Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.04 KB, 84 trang )

BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NHÂN LỰC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI CÔNG VỤ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TẠI HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG

Khóa luận tốt nghiệp ngành : QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
Người hướng dẫn

: PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG

Sinh viên thực hiện

: HOÀNG KIỀU HƯƠNG

Mã số sinh viên

: 1305QTND028

Khóa

: 2013-2017

Lớp

: ĐH QTNL 13D


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế, không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô
giáo Khoa Tổ chức và quản lý nhân lực, cùng quý thầy cô bộ môn khác trường Đại
học Nội vụ Hà Nội, với tri thức và tâm huyết đã truyền đạt cho chúng em những
kiến thức quý báu, trang bị cho chúng em những kỹ năng sống, kỹ năng làm việc
trong suốt quá trình học tập tại Trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy
Nguyễn Minh Phương – người đã hướng dẫn tận tình cho em, giúp em hoàn thành
tốt bài khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân của 23 xã, thị trấn, lãnh đạo và công chức Phòng Nội vụ huyện Sơn
Động đã giúp đỡ, đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian nghiên cứu
để giúp em hoàn thành bài khóa luận của mình.
Với điều kiện thời gian có hạn và vốn kiến thức, kinh nghiệm còn hạn hẹp,
bài khóa luận của em không thể tránh được những thiếu sót. Rất mong nhận được ý
kiến những đóng góp của các thầy cô, các độc giả để em có điều kiện bổ sung, nâng
cao kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp sau này.
Sinh viên
Hoàng Kiều Hương


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan tất cả những số liệu và kết quả trong khóa luận tốt nghiệp
đều là số liệu thực tại của Phòng Nội vụ huyện Sơn Động và số liệu do em khảo sát

được, em không sao chép bất kỳ của một cá nhân hay cơ quan nào khác. Em xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà trường về sự cam đoan này.
Sinh viên
Hoàng Kiều Hương


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

TỪ VIẾT TẮT
CBCC
CNH, HĐH
HCNN
HĐND

NTM
QLHCNN
QLNN
UBMTTQ
UBND

NGUYÊN NGHĨA
Cán bộ, công chức
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hành chính nhà nước
Hội đồng nhân dân
Nông thôn mới
Quản lý hành chính nhà nước
Quản lý nhà nước
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG

STT

TÊN BẢNG

SỐ TRANG

1

Bảng 2.1. Cơ cấu số lượng cán bộ, công chức cấp xã theo đơn vị
trên địa bàn huyện Sơn Động năm 2016


(Phụ lục II)

2

Bảng 2.2. Bảng tổng hợp số lượng, chất lượng của cán bộ, công
chức cấp xã tại huyện Sơn Động năm 2016

30

3

Bảng 2.3. Trình độ chuyên môn đào tạo của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã tại huyện từ năm 2014 đến 2016

(Phụ lục II)

4

Bảng 2.4. Trình độ chuyên môn của đội ngũ CBCC cấp xã tại
huyện Sơn Động từ năm 2014 đến 2016

(Phụ lục II)

5

Bảng 2.5. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá mức độ hoàn thành
công việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp xã năm 2015

39


6

Bảng 2.6. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá mức độ hoàn thành
công việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã năm 2015

40


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
ST
T
1
2
3
4

TÊN BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Cơ cấu độ tuổi của cán bộ, công chức cấp

Biểu đồ 2. Trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức cấp xã
Biểu đồ 3. Trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức cấp xã qua các năm
Biểu đồ 4. Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, công
chức qua các năm

