Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP THUỘC THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.98 KB, 75 trang )

BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ
SỰ NGHIỆP THUỘC THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

Khóa luận tốt nghiệp ngành : QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Người hướng dẫn

: THS. TRẦN THỊ HOÀNG ANH

Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

Mã số sinh viên

: 1305QLNC048

Khóa

: 2013-2017

Lớp

: ĐH QLNN 13C

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong khoá luận có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Người cam đoan

Nguyễn Thị Quỳnh Nga


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô ThS.
Trần Thị Hoàng Anh, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt
nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Hành chính học, Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học
tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em bước vào đời
một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam đã cho phép và tạo
điều kiện thuận lợi cho em thực tập tại Ban Kế hoạch – Tài chính để em có thể hoàn
thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong
sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các Cô, Chú, Anh, Chị làm việc tại Thông tấn
xã Việt Nam luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công
việc.
Em xin chân thành cám ơn!



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................66
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Nguồn thu của các ĐVSN thuộc TTXVN

Trang
36

Bảng 2.2: Cơ cấu các khoản chi thường xuyên của các ĐVSN thuộc
TTXVN

40

Bảng 2.3: Cơ cấu các khoản chi không thường xuyên của các ĐVSN

41


BẢNG CHÚ THÍCH CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT

Chữ cái viết tắt


Nội dung

1

TTXVN

Thông tấn xã Việt Nam

2

HĐSN

Hoạt động sự nghiệp

3

HĐSNC

Hoạt động sự nghiệp công

4

ĐVSN

Đơn vị sự nghiệp

5

ĐVSNC


Đơn vị sự nghiệp công

6

NSNN

Ngân sách nhà nước

7

TSCĐ

Tài sản cố định


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của bất kỳ
một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính biểu hiện tổng
hợp và bao quát hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý
không chỉ kiểm soát được toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn đánh giá
được chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính còn biểu hiện lợi ích của các chủ thể
tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý sử dụng
được công cụ kích thích lợi ích một cách hữu hiệu.
Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
không còn đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức
cung ứng dịch vụ cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân

sách nhà nước cấp mà từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động
dịch vụ cho xã hội. Trong những năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ
không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng
nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn còn lúng túng
trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này.
Thông tấn xã Việt nam, với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm trong
tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của
TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề
ra, song cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc
lộ những hạn chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính
của TTXVN ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước
trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi
mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội và là
khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được coi là hợp lý, có hiệu quả
nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích cực tới các quá

1


trình kinh tế xã hội theo các phương hướng phát triển đã được hoạch định. Việc
quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có liên quan trực tiếp đến
hiệu quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra nhằm hạn chế,
ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn
lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính.
Quá trình đổi mới quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đã được
thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh
vực này còn ít, mới chỉ có một số bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận
văn, luận án nghiên cứu về quản lý tài chính. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu:

“Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công, nâng cao chất
lượng dịch vụ công đến năm 2020” – TS. Lưu Thái Bình.
( />“Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp và những vấn đề đặt ra hiện nay” –
TS.Nguyễn Phú Giang.
( />“Quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công: Một số kiến nghị” THS.Trần Mạnh Hà.
( />Trong các bài viết trên, các tác giả đã đưa ra những phân tích về thực trạng
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công nhằm cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ chế quản lý tài
chính. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài trước đó mà tôi tìm hiểu có
thể kể đến:
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản trị kinh doanh – Trần Thị Kim Thoa –
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 2016: “Xây dựng các giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý tài chính tại trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định”. Tác

2


giả nghiên cứu tổng quan về quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu và
phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính tại trường Cao đẳng Công nghiệp
Nam Định. Từ đó xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính tại
trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định.
- Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế - Nguyễn Thị Ngọc Liên – Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2015: “Quản lý tài chính tại Trung tâm chứng nhận phù hợp –
Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng”. Tác giả nêu rõ những lý luận cơ bản về
đơn vị sự nghiệp có thu, tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu và quản lý tài chính
trong đơn vị sự nghiệp có thu; nêu ra được phương pháp và thiết kế nghiên cứu
được sử dụng. Về thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm chứng nhận phù hợp
tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, tác giả bắt tay vào quản lý thực trạng các
nguồn thu, chi tài chính và cân đối thu, chi tài chính tại Trung tâm Chứng nhận phù

