Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.62 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những hoạt động cấp tín dụng phổ biến ở ngân hàng là hoạt
động bảo lãnh ngân hàng. Đây là một hoạt động không thể thiếu đối với các
ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức được tầm
quan trọng đó cũng như để hiểu hơn về những quy định của pháp luật về hoạt
động bảo lãnh ngân hàng hiện nay cũng như thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân
hàng tại các tổ chức tín dụng có những điểm tích cực và hạn chế nào? Đó là lý
do em chọn đề tài: “Phân tích cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng
và thực trạng bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng năm 2017”
I.

B. NỘI DUNG
Cơ sở pháp lý của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
I.1. Bảo lãnh ngân hàng
I.1.1. Khái niệm
Theo BLDS 2015, bảo lãnh được hiểu như sau: Bảo lãnh là việc người thứ

ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là
bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010, bảo lãnh ngân hàng được hiểu như
sau: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam
kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng theo thỏa thuận.



Theo Thông tư số 07/2015/TT-NHNN, bảo lãnh ngân hàng được hiểu như
sau: bảo lãnh ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng theo đó bên bảo lãnh (tổ
chức tín dụng) cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên được bảo
lãnh phải hoàn trả lại cho bên bảo lãnh.
Từ đó, ta thấy hoạt động bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm sau:
- Bảo lãnh ngân hàng vừa là một biện pháp bảo lãnh bảo đảm nghĩa vụ đồng thời
vừa là hợp đồng vay nợ có điều kiện.
Chủ thể bảo lãnh bao giờ cũng là tổ chức tín dụng.
- Hành vi bảo lãnh là hành vi thương mại được thực hiện thường xuyên có tính
chuyên nghiệp và chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng.
- Mục đích xác lập giao dịch bảo lãnh của bên bảo lãnh là xác lập mục đích lợi
nhuận.
- Giao dịch bảo lãnh ngân hàng là một loại giao dịch kép: tổ chức tín dụng sẽ thực
hiện giao dịch này thông qua ký kết hai hợp đồng là cấp bảo lãnh và bảo lãnh,
hai hợp đồng này có mối quan hệ nhân quả với nhau nhưng có tính độc lập cả về
phương diện chủ thể và quyền, nghĩa vụ các bên. Hợp động này vô hiệu không
thể làm hợp đồng kia vô hiệu, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng này không thể bị chi phối bởi việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng kia.
- Giao dịch bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập trên cơ sở văn bản
chứng từ.
-

Theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là loại bảo lãnh vô điều

kiện và không thể hủy ngang.
I.1.2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Với chủ trương đa dạng hóa các loại hình nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng

nhằm mở rộng khả năng cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, pháp luật hiện


hành quy định các tổ chức tín dụng được thực hiện những loại bảo lãnh ngân
hàng sau:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

Bảo lãnh vay vốn;
Bảo lãnh thanh toán;
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng;
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm;
Bảo lãnh dự thầu;
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước;
Bảo lãnh đối ứng;
Xác nhận bảo lãnh;
Các loại bảo lãnh khác mà pháp luật không cấm và phù hợp với thông
lệ quốc tế như: bảo lãnh phát hành chứng khoán….

I.1.3. Sự cần thiết phải ban hàng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
Thứ nhất: Xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế
Với chính sách mở cửa xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Nhà nước ta từng

bước cho phép các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối
ngoại để nhằm thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn hợp tác đầu tư, ứng dụng
công nghệ và tiếp thu trình độ khoa học tiên tiến của nước ngoài vào sản xuất
kinh doanh. Điều này làm cho các giao dịch kinh tế giữa doanh nghiệp trong
nước với nhau và giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài ngày càng
trở nên phong phú, đa dạng về hình thức và quy mô. Do tính bảo đảm cao cùng
với khả năng vượt khỏi biên giới quốc gia, lại được điều chỉnh với nhiều công
ước, quy tắc pháp luật chung thống nhất nên bảo lãnh ngân hàng được đặt ra như
là một lựa chọn, yêu cầu tất yếu để phục vụ và thúc đẩy quá trình phát triển của
nền kinh tế.
Thứ hai: Xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng,
nhằm đảm bảo sự an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp
vụ bảo lãnh là các trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng,