SỐ TRANG
32
33

35
37


LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) và hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với quá trình đó là sự phát triển
không ngừng về kinh tế - xã hội, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, đời sống nhân
dân ngày càng được nâng cao. Quá trình đó đã tạo cho đất nước chúng ta những cơ
hội lớn, bên cạnh đó cũng có những thách thức không nhỏ mà chúng ta cần phải cố
gắng để vượt qua. Tình hình mới đòi hỏi những người cán bộ, công chức (CBCC)
trong cơ quan hành chính nhà nước (HCNN), không chỉ ở cấp Trung ương mà cả
cấp địa phương cũng phải có đủ năng lực, giỏi về chuyên môn và tốt về phẩm chất
mới có thể đưa nước ta vượt qua những thách thức và khó khăn để đưa nước ta tiến
lên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói “Cán bộ là gốc của vấn đề”. Đội ngũ CBCC nước ta là lực lượng nòng
cốt của bộ máy HCNN, đóng vai trò rất quan trọng, CBCC là công bộc của dân, là
người thực thi chính sách của Nhà nước, là người đại diện cho quyền lợi của nhân
dân. Như vậy, người CBCC phải không ngừng học hỏi, trao dồi các kiến thức, phát
huy nội lực của bản thân để tạo sức mạnh cho tập thể.
Trong bộ máy HCNN, cấp xã là cấp vô cùng quan trọng, trực tiếp thực hiện
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước đến với nhân dân
trên mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy năng lực
làm việc của CBCC cấp xã tại huyện Sơn Động còn nhiều mặt yếu kém, chưa đáp
ứng được yêu cầu trong công cuộc đổi mới dẫn đến nhiều bất cập trong công tác
quản lý cũng như trách nhiệm phục vụ nhân dân. Với đề tài “Nâng cao năng lực
thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh
Bắc Giang”, em muốn đóng góp một chút ít công sức của mình vào việc nghiên cứu
thực trạng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ
CBCC trong bộ máy HCNN cấp xã để hoàn thiện hơn về trình độ chuyên môn và

thái độ phục vụ nhân dân.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực mà một yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ một tổ chức
nào và nó giữ vai trò vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của tổ chức.
Trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước như hiện
nay, càng đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực có năng lực làm việc, có trình độ chuyên
môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần ham học hỏi và tư duy đổi mới,
sáng tạo.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX xác định:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ,
chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối
với cán bộ cơ sở”. Điều này càng quan trọng với đội ngũ CBCC cấp xã bởi đội ngũ
này là những người gần dân nhất, hiểu rõ hoàn cảnh, điều kiện cũng như tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân. Là “cầu nối” giữa Nhà nước với nhân dân. Chính họ là
những người trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo
thực thi pháp luật, giải quyết các công việc ở cấp cơ sở, tạo lòng tin với nhân dân.
Do đó, nếu đội ngũ CBCC cấp xã sa ngã về phẩm chất, sa sút về năng lực sẽ gây
những hậu quả tiêu cực và nghiêm trọng về nhiều mặt đối với mỗi địa phương nói
riêng và cả nước nói chung.
Tuy nhiên, trước tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận CBCC nói
chung, CBCC cấp xã nói riêng có biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, thái độ
quan liêu, hách dịch, chưa thực hiện tốt công tác dân chủ cơ sở; có dấu hiệu tư
tưởng cơ hội, ý thức kỷ luật kém gây mất đoàn kết nội bộ; tinh thần phê bình và tự
phê bình còn thấp, gây tổn hại đến uy tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.

Nhận thức được tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó tới hiệu quả thực thi
công vụ, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ

9


cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình. Em mong rằng đề tài nghiên cứu sẽ đóng góp một phần
vào việc đổi mới và nâng cao năng lực công tác tại các cơ quan HCNN cấp xã nói
chung và cơ quan HCNN cấp xã tại huyện Sơn Động nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài liên quan đến vấn đề năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC là
một đề tài đã và đang được rất nhiều độc giả và nhà nghiên cứu quan tâm. Trên thực
tế, đã có rất nhiều người nghiên cứu về vấn đề này như:
Trong bài báo cáo “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cán bộ,
công chức tại Ủy ban nhân dân quận Cẩm Lệ - TP Đà Nẵng” (2010) của Phùng Thị
Sửu, tác giả đã đưa ra năm giải pháp chính nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ
CBCC tại UBND quận Cẩm Lệ. Tuy nhiên, tác giả chưa hoàn toàn làm rõ được nội
dung và cách thức thực hiện của giải pháp đó. Mặt khác, hệ thống cơ sở lý luận về
năng lực của CBCC trong bài báo cáo này chưa được hoàn chỉnh, còn xơ xài và đặc
biệt là cơ sở lý luận này dựa trên văn bản pháp luật cũ, không còn phù hợp với hệ
thống văn bản pháp luật hiện hành.
Bài viết “Giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức
hành chính” của Nguyễn Thị Thanh Loan được đăng tải trên Tạp chí Quản lý nhà
nước (2016) đã đưa ra bốn giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ công chức hành chính. Đó là: Thứ nhất, nâng cao ý thức trách nhiệm của
công chức trong thi hành công vụ; thứ hai, bổ khuyết những hạn chế về năng lực,
trình độ thông qua đào tạo, bồi dưỡng; thứ ba, đổi mới công tác quản lý công chức,
thí điểm áp dụng sát hạch công chức; thứ tư, tăng cường chế độ thanh tra, kiểm tra
công vụ, giám sát của nhân dân.