hợp. Từ đó đánh giá theo tiêu chí và nội dung quản lý tài chính tại Trung tâm chứng
nhận phù hợp và đưa ra một số định hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quản lý tài
chính tại Trung tâm nhằm đạt hiệu quả cao.
Các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp nhất định trong việc
cung cấp lý luận và giải pháp trong việc đổi mới quản lý tài chính nói chung, quản
lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng. Mỗi một đề tài đều đem đến
một cách nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này từ đó là kinh nghiệm nghiên cứu để tôi
hoàn thành khoá luận này. Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN cũng đã
có một số công trình nghiên cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí. Riêng nghiên
cứu về đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống.
Do tôi có cơ hội thực tập tại cơ quan nên đã phần nào hiểu rõ công tác quản
lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. Do đó tôi quyết định chọn đề
tài “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt
Nam”. Đề tài này không chỉ có tính khoa học mà còn rất thiết thực đối với các cơ
quan, tổ chức hiện nay. Không chỉ vậy tôi mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu,
vận dụng kiến thức chuyên ngành đã học vào thực tế. Đồng thời qua việc nghiên
cứu đề tài, tôi cũng mong muốn được đóng góp một số ý kiến của mình đối với quý

3


cơ quan để công tác đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông
tấn xã Việt Nam được nâng cao và hoàn thiện, hợp lý hơn.

3. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước,
trong nó lại bao gồm nhiều đơn vị trực thuộc, nên quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như quản lý tài chính của

Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với TTXVN, quản lý tài chính của từng đơn vị
thuộc TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu
quản lý tài chính của các đơn vị thuộc TTXVN. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính
của Nhà nước đối với TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chỉ khảo sát các đơn vị trực thuộc trong
nước của TTXVN, không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện ở nước ngoài.
Thời gian khảo sát chủ yếu tập trung trong 3 năm từ năm 2014 - 2016.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của khóa luận là làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng quản lý tài
chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở đó đề xuất một số nội dung
đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Đề xuất một số nội dung đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc TTXVN trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
quan điểm của Đảng và Nhà nước về quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp công.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu
tài liệu thứ cấp, hệ thống hóa, mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần
thiết.

4


7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương với các
nội dung cụ thể như sau:


- Chương 1 : Khái quát chung về quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp công
- Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc Thông tấn xã Việt Nam.
- Chuơng 3: Một số nội dung và kiến nghị đổi mới quản lý tài chính ở các
đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
1.1. Đơn vị sự nghiệp công
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hoạt động sự nghiệp công
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp công
Về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa về hoạt động sự
nghiệp công. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu thì hoạt động sự nghiệp công
(HĐSNC) là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ
có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp công không
trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động
đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ
năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng sống của con người, duy trì, bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển
khoa học… Kết quả hoạt động sự nghiệp công ảnh hưởng đến không chỉ phát triển
kinh tế mà còn đến sự phát triển xã hội và đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp công
Hoạt động sự nghiệp công có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp công có xu hướng cung cấp các loại hàng
hóa, dịch vụ có tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng.

Kết quả của hoạt động sự nghiệp công chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động
của nhân dân, các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá được giá trị
kinh tế bằng tiền, nhưng có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung, tăng năng
lực sản xuất của quốc gia, tăng chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội,
tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người
hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác…. Nhiều sản phẩm của các đơn
vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng người sử dụng mà không tăng chi
phí như phát thanh, truyền hình… Theo ý kiến của nhà kinh tế được giải thưởng
Nôben J. Stieglits, nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư nhân
[14, tr.170-173]. Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến bộ

6


xã hội, Nhà nước nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi vì, nhờ sử dụng
những hàng hóa công cộng do HĐSNC tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất
được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. HĐSN giáo dục, đào tạo, y tế,
thể dục thể thao đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo
điều kiện cho lao động có chất lượng ngày càng tốt hơn; HĐSN khoa học, văn hóa
thông tin mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tạo ra những
công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống... Nếu không có sự cung cấp của Nhà
nước, nhiều người không có cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp công không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực
tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do HĐSNC tạo ra có
thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên
nhân, chẳng hạn như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không
có khả năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó
mở rộng tối đa sự tiêu dùng các loại hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực
sản xuất của đất nước, vừa có giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước

cần tổ chức cung ứng hoặc duy trì các tài trợ để các HĐSNC cung cấp những sản
phẩm, dịch vụ không thu tiền hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không
nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo
nguyên tắc thương mại bình thường, Nhà nước hướng đến mục tiêu phân phối lại
thu nhập và tăng phúc lợi công cộng. Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà
nước mong muốn các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động
có hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán
kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hoạch toán thu chi không phải là giải
pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp quản lý doanh nghiệp, mà đơn thuần chỉ
là giải pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết mọi năng
lực của mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp công luôn gắn liền và bị chi phối bởi các
chương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.