do đó hoạt động bảo lãnh cũng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, tổn thất là rất đang
dạng: rủi ro tín dụng, rủi ro chứng từ, rủi ro lãi suất… Mặt khác do tính đặc thù
của hoạt động ngân hàng và khả năng phản ứng dây chuyền nếu để xảy ra rủi ro
trong bảo lãnh thì hậu quả xấu xảy ra cho hệ thống tổ chức tín dụng khó có thể
lường trước được. Do vậy, để ngăn ngừa rủi ro thì sự điều chỉnh của pháp luật
luôn là một trong những nhân tố quyết định tới sự an toàn của hoạt động này.
Thứ ba: Nhằm đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên trong quan hệ bảo
lãnh ngân hàng
Cũng giống như các quan hệ kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường, khi
tham gia vào hoạt động bảo lãnh ngân hàng mỗi bên đều có những quyền lợi và
nghĩa vụ nhất định. Do vậy việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên là vấn đề mấu
chốt cho việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Tránh tình trạng
vi phạm kéo dài gây hậu quả xấu có thể xảy ra cần có những quy phạm pháp luật
thống nhất điều chỉnh hoạt động này.

Như vậy, nhằm khai thác tối đa hiệu quả kinh tế mà nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng có thể mang lại và đảm bảo cho sự an toàn của hoạt động này, việc
xây dựng hành lang pháp lý chung điều chỉnh là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm đặt ra hiện nay.
I.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng hiện nay được điều chỉnh bời Luật ngân
hàng, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư số 07/2015/TT-NHNN
ngày 25 tháng 6 năm 2015 và một số văn bản pháp luật khác có kiên quan.
Điều chỉnh pháp lý đối với nghiệp vụ bảo lãnh của các tổ chức tín dụng là
một vấn đề phức tạp vừa mang tính kỹ thuật pháp lý vừa mang tính kỹ thuật
nghiệp vụ, bao gồm việc xác định chủ thể, hình thức và nội dụng sự bảo lãnh,
trình tự thủ tục bảo lãnh và các loại hình bảo lãnh.
I.2.1. Chủ thể trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng


Nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng vốn mang bản chất là hoạt động
thương mại nên có cấu trúc pháp lý khá đặc thù, bao gồm sự gắn kết giữa hai
loại hợp đồng đó là: hợp đồng bảo lãnh (được ký kết giữa bên bảo lãnh với bên
nhận bảo lãnh) và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (được ký kết giữa bên bảo lãnh với
bên được bảo lãnh). Nếu tách riêng mỗi loại hợp đồng nói trên để nghiên cứu
một cách độc lập thì có thể nhận thấy hợp đồng bảo lãnh không phải bao giờ
cũng mang đầy đủ dấu hiện của quan hệ thương mại. Còn hợp đồng dịch vụ bảo
lãnh lại mang bản chất của giao dịch thương mại. Do đó cấu trúc chủ thể tham
gia hoạt động bảo lãnh ngân hàng bao gồm: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh,
bên nhận bảo lãnh.
a. Bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đó là các tổ
chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và các ngân
hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế được
thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân nước

ngoài.
Trên nguyên tắc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng,
pháp luật quy định mỗi tổ chức tín dụng chỉ được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
chuyên nghiệp đối với khách hàng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với
khách hàng.
- Có đăng ký kinh doanh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và nghiệp vụ này phải
được ghi rõ trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được cấp.
b. Bên được bảo lãnh
Nếu trong quan hệ bảo lãnh nói chung, bên được bảo lãnh có thể là mọi tổ
chức, cá nhân có yêu cầu bảo lãnh cho các nghĩa vụ tài sản của mình đối với bên
có quyền thì trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng, bên được bảo lãnh thông
thường là các chủ thể kinh doanh theo luật định. Theo quy định của pháp luật