Trong Tạp chí Tổ chức Nhà nước (2015) với bài “Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững
mạnh” của tác giả Đoàn Văn Tình đã chỉ ra được tầm quan trọng, sự cần thiết phải
nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC cấp xã trên cả nước nói chung, từ đó đưa ra
năm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này như: Một là, hoàn thiện chế

10


độ, chính sách đối với đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã. Hai là, hoàn thiện công
tác phân tích công việc, xác định vị trí việc làm và xây dựng khung năng lực đối với
các vị trí chức danh. Ba là, hoàn thiện công tác thu hút, quy hoạch và sử dụng
CBCC. Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng. Năm là, hoàn thiện
công tác kiểm tra, đánh giá, khen thưởng và kỷ luật.
Bài viết “Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức”của Thạc sĩ Đào Thị Kim Lân được đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước (số
3/2016) đã chỉ ra được nội dung của năng lực thực thi công vụ của CBCC; tìm hiểu,
đánh giá được thực trạng và trên cơ sở đó đưa ra bảy định hướng mang tính thiết
thực, khả quan nhằm nâng cao chất lượng thực thi công vụ của CBCC trên cả nước.
Đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ ở
tỉnh Bolykhămxay Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào" được đăng trên trang web
Luanvan.co (2013) đã làm rõ được lý luận và thực tế về năng lực lãnh đạo và quản
lý của đội ngũ CBCC và xác định được vị trí, vai trò của CBCC nữ trong sự nghiệp
đổi mới. Tác giả đã phân tích và đánh giá được thực trạng năng lực CBCC nữ tại
tỉnh Bolykhămxay, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ CBCC nữ. Tuy nhiên đề tài này chỉ nghiên cứu về
năng lực của đội ngũ CBCC nữ giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong cơ quan Nhà
nước tại một tỉnh của Vương quốc Lào.
Các công trình nêu trên đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về vấn đề và đề
xuất được một số giải pháp mang tính thiết thực, khả quan và nên được áp dụng

rộng rãi và khẩn trương. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cùng một nội dung nhưng ở
một địa điểm, một thời gian, một bối cảnh khác sẽ có những vấn đề quan tâm khác
nhau. Vấn đề về năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã tại huyện Sơn
Động, tỉnh Bắc Giang mà em nghiên cứu thuộc một huyện cùng cao của tỉnh Bắc
Giang, nơi đây có điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng
nguồn nhân lực còn hạn chế chưa được tác giả nào nghiên cứu. Vì vậy, đề tài mà em
nghiên cứu không bị trùng lặp, mà dựa trên những kế thừa và phát triển của các bài
viết trên.

11


3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản và đánh
giá thực trạng năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã tại huyện Sơn
Động, tỉnh Bắc Giang; chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng
mắc, từ đó đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực thực
thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, em đã thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC
cấp xã.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC
cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ
CBCC cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã
tại huyện Sơn Động.

Phạm vi nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã
trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2016.
- Đề tài nghiên cứu tại 23 xã, thị trấn thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc
Giang.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã tại huyện Sơn Động,
tỉnh Bắc Giang còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả làm việc chưa cao, do đó cần
thiết phải nâng cao năng lực thực thi công vụ thông qua nhiều hình thức và biện
pháp khác nhau.