7


Trong kinh tế thị trường, các HĐSNC cũng là công cụ để Nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát
triển giáo dục, chương trình phát triển văn hóa... Những chương trình mục tiêu quốc
gia chi phối HĐSNC nằm trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung. Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội
thì nhiều vô hạn, trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước giành cho các hoạt
động này lại bị hạn chế bởi ngân sách nhà nước cũng như mối quan hệ với các nhu
cầu chi tiêu khác của Nhà nước. Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp
luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự
nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa của các Nhà nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp công có tính ích lợi chung và
lâu dài.
Sản phẩm, dịch vụ do HĐSNC tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức, văn

hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm
thường mang lại lợi ích cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng.
Nhiều sản phẩm sự nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá
trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ năng lao động… Nhìn chung, đại bộ phận các sản
phẩm do HĐSNC tạo ra là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một
ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác
dụng lan toả và được sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần.
1.1.1.2. Phân loại hoạt động sự nghiệp công
HĐSNC trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại chúng theo
nhiều tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các HĐSNC được chia thành:
+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp hoặc
gián tiếp cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh tế hoạt
động bình thường, thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt động
phục vụ cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và các nhu cầu
về đời sống tinh thần của nhân dân.

8


- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự nghiệp,
HĐSNC được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nước đảm bảo
hoàn toàn nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung
cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước
mới có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm
có các hoạt động về văn hóa tuyên truyền, giáo dục tiểu học, khoa học, y tế cho
người nghèo, đảm bảo xã hội,...
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính đảm

bảo vừa do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu dùng đóng góp một phần dưới
dạng phí. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có
tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có thể trả
tiền do họ thấy ngay hiệu quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ muốn nhận được những
dịch vụ có phí phân biệt theo chất lượng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động, hoạt động sự nghiệp công được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động được tổ chức và
duy trì hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch
vụ của nó, bất luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc
về hoạt động sự nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục, đào tạo, khoa
học, y tế, văn hóa …
+ Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt động sự nghiệp
để thực hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
1.1.2. Khái niệm, phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.2.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Trong nền kinh tế - xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp công cần có
các tổ chức công tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự
nghiệp công lập (ĐVSNC).
ĐVSNC là một loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là

9


đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn
hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế,... không theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh.
1.1.2.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSNC:

*Căn cứ vào vị trí, ĐVSNC được phân loại thành:
- ĐVSN ở Trung ương là những ĐVSN trực thuộc cơ quan nhà nước ở trung
ương như TTXVN, Đài Phát thanh Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các bệnh
viện, trường học, các Nhà xuất bản Quốc gia…
- ĐVSN ở địa phương như Đài phát thanh truyền hình ở địa phương, các
bệnh viện, trường học, do địa phương quản lý,...
* Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể, ĐVSNC bao gồm:
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân)
- ĐVSN văn hóa, thông tin
- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình
- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường
- ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại,...)
- Đơn vị sự nghiệp khác.
* Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp thì ĐVSNC được chia thành:
- ĐVSN tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động: Là đơn vị có nguồn thu từ
hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ kinh phí hoạt động thường
xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên
cho đơn vị.
- ĐVSN tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động: Là đơn vị có nguồn thu từ
hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ kinh phí hoạt động thường
xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần kinh phí cho hoạt động thường xuyên
của đơn vị.

10


- ĐVSN do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động: Là đơn vị không có

nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp hoặc nguồn thu này thấp, ngân sách nhà nước phải
cấp toàn bộ kinh phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị.
1.2. Quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp công
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội và là
khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính trước hết là quản lý các nguồn
tài chính, quản lý các quỹ tiền tệ, quản lý việc phân phối các nguồn tài chính, quản
lý việc tạo lập, phân bổ và sử dụng các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ, hợp lý và có
hiệu quả theo các mục đích đã định. Đồng thời quản lý tài chính cũng chính là
thông qua các hoạt động kể trên để tác động có hiệu quả nhất tới việc xử lý các mối
quan hệ kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính,
trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội.
Quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công là quá trình áp dụng các công cụ
và phương pháp quản lý nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tài chính trong đơn vị sự
nghiệp công để đạt những mục tiêu đã định.
1.2.2. Mục tiêu quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công
Việc quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công lập nhằm đạt tới các mục
tiêu:
- Làm cho ĐVSNC hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày
càng cao của xã hội.
- Tạo động lực khuyến khích các ĐVSNC tích cực, chủ động tổ chức hoạt
động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động
khoa học, nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm.
- Nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng
tiêu cực trong sử dụng tài chính.
- Tạo điều kiện để phát huy khả năng, nâng cao chất lượng công tác và tăng
thu nhập vật chất cho cá nhân và tập thể.