hiện hành, những chủ thể là khách hàng được bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng bao
gồm các tổ chức, các nhân trong nước và nước ngoài, trừ những đối tượng sau
đây: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng giám
đốc của tổ chức tín dụng; cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiện
thẩm định, quyết định bảo lãnh; bố, mẹ, vợ, con của thành viên hội đồng quản
trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc chin nhánh của tổ chức tín
dụng thì việc chấp nhận bảo lãnh hay không sẽ do tổ chức tín dụng xem xét
quyết định.
Theo quy định hiện hành, những chủ thể muốn được tổ chức tín dụng xem
xét và chấp nhận bảo lãnh, cần phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật;
- Nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ tài chính hợp pháp;
- Được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp bảo lãnh đánh giá
khả năng hoàn trả lại số tiền mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài trả thay khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Đối với khách hàng là người không cư trú thì phải thỏa mãn các điều kiện
tại Điều 11 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN gồm:
a. Khách hàng là doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại nước ngoài có vốn góp
của doanh nghiệp Việt Nam dưới hình thức đầu tư quy định tại điểm a, c khoản 1
Điều 52 Luật Đầu tư 2014 hoặc dưới hình thức đầu tư trực tiếp khác tại nước
ngoài theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư;
b. Khách hàng ký quỹ đủ 100% giá trị bảo lãnh;
c. Bên nhận bảo lãnh là người cư trú.
c. Bên nhận bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh là tổ chức, các nhân có quyền thụ hưởng bảo lãnh do
bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh phát hành. Và phải thỏa mãn những điều
kiện chủ thể do pháp luật quy định nhằm góp phần đảm bảo sự hữu hiệu của hợp
đồng, những điều kiện đó bao gồm:


- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với người bảo lãnh là
một tổ chức đó phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền.
- Có các giấy tờ tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ trong
một nghĩa vụ cần bảo đảm.
I.2.2. Phạm vi bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng, phạm vi
bảo lãnh được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ tài sản mà bên bảo lãnh(tổ chức tín
dụng) cam kết sẽ thực hiện hay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) đối với bên
có quyền. Do nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ tài sản và chỉ được thực hiện bằng
tài sản của bên bảo lãnh nên phạm vi bảo lãnh phải do bên bảo lãnh tự quyết
định và phải được ghi rõ trong văn bản bảo lãnh như một điều khoản chủ yếu.
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ tài cính
mà bên được bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện với bên nhận bảo lãnh. Đồng thời
các nghĩa vụ tài sản có thể được bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng bao gồm:

1. Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản vay;
2. Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các khoản
chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống;
3. Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà
nước;
4. Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu;
5. Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh
như thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả tiền
ứng trước;
6. Các nghĩa vụ khác do các bên thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Trong trường hợp các tổ chức tín dụng đồng bảo lãnh có thể thỏa thuận
với nhau bằng văn bản về việc phân chia nghĩa vụ bảo lãnh thành các phần độc
lập cho mỗi người bảo lãnh và khi đó, nghĩa vụ bảo lãnh của mỗi tổ chức tín
dụng là độc lập và không liên đới với những tổ chức tín dụng đồng bảo lãnh
khác.


Nếu giữa các tổ chức tín dụng đồng bảo lãnh không có thỏa thuận về việc
phân chia nghĩa vụ bảo lãnh thành các phần nghĩa vụ độc lập và riêng biệt cho
mỗi tổ chức tín dụng bảo lãnh thì nghĩa vụ bảo lãnh của các tổ chức tín dụng
đồng bảo lãnh sẽ có tính cách liên đới, đồng thời bên nhận bảo lãnh có quyền
yêu cầu bất kỳ tổ chức tín dụng nào trong số những tổ chức tín dụng đồng bảo
lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với mình.
I.2.3. Hình thức và nội dung của giao dịch bảo lãnh ngân hàng
Về phương diện hình thức, pháp luật quy định việc bảo lãnh của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng phải được lập thành văn bản. Các văn bản này có
thể phải chứng thực nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Trong giao dịch bảo lãnh của tổ chức tín dụng, thông thường có hai loại
văn bản do các bên lập ra để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên, đó là giấy

đề nghị bảo lãnh và cam kết bảo lãnh. Giấy đề nghị bảo lãnh là văn bản do tổ
chức, cá nhân có nhu cầu được bảo lãnh lập theo mẫu quy định của tổ chức tín
dụng và được gửi cho tổ chức tín dụng. Cam kết bảo lãnh là văn bản bảo lãnh do
tổ chức tín dụng lập theo thể thức luật định. Văn bản bảo lãnh có thể là cam kết
đơn phương của tổ chức tín dụng bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh hoặc là
cam kết song phương và đa phương giữa tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh
và khách hàng được bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ của
họ đối với bên nhận bảo lãnh.
Về phương diện nội dung, cả hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và cam kết bảo
lãnh đều phải hội đủ các nội dung chủ yếu như tên, địa chỉ của tổ chức tín dụng
bảo lãnh và khách hàng được bảo lãnh; giá trị nghĩa vụ được bảo lãnh, số tiền
bảo lãnh và mức phí bảo lãnh; thời hạn bảo lãnh và điều kiện thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh; mục đích bảo lãnh…. Về nguyên tắc, các nội dung nêu trên của giao
dịch bảo lãnh ngân hàng có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ nếu các bên
liên quan có thỏa thuận.