12


7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp được sử dụng để quan sát kỹ
năng giao tiếp hành chính, kỹ năng soạn thảo văn bản, thái độ của CBCC cấp xã đối
với công việc, đối với công dân đến làm việc.
Phương pháp điều tra, khảo sát: Xây dựng phiếu điều tra và tiến hành khảo
sát ý kiến của 300 CBCC cấp xã đang làm việc tại huyện Sơn Động về kỹ năng thu
thập và xử lý thông tin của họ.
Phương pháp phỏng vấn: Với vấn đề khó định lượng như khả năng giao tiếp
của CBCC cấp xã, cùng với phương pháp quan sát, tiến hành phỏng vấn thêm 10
CBCC cấp xã với 5 câu hỏi hỏi phỏng vấn chính, nhằm tìm hiểu điều gì gây trở ngại
hoạt động giao tiếp của người CBCC cấp xã, cũng như tâm tư, quan điểm của họ
trong quá trình giao tiếp hành chính.
Phương pháp thống kê, tổng hợp: Tổng hợp một số văn bản quy phạm pháp
luật liên quan tới vấn đề nghiên cứu và một số tài liệu liên quan đến số lượng, chất
lượng CBCC cấp xã như Báo cáo số lượng, chất lượng CBCC cấp xã của Ủy ban
nhân dân huyện Sơn Động các năm 2014, 2015, 2016…; và những thông tin thu

thập được từ phiếu điều tra, phỏng vấn.
Phương pháp phân tích số liệu: Trên cơ sở thu thập được thông tin qua các
phương pháp trên, tiến hành phân tích và đưa ra nhận xét, đánh giá thực trạng năng
lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã.
Phương pháp so sánh: Sau khi phân tích thực trạng, tiến hành so sánh năng
lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC cấp xã giữa các năm để thấy được sự thay
đổi về số lượng cũng như chất lượng, năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC
cấp xã tại huyện Sơn Động theo thời gian, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện năng lực của đội ngũ này.
8. Kết cấu khóa luận
Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã

13


Chương 2. Thực trạng năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang

14


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI
CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Công vụ
Ở Việt Nam, khái niệm công vụ chưa được hiểu một cách thống nhất:
+ Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Công vụ là một hoạt động do
công chức nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp
luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội” [41]. Đây là một định
nghĩa thể hiện khá đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công chức trong thực hiện nhiệm
vụ, đó là làm những gì pháp luật cho phép và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, chủ
thể thực thi công vụ trong khái niệm này chỉ bao gồm công chức nhân danh Nhà
nước mà bỏ qua đội ngũ cán bộ và những người được Nhà nước trao quyền – những
người cũng phục vụ lợi ích của Nhà nước và của nhân dân theo quy định của pháp
luật và được pháp luật bảo vệ.
+ Trong giáo trình Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ của Phạm Hồng
Thái: Công vụ là hoạt động nhằm phục vụ lợi ích công, lợi ích xã hội, lợi ích của
Nhà nước và nhân dân. Chủ thể thực hiện theo định nghĩa này lại quá rộng vì hoạt
động nhằm phục vụ lợi ích công, lợi ích xã hội, lợi ích của Nhà nước và nhân dân
không chỉ có CBCC mà còn có những cá nhân, tổ chức khác như tổ chức y tế, tổ
chức phi Chính phủ,…
+ Tại Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Hoạt động công
vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [39]. Như vậy,
hoạt động công vụ chính là những nhiệm vụ, quyền hạn mà người CBCC phải thực
hiện trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Từ những cách hiểu trên, có thể đưa ra một khái niệm có thể phản ánh đầy đủ
nhất bản chất của công vụ như sau: Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực pháp