11



1.2.3. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập
- Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài
chính nói chung và trong quản lý các ĐVSNC nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài
chính thể hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế và xã hội với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này là khi tiến hành quản lý
tài chính các ĐVSNC, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả
kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả về xã hội, song những lợi ích đem lại
về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng trong quá trình quản lý tài chính
công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở
lợi ích của toàn thể cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần phải đạt
được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là
tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem
xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu
quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành
một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách liên quan đến hoạt động sự
nghiệp.
- Nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSNC bằng
những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc
tuân theo một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra,
thanh quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản
lý thu, chi tài chính ở các ĐVSNC. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo
tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSNC khác nhau, hạn chế những
tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ
quan khi quyết định các khoản thu, chi.
- Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài
chính đối với các ĐVSNC thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quản lý tài chính ĐVSNC đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử
dụng hợp lý cả ở quy mô nền kinh tế quốc dân lẫn quy mô ĐVSNC.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSNC là tổ chức công nên việc quản

lý tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính

12


công, đó là công khai, minh bạch trong động viên, phân phối các nguồn lực xã hội,
nhất là nguồn lực về tài chính. Bởi vì tài chính công là đóng góp của xã hội. Thực
hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám
sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế những thất thoát và
đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của bộ máy nhà nước.
1.2.4. Vai trò của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của bất
kỳ một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính biểu hiện
tổng hợp và bao quát hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể
quản lý không chỉ kiểm soát được toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn
đánh giá được chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính còn biểu hiện lợi ích của
các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể
quản lý sử dụng được công cụ kích thích lợi ích một cách hữu hiệu.
Quản lý tài chính ở các ĐVSNC cũng có vai trò quan trong như thế. Ngoài
ra, do hoạt động của các ĐVSNC rất đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội và theo đuổi không chỉ mục tiêu riêng, mà còn phục vụ mục tiêu
chung của toàn xã hội nên quản lý tài chính khá phức tạp, thường được quy định cụ
thể cho từng ngành. Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu về chất lượng dịch
vụ công và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNC là những vấn đề còn mang tính
phức tạp hơn nữa. Bên cạnh các khoản chi của ngân sách nhà nước đối với các
ĐVSNC, các đơn vị này còn có nguồn thu nhập từ chi trả của dân cư. Quản lý tốt tài
chính của ĐVSNC không những góp phần làm giảm bớt các khoản chi sự nghiệp
của ngân sách nhà nước, mà còn khuyến khích cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho
xã hội với chi phí tiết kiệm.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSNC liên quan trực tiếp đến

hiệu quả kinh tế - xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó, nếu tài chính
của các ĐVSNC được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn
ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài
chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính của đất
nước.

13


Ngoài ra, quản lý tài chính các ĐVSNC còn cung cấp thông tin để tái cơ cấu
hoạt động cung cấp dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… trong tương
quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.
1.2.5. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp công
1.2.5.1. Các khoản thu và quản lý các khoản thu
Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 ở mục 2 quy
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp tự
bảo đảm chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động. Tại Điều 14, nguồn tài chính của các ĐVSNC hình thành từ các nguồn sau:
1. Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, gồm:
a) Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ
đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối nguồn thu
sự nghiệp); được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán
được cấp có thẩm quyền giao;
b) Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị
không phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
c) Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
d) Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
đ) Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt
hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác);
e) Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;

g) Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước
quy định (nếu có);
h) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa
lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền
phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
i) Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có
thẩm quyền phê duyệt;
k) Kinh phí khác (nếu có).
2. Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, gồm:

14


a) Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước theo quy
định của pháp luật;
b) Thu từ hoạt động dịch vụ;
c) Thu từ hoạt động sự nghiệp khác (nếu có);
d) Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng.
3. Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
4. Nguồn khác, gồm:
a) Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ, viên
chức trong đơn vị;
b) Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật.
1.2.5.2. Các khoản chi và quản lý các khoản chi.
Tại Điều 15, mục 2 trong Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm
2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập thì nội dung chi của
các ĐVSNC gồm:
1. Chi thường xuyên; gồm:

a) Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao;
b) Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí;
c) Chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay
theo quy định của pháp luật).
2. Chi không thường xuyên; gồm:
a) Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
b) Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
c) Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
d) Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch,
khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy định;
đ) Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy
định;

15


e) Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
g) Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có);
h) Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản
cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
i) Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
k) Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
l) Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
1.2.5.3. Quy trình quản lý tài chính tại các ĐVSNC
a) Quy trình quản lý thu
Quy trình quản lý thu ở các ĐVSNC được tiến hành theo từng năm kế hoạch
qua các bước sau:
- Xây dựng kế hoạch dự toán thu.
- Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán.