I.2.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân
hàng
a. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, do tổ chức tín dụng phải
giao kết cả hai loại hợp đồng với hai chủ thể khác nhau nên chủ thể này sẽ có
hai tư cách pháp lý khác nhau trong hai quan hệ pháp luật độc lập, với cơ cấu
quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau.
Trong quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh với khách hàng sử dụng dịch vụ
bảo lãnh, do tổ chức tín dụng có tư cách là bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh nên
cơ cấu quyền và nghĩa vụ của chủ thể này sẽ bao gồm:
Các quyền:
- Quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, thông tin về khả năng tài chính

và những tài liệu khác liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh.
- Quyền yêu cầu khách hàng đề nghị bảo lãnh phải có sự bảo đảm bằng tài sản
cho nghĩa vụ hoàn trả lại của họ đối với mình.
- Quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh thanh toán tiền phí dịch vụ bảo lãnh
cho mình theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, sau khi đã phát hành
thư bảo lãnh và gửi cho bên nhận bảo lãnh.
- Quyền kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh.
- Quyền từ chối bảo lãnh đối với khách hàng không đủ điều kiện bảo lãnh.
Những nghĩa vụ cần thực hiện:
- Nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh hoặc ký hợp đồng
bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh.
- Nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đã ký kết
với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh.
- Nghĩa vụ thực hiện trả tiền thay cho khách hàng được bảo lãnh đối với người
nhận bảo lãnh, khi việc đòi tiền của người nhận bảo lãnh phù hợp với các điều
kiện thực hiện nghĩa vụ như đã ghi trong cam kết bảo lãnh.
b. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng được bảo lãnh


Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, khách hàng được bảo lãnh chỉ có
một tư cách pháp lý là người hưởng dịch vụ bảo lãnh. Tư cách này phát sinh từ
hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được ký kết giữa họ với tổ chức tín dụng thực hiện
dịch vụ bảo lãnh. Còn xét trong mối quan hệ với các chủ thể của hợp đồng bảo
lãnh thì khách hàng được bảo lãnh chỉ đóng vai trò là người thứ ba có liên quan.
Với tư cách là bên hưởng dịch vụ bảo lãnh, khách hàng được bảo lãnh sẽ
có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin, tài liệu liên quan đến việc
bảo lãnh theo yêu cầu của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh.
- Nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác đối với tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh
như cam kết về bảo đảm bằng tài sản cho bảo lãnh, cam kết trả phí dịch vụ thanh

toán,…
- Quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh là tổ chức tín dụng phải phát
hành thư bảo lãnh hoặc ký hợp đồng bảo lãnh với bên có quyền vì quyền lợi của
mình và thực hiện nghĩa vụ thay mình với tư cách là người bảo lãnh.
c.Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
Trong mối quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh,
người nhận bảo lãnh phải chứng minh họ là chủ nợ của khách hàng được bảo
lãnh, do đó họ mới có thể thiết lập được tư cách là chủ nợ đồng thời của tổ chức
tín dụng bảo lãnh. Chỉ với tư cách là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh đồng
thời cũng là chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh mới có
quyền yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho người
được bảo lãnh khi người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với
mình. Khi thực hiện quyền năng này đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh, bên nhận
bảo lãnh phải chứng minh rằng việc đòi tiền của mình là hoàn toàn phù hợp với
các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã được ghị nhận trong cam kết
bảo lãnh. Đây vốn là nguyên tắc chung đã được thừa nhận từ lâu trong thông lệ
và tập quán quốc tế về bảo lãnh ngân hàng.