15


lý được thực thi bởi đội ngũ CBCC Nhà nước hoặc những người được Nhà nước
trao quyền nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình

quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội nhằm phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân
dân. Theo đó, công vụ phải là hoạt động mang tính “quyền lực pháp lý”, chủ thể
thực hiện phải là đội ngũ CBCC nhà nước hoặc những người được Nhà nước trao
quyền, là những người nhân danh Nhà nước, được Nhà nước bảo vệ, giao quyền
hạn và trách nhiệm trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Phục vụ Nhà nước trong việc quản lý mọi mặt về đời sống xã hội của nhân dân và
phục vụ nhân dân trong việc cung ứng những dịch vụ công, những chính sách cần
thiết để đảm bảo đời sống cho nhân dân.
Từ định nghĩa trên, có thể nhận thấy công vụ có những đặc điểm sau:
- Mục đích của công vụ là phục vụ nhu cầu lợi ích của Nhà nước, xã hội và
nhân dân.
- Nội dung công vụ gắn với thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
trong quản lý mọi việc đời sống xã hội, đồng thời thực hiện chức năng tổ chức phục
vụ các nhu cầu chung, thiết yếu cơ bản của xã hội không vì mục đích lợi nhuận
(cung ứng dịch vụ công).
- Chủ thể thực thi công vụ là đội ngũ CBCC; những người được Nhà nước
trao quyền.
- Công vụ là một hoạt động không chỉ thuần tuý mang tính quyền lực Nhà
nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do Nhà nước thành lập (được
Nhà nước uỷ quyền) để phục vụ các nhu cầu thiết yếu, cơ bản của nhân dân. Các
hoạt động này đều do công chức nhân danh Nhà nước tiến hành, nó bao gồm các
hoạt động nhân danh quyền lực và các hoạt động của các tổ chức được Nhà nước uỷ
quyền.
- Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà
nước và tuân theo pháp luật.
- Công vụ mang tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp.
- Nguồn kinh phí để thực hiện công vụ là ngân sách nhà nước.

16



- Cơ chế đảm bảo thực thi công vụ: Do công vụ là một hoạt động đặc biệt,
khác với các hoạt động thông thường khác nên thực thi công vụ phải theo quy trình
chặt chẽ, đảm bảo tính pháp lý, tính quy tắc, thủ tục, công khai, bình đẳng, có sự
tham gia của các chủ thể có liên quan.
1.1.1.2. Cán bộ cấp xã
Theo Luật Cán bộ, công chức của Quốc hội khóa 12, kỳ họp thứ 4 số
22/2008/QH12 ngày 03 tháng 11 năm 2008 (gọi tắt là Luật Cán bộ, công chức năm
2008), cán bộ được quy định như sau:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước” [39].
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội” [39].
Theo đó, cán bộ cấp xã có các chức vụ sau:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy cấp xã;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã;
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh cấp xã;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cấp xã;
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam cấp xã (đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam cấp xã.


17


Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu những cán bộ làm việc trong bộ máy chính
quyền cấp xã vì những cán bộ này là người trực tiếp thực thi công vụ của Nhà nước.
1.1.1.3. Công chức cấp xã
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật” [39].
“Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [39]. Như vậy, các chức danh của công chức
cấp xã bao gồm:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - Thống Kê;
+ Địa chính – Xây dựng – Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc Địa chính - Nông nghiệp – Xây dựng và Môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa – Xã hội.

Do đặc tính của nền hành chính nhà nước và do quy định của pháp luật, đặc
biệt trong Luật Cán bộ, công chức, những nhiệm vụ và quyền hạn của CBCC cấp xã

18


được quy định nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã có đức
có tài, hết lòng phục vụ nhân dân. Nghĩa vụ của CBCC cấp xã được quy định rõ
trong các văn bản vừa là yêu cầu để CBCC cấp xã rèn luyện, phấn đấu, vừa là cơ sở
để kiểm tra, đánh giá của cấp có thẩm quyền và sự giám sát của nhân dân trong quá
trình hoạt động của CBCC cấp xã. Nghĩa vụ của CBCC cấp xã trong thi hành công
vụ được quy định tại Điều 62 Luật Cán bộ, công chức như sau:
- Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao;
- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của
cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước;
- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao;
- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là
trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường
hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người
thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi
hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết
định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan và điều lệ của
tổ chức mà mình là thành viên.
Đi đôi với nghĩa vụ, luật pháp cũng quy định quyền hạn của CBCC cấp xã và
nó là yếu tố đảm bảo cho việc hoàn thành các nghĩa vụ. Việc xác định rõ những

quyền hạn của CBCC cấp xã là cơ sở để xác định vị thế của CBCC cấp xã trong xã
hội để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao, tận tâm tận lực với công việc,
không bị chi phối bởi toan tính của cuộc sống thường ngày. Quyền của CBCC cấp
xã được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ được quy định như sau:
- Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ;

