứa tuổi nhi đồng, loại sách
được các em yêu thích hơn cả là “các truyện đồng thoại, cổ tích có tranh minh
họa nhiều màu sắc”. Nhà văn Ngô Quân Miện lí giải thêm: sở dĩ truyện đồng
thoại thích hợp với nhi đồng là vì “trong đó sự vật được nhìn theo cách nhìn,
cách cảm nghĩ của các em và kể lại theo cách nói của các em”... Qua một số ý
kiến trên đây, chúng ta nhận thấy, các em ở lứa tuổi nhi đồng chính là lớp công
chúng đặc biệt của thể loại truyện đồng thoại. Lứa tuổi này, như nhà tâm lí học
Vũ Thị Nho đã nhận xét, giàu tình cảm, trí tưởng tượng phát triển mạnh và nhu
cầu huyễn tưởng cao... Ở các em, bộ não đang trên đà phát triển nên sự hưng
phấn thường bộc lộ ra rất mạnh. Khả năng ghi nhớ những cái cụ thể của các em
tốt hơn các khái niệm trừu tượng. Do đó, tính trực quan, hình tượng là một đặc
điểm quan trọng về nhận thức của lứa tuổi này. Mặt khác, trong quan hệ với thế
giới xung quanh, các em luôn lấy mình là trung tâm và nhìn sự vật bằng cái nhìn
nhân hóa. Cho nên, thế giới trong mắt các em luôn là những thực thể sinh động,
có hồn người. Chúng ta sẽ không lạ khi nhìn thấy các em chơi với búp bê, ru
búp bê ngủ, hát cho búp bê nghe... Bản thân các em rất yêu thương loài vật, đối
xử với loài vật như bầu bạn. Trong quan niệm của các em, con vật nào cũng biết
yêu, biết ghét, có cảm nghĩ, nói năng như con người. Những đặc điểm tâm lí như
vậy đã giúp các em tìm thấy ở truyện đồng thoại những điều phù hợp với lứa
tuổi của mình. Có thể nói tới ba điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các em vốn giàu tưởng tượng, nhất là tưởng tượng hoang đường,

ưa thích cái mới lạ, không thích những gì tầm thường tẻ nhạt, đúng như nhà tâm
lí học người Nga M. Arnauđôp đã viết trong tác phẩm Tâm lí học sáng tạo văn
học: “Sáng tác hoang đường thích hợp với tư duy trẻ em (...), những gì làm xúc
động mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và sự nhạy
cảm phải hoạt động”. Nhà văn Nga K. Pauxtốpxki cũng có nhận xét tương tự:
“Với tuổi thơ, mặt trời nóng bỏng hơn, cỏ rậm hơn, mưa to hơn, trời tối hơn và
20


con người nào cũng thật thú vị...”. Là một thể loại giàu tưởng tượng, truyện
đồng thoại đáp ứng được yêu cầu này của các độc giả thiếu nhi.
Thứ hai, nhân hóa là một hình thức nghệ thuật đặc thù của truyện đồng
thoại. Hơn nữa, nhân cách hóa trong truyện đồng thoại được dựa trên cách nhìn,
cách cảm của trẻ em. Cho nên, đọc truyện đồng thoại, các em dễ hòa đồng với
các nhân vật của mình. Các em dễ dàng nghe được, thấy được những gì mà
người lớn không thể nghe thấy, khi cùng tiếp nhận truyện đồng thoại.
Thứ ba, truyện đồng thoại có khả năng khơi dậy ở các em những tình cảm
tốt đẹp, những cảm xúc thú vị qua những tình huống, những chi tiết vui tươi, bất
ngờ. Đặc biệt, nó có khả năng giúp cho các em hóa thân vào nhân vật, xóa nhòa
ranh giới giữa hư và thực, cảm nhận thế giới đồng thoại như cuộc sống của
chính mình. Thể loại truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại đã trải hơn nửa thế kỉ
phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là, nó cũng đã có hơn nửa thế kỉ gắn bó với
đời sống tinh thần của trẻ em Việt Nam, trẻ em ở một số nước trên thế giới.
Truyện đồng thoại đến với các em theo nhiều con đường, nhiều hình thức khác
nhau, bầu bạn với các em lúc ở nhà, khi ở trường, lúc vui chơi, hay trước khi đi
ngủ. Nó thỏa mãn các em hai nhu cầu chủ yếu là giải trí và giáo dục.
Thực tế cho thấy, thể loại truyện đồng thoại đã có một số tác phẩm gây
được ảnh hưởng ở nước ngoài. Điển hình là truyện Dế Mèn phiêu lưu ký của nhà
văn Tô Hoài. Năm 1959, truyện Dế Mèn phiêu lưu ký đã được M.Tkachov
chuyển ngữ thành công sang tiếng Nga. Nhờ giữ được cá tính của thể văn, nên

“Dế Mèn phiêu lưu ký đã hết nhẵn trong vài tiếng đồng hồ sau khi đưa ra bán”.
Các độc giả nhỏ tuổi ở nước Nga xa xôi đã đọc rất kĩ tác phẩm của Tô Hoài.
Thậm chí, có em đã viết thư cho nhà văn để nêu lên mối băn khoăn vì sao răng
con Dế Mèn không có màu nâu như con dế ở bên Nga... Sau Dế Mèn phiêu lưu
ký, một số tác phẩm khác của Tô Hoài (Ba anh em, Dê và Lợn, Đám cưới
chuột), Nguyễn Đình Thi (Cái Tết của Mèo con), Vũ Tú Nam (Cuộc phiêu lưu
của Văn Ngan tướng công) cũng lần lượt được giới thiệu với nhiều nền văn học
khác nhau trong khối XHCN (cũ). Mức độ và phạm vi ảnh hưởng của các tác
phẩm nói trên là không như nhau, nhưng có thể nói, chúng đã góp phần mở rộng
21


×