- Quyết toán các khoản thu.
* Khi xây dựng kế hoạch dự toán thu phải dựa vào các căn cứ sau:
+ Phải dựa vào nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ
tiêu cụ thể, từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Các văn bản pháp lý quy định thu như các chế độ thu do Nhà nước quy định.
+ Số kiểm tra về dự toán thu do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm
trước (chủ yếu là năm báo cáo) và triển vọng của các năm tiếp theo.
* Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng để
tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối
tượng, thu đủ, tuân thủ các quy định của Nhà nước để bảo đảm hoạt động của đơn
vị mình.
* Quyết toán các khoản thu: Cuối năm, đơn vị phải giải quyết những vấn đề
còn tồn tại trong khâu tổ chức thu nộp, sau đó tổng hợp, đánh giá tình hình chấp
hành dự toán thu đã được giao, rút ra những kinh nghiệm cho việc khai thác nguồn
thu, công tác xây dựng dự toán và tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo
cho cơ quan quản lý cấp trên.

16


b) Quy trình quản lý chi tài chính
* Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong
quản lý chi ngân sách nhà nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu
quả của khâu chấp hành, kế toán và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự
toán cần dựa trên những căn cứ sau:
- Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp
trong từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự
toán chi tài chính ở ĐVSNC có một cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ
mà đơn vị phải hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương

pháp phân phối nguồn vốn vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao.
- Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các chỉ
tiêu có liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế
hoạch cho các ĐVSNC. Đây chính là việc cụ thể hóa các chủ trương của Nhà nước
trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để
xây dựng dự toán chi phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu
quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó có kiến
nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp.
- Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu
thường xuyên kỳ kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSNC phải dựa
vào cơ cấu thu ngân sách nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn
thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh
phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân
sách nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán.
Quá trình lập dự toán chi ngân sách Nhà nước được tiến hành theo các bước cơ bản
sau:
Thứ nhất, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế
hoạch để xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho
mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí.

17


Bước này còn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ
quan chủ quản cho ĐVSNC.
Thứ hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí,
các đơn vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán
cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Căn cứ vào mức độ phân cấp về chi ngân sách nhà
nước, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí

các đơn vị trực thuộc để hình thành dự toán chi ngân sách trình cơ quan có thẩm
quyền xét duyệt.
Thứ ba, căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm
quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ
chính thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị.
*Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước: Chấp hành dự toán chi ngân
sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Trong
quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên những căn cứ sau:
+ Dựa vào định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là
căn cứ mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.
+ Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi ngân sách
nhà nước trong mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị
giới hạn bởi khả năng huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường
xuyên đã được ghi trong dự toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm
một phần nhu cầu chi tiêu. Đây là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối
giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong quá trình chấp hành dự toán.
+ Dựa vào các chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là
căn cứ mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà
nước, bởi lẽ tính hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính
sách, chế độ của Nhà nước đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các
chính sách, chế độ phải phù hợp với thực tiễn. Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc
tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, ĐVSNC phải đảm bảo phân
phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm, thông qua áp dụng các biện
pháp sau:

18


- Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính sách
hiện hành, cơ quan chức năng phải hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi

hành.
- Tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp với mỗi loại hình đơn vị,
mỗi loại hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động, trên cơ sở đó quy định rõ trình tự
cấp phát nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất thực hiện.
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho
các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được
hạch toán đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán
kinh phí được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực
cao cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
- Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh phí
cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm thiết
lập lại thế cân đối mới trong qua trình chấp hành dự toán.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại
mỗi đơn vị sao cho mỗi khoản chi tiêu đảm bảo theo dự toán, đúng định mức tiêu
chuẩn của Nhà nước, góp phần nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý chi
ngân sách.
*Quyết toán chi ngân sách nhà nước: Quyết toán chi ngân sách nhà nước là
khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi tài chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà
soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ chấp hành dự toán để
phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh nghiệm và bài học
cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Bởi vậy, trong quá trình quyết toán các
khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan có
thẩm quyền xét duyệt theo chế độ quy định.
- Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung
các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo
đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định.

19



×