19


- Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định
của pháp luật;
- Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ;
- Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
Chính những quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền hạn của CBCC,
cùng với vị trí, vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị tạo ra cho họ có những
mối quan hệ đặc biệt, là yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi của CBCC cấp xã
và tạo ra cung cách làm việc có nét đặc trưng so với những đối tượng có nghề
nghiệp khác.
1.1.1.4. Năng lực và năng lực thực thi công vụ
Khi nói tới năng lực, nó luôn gắn liền với phẩm chất đạo đức về trí nhớ,
tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của mỗi cá nhân con người. Năng lực là một từ rất
trừu tượng và khó định lượng. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về năng lực như:
Theo nhà nghiên cứu Dubois (năm 1993), “Năng lực là khả năng của một cá
nhân để đáp ứng hoặc vượt mức các yêu cầu của một vị trí công việc nhằm đạt được
kết quả công việc mong muốn trong điều kiện nhất định của tổ chức”. Theo quan
điểm này thì năng lực bao gồm kiến thức và kỹ năng của một cá nhân nào đó đáp
ứng được yêu cầu của một vị trí công việc, từ đó hoàn thành công việc một cách tốt
nhất trong hoàn cảnh, điều kiện hiện tại của tổ chức.

Năng lực cũng có thể được hiểu là “sự kết hợp của kiến thức, kỹ năng, thái
độ có ảnh hưởng đến phần lớn các công việc của một cá nhân và có mối liên quan
trực tiếp đến kết quả thực hiện công việc; nó được cải thiện thông qua đào tạo và
phát triển” – European Commission (2007). Quan điểm này nhấn mạnh đến mối
quan hệ giữa năng lực và kết quả hoàn thành công việc, và ở đây, năng lực không tự
nhiên có được mà phải trải qua sự rèn luyện, đào tạo và phát triển.
Theo từ điển Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học (Nxb Đà Nẵng) và Trung tâm
Từ điển học (2000): Năng lực được hiểu là khả năng điều kiện chủ quan hoặc tự

20


nhiên sẵn có; phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. Theo quan điểm này, năng lực của
một cá nhân có thể có sẵn do tài năng bẩm sinh hoặc qua đào tạo, rèn luyện. Yếu tố
tâm, sinh lý được đề cao trong thực hiện công việc, nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
công việc đó. Khi mà người lao động có tâm, sinh lý tốt thì sẽ tạo ra động lực thúc
đẩy khiến bản thân hoàn thành công việc có chất lượng, hiệu quả hơn.
Với cách tiếp cận từ góc độ tâm lý học, Tiến sỹ Vũ Duy Yên cho rằng “Năng
lực là tổng hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định, nhằm bảo đảm việc hoàn thành có kết quả tốt
nhất trong lĩnh vực hoạt động ấy” [26, tr126]. Những thuộc tính đó là những kiến
thức, tính cách, sở thích, năng khiếu... riêng biệt của mỗi cá nhân phù hợp với yêu
cầu của công việc, từ đó có thể thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất.
Theo thuật ngữ hành chính: Năng lực là khả năng về thể chất và trí tuệ của cá
nhân con người, hoặc khả năng của một tập thể có tổ chức tự tạo lập và thực hiện
được các hành vi xử sự của mình trong các quan hệ xã hội nhằm thực hiện được
mục tiêu, nhiệm vụ do mình đề ra hoặc do Nhà nước hay chủ thể khác với kết quả
tốt nhất. Theo quan điểm này, năng lực của cá nhân không chỉ có kiến thức, trí tuệ
mà còn cần phải có sức khỏe thể chất đủ để đảm bảo việc thực hiện công việc một

cách liên tục nhằm đạt được mục tiêu với hiệu quả cao nhất. Hơn nữa, trong quan
điểm này, năng lực không chỉ nằm trong bản thân mỗi cá nhân mà còn bao gồm cả
phạm vi năng lực của tập thể. Năng lực của tập thể là khả năng tự tạo lập và thực
hiện được các hành vi xử sự trong các quan hệ xã hội.
Trong hoạt động QLNN, năng lực thực thi công vụ của CBCC chính là khả
năng của CBCC thực hiện có kết quả hoạt động tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước nhằm sắp xếp, tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn,
kiểm tra… các quá trình xã hội và hoạt động của con người để hướng dẫn chúng
phát triển phù hợp với trật tự hành chính quy định và xác định theo ý chí của nhà
quản lý một cách có hiệu quả. Nói cách khác, năng lực thực thi công vụ chính là khả
năng thực tế của mỗi CBCC trong việc sử dụng tổng hợp các yếu tố như kiến thức,

21


kỹ năng, thái độ hành vi… để hoàn thành công việc được giao, xử lý tình huống và
để thực hiện nhiệm vụ trong mục tiêu xác định. Như vậy, năng lực thực thi công vụ
không chỉ bao gồm các yếu tố như kiến thức, kỹ năng, thái độ mà còn bao hàm cả
khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố đó trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt
được kết quả cao nhất.
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về năng lực: Năng lực là khả năng
làm việc của một cá nhân thông qua sự kết hợp của kiến thức, kỹ năng và thái độ để
thực hiện một công việc hay một nhiệm vụ nào đó trong điều kiện, hoàn cảnh nhất
định.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Hệ thống chính trị ở cấp xã đảm nhiệm vai trò tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chính vì
vậy, năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cở sở có vai trò hết sức
quan trọng, quyết định sự thành – bại của mọi đường lối chủ trương, chính sách,
pháp luật. Chất lượng và hiệu quả thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và

chính sách pháp luật của Nhà nước một phần được quyết định bởi sự triển khai ở cơ
sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng
quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ
thuộc vào chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã.
CBCC cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành đồng thời nắm bắt tình
hình triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp
luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vị trí, vai trò của CBCC cấp xã là
cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân.
CBCC cấp xã là người gần gũi dân, sát dân nhất cho nên họ là người trực
tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng tình cảm của dân để phản ánh lên các cấp chính
quyền. Họ có vai trò trực tiếp đảm bảo kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các
quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,

22


đảm bảo trật tự xã hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người
đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu,
tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
CBCC cấp xã là lực lượng xung kích quyết định việc tổ chức thực hiện xây
dựng Nông thôn mới (NTM) ở cơ sở. CBCC cấp xã là những người trực tiếp quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết về xây dựng NTM để cụ thể hóa thành Đề án, quy
hoạch xây dựng tại địa phương; trực tiếp tham mưu, triển khai thực hiện việc huy
động sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân trong việc phát triển kinh tế xã
hội, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, tích
cực tham gia phong trào xây dựng NTM.
CBCC cấp xã là những người trực tiếp cụ thể hóa các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân; trực tiếp tham mưu, đề xuất các
biện pháp xử lý, giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở thuộc lĩnh vực được
phân công nên rất thuận lợi trong đóng góp ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước
cấp trên để xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính họ là những người trực tiếp thực
hiện và quyết định chất lượng cung cấp dịch vụ công của Nhà nước đối với nhân
dân.
Tóm lại, CBCC chính quyền cấp xã là người có vị trí, vai trò quan trọng
trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng đồng dân cư.
1.1.3. Đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
Đặc điểm của đội ngũ CBCC cấp xã trước hết được quy định bởi vị trí, vai
trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở, đó là cấp hành chính cuối cùng trong hệ thống
hành chính bốn cấp của nước ta, là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống của nhân dân và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội ở cơ sở.

23


CBCC cấp xã là một bộ phận cấu thành đội ngũ CBCC nhà nước thực thi
công vụ nhằm mục đích phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát trực tiếp của nhân dân.
Họ là những người đại diện cho hệ thống chính trị cấp cơ sở, là những người gần
dân nhất; hàng ngày tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, giải quyết các thủ tục hành
chính, cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân. Đồng thời họ tiếp nhận, phản ánh
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên, kịp thời nắm bắt và tham mưu với
các cấp để kịp thời điều chỉnh các chủ trương, chính sách cho phù hợp, sát thực,
hiệu quả.
CBCC chức cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có trình độ,
năng lực không đồng đều, mặt bằng chung còn khá thấp. Đặc biệt ở một số địa

phương vẫn còn không ít CBCC cấp xã chưa đạt chuẩn về trình độ đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ, nhất là đối với những CBCC cao tuổi.
Tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá trong hoạt động thực thi công vụ của
CBCC cấp xã chưa cao. Phần lớn CBCC cấp xã là người sinh sống tại địa phương
nên có ưu điểm là am hiểu về văn hoá, phong tục, tập quán và tâm lý, tình cảm của
người dân, thuận lợi trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định của chính
quyền địa phương. Tuy nhiên, cũng chính vì là người địa phương nên CBCC cấp xã
bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ tình cảm dòng tộc, "trong họ ngoài làng", tạo nên
lối làm việc "duy tình", chủ quan cá nhân, giải quyết công việc bằng kinh nghiệm,
ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ của chính quyền cơ sở. Hơn nữa,
do tư tưởng cục bộ, địa phương của CBCC và nhân dân còn khá phổ biến, nên
không thực sự ủng hộ, hợp tác đối với những công chức cấp xã là người địa phương
khác.
CBCC cấp xã là lực lượng mang tính “động”, thường xuyên có sự thay đổi.
Mặc dù đã thực hiện quy định về tiêu chuẩn cụ thể và nhiệm vụ của từng chức danh
CBCC cấp xã, nhưng trên thực tế vị trí công việc của CBCC cấp xã thường thiếu ổn
định so với CBCC cấp huyện, cấp tỉnh do có sự luân chuyển, điều động, bố trí lại
nhiệm vụ, nhất là sau mỗi kỳ bầu cử.

24


CBCC cấp xã phải thực hiện một khối lượng công việc rất lớn, trên phạm vi
rộng và phải kiêm nhiệm nhiều việc. CBCC cấp xã được đào tạo ở một chuyên
ngành nhất định nhưng khi thực thi công vụ ở cơ sở lại phải thực hiện việc tham
mưu quản lý và thực thi công vụ trên quy mô, phạm vi rộng với nhiều lĩnh vực,
chuyên ngành khác nhau. Chính những điều này đã tạo ra những áp lực rất lớn cho
CBCC cấp xã, đồng thời dễ nảy sinh tiêu cực, ảnh hưởng đến việc nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ của CBCC và chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thực thi

công vụ của hệ thống chính cấp cơ sở.
1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực thực thi công vụ
Năng lực thực thi công vụ là một thuật ngữ chỉ khả năng thể chất và trí tuệ
của CBCC trong việc sử dụng tổng hợp các yếu tố như kiến thức, kỹ năng, thái độ
để thực hiện công việc được giao. Năng lực thực thi công vụ còn bao hàm khả năng
kết hợp hài hòa các yếu tố trên trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhằm đạt
được hiệu quả công việc cao nhất. Vì vậy, nó được đánh giá qua nhiều khía cạnh:
1.2.1. Kiến thức
Kiến thức là tiền đề hình thành năng lực của người CBCC, có được do đào
tạo bồi dưỡng, tạo cho con người những cấp độ kiến thức, các kỹ năng và được thể
hiện thông qua các văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đào tạo cho con người một thế
giới quan khoa học, óc nhận xét, khả năng tư duy, phán đoán và quyết định hành
động đúng quy luật, đúng mức độ và đúng thời cơ. Người có trình độ càng cao,
chứng tỏ họ có khả năng thực hiện công việc càng phức tạp. Tuy nhiên trong thực
tế, không phải ai có trình độ cao cũng là người có năng lực thực tế cao, và ai có
trình độ thấp cũng là người có khả năng giải quyết công việc thấp.
Kiến thức có được qua đào tạo của CBCC bao gồm: trình độ văn hóa, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, trình độ QLNN, trình độ tin
học, ngoại ngữ và các kiến thức nền tảng kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Trình độ văn hóa: Đây là yếu tố cơ bản và là yêu cầu tối thiểu đối với mọi
CBCC, nó thể hiện trình độ khả năng tổng hợp của CBCC trên mọi lĩnh vực. Trên

25


×