I.2.5. Thủ tục bảo lãnh ngân hàng
Trên nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín
dụng, pháp luật cho phép tổ chức tín dụng được quyền quy định cụ thể về trình
tự, thủ tục và điều kiện được bảo lãnh, phù hợp với đặc điểm của từng tổ chức
tín dụng và các loại hình nghiệp vụ bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng trên
thực tế được thực hiện theo quy trình:
Bước 1: Khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh phải gửi hồ sở
đề nghị bảo lãnh đến tổ chức tín dụng do họ lựa chọn.
Bước 2: Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị bảo lãnh từ khách hàng, tổ chức
tín dụng phải tiến hành thẩm định hồ sơ dựa trên các điều kiện bảo lãnh do pháp
luật quy định và có nghĩa vụ thông báo cho khách hàng biết ý kiến chấp thuận

hay từ chối bảo lãnh.
Bước 3: Tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ phát hành thư bảo
lãnh hoặc ký kết hợp đồng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của
khách hàng đề nghị bảo lãnh.
Bước 4: Tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo yêu
cầu hợp hệ của bên nhận bảo lãnh phù hợp với cam kết bảo lãnh và trong thời
hạn bảo lãnh.
Đối với trường hợp bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai, Thông tư
số 13/2017/TT-NHNN sắp có hiệu lực có quy định về trình tự thực hiện bảo
lãnh:
Bước 1: Ngân hàng thương mại thẩm định các điều kiện đối với chủ đầu
tư để xem xét, quyết định cấp bảo lãnh.
Bước 2: Ngân hàng thương mại và chủ đầu tư ký hợp đồng bảo lãnh nhà ở
hình thành trong tương lai theo quy định tại Điều 56 Luật kinh doanh bất động
sản.


Bước 3: Ngân hàng thương mại phát hành cam kết bảo lãnh dưới hình
thức thư bảo lãnh cho từng bên mua trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận
được hợp đồng mua, thuê nhà do chủ đầu tư gửi đến.
II.

Thực trạng bảo lãnh ngân hàng tại tổ các chức tín dụng năm 2017
Ta có thể thấy vai trò của bảo lãnh ngân hàng trong kinh doanh ngày nay

vô cùng quan trọng. Rất nhiều công ty đã có được các khoản vốn cần thiết phục
vụ dự án đầu tư kinh doanh của mình thông qua bảo lãnh ngân hàng. Trong
những năm gần đây, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đang diễn ra sôi động trên
nhiều lĩnh vực khác nhau mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, bên cạnh đó tình trạng bảo lãnh tràn lan, kém hiệu quả đã gây ra không ít

hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng và kinh tế nói chung.
Thực tiễn này đặt ra cho nhà nước cần phải nhanh chóng kịp thời ban hành các
văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng nhằm phát huy tối
đa tác động tích cực mà hoạt động này có thể mang lại.
Có rất nhiều hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức thông qua
hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Bởi lẽ khi có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh
cho một cá hay tổ chức nào đó sẽ làm cho dự án kinh doanh đó mang tính bảo
đảm an toàn hơn, có lẽ chính vì thế hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã và đang
diễn ra rất sôi động ở nước ta. Có thể nói những dự án kinh doanh cần đến bảo
lãnh ngân hàng thường là những dự án cần đến vốn lớn, một trong những hoạt
động bảo lãnh ngân hàng rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam đó là bảo lãnh ngân
hàng cho các dự án bất động sản. Với quy mô xây dựng chung cư ngày càng
phát triển ngày nay, pháp luật hiện hành cũng có quy định: trước khi bán, cho
thuê, mua nhà ở hình thành trong tương lai, dự án phải được ngân hàng thương
mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh. Bên cạnh bảo lãnh ngân hàng cho các dự
án bất động sản, ngân hàng còn thực hiện bảo lãnh cho nhiều hoạt động kinh
doanh khác trong xã hội như: cho vay du học nước ngoài, trong đó các ngân
hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một khoàn tài chính để thanh toán chi


phí phải trả cho con em đi du học ngước ngoài; cho hộ kinh doanh cá thể: bảo
lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn
tạm ứng,… Lợi ích của khách hàng khi được bảo lãnh từ các ngân hàng này là:
ngân hàng sẵn sáng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, linh hoạt trong việc
thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách
hàng, khách hàng có thể ra hạn, sửa đổi nội dung hoặc hủy thư bảo lãnh khi có
nhu cầu; thư bảo lãnh của các ngân hàng này được nhiều ngân hàng và doanh
nghiệp trong và ngoài nước chấp nhận; bảo lãnh từ các ngân hàng này giúp tăng
độ tin cậy của khách hàng đối với đối tác của mình giúp cho các giao dịch triển
vọng hơn.

Các ngân hàng lớn ở Việt Nam thường có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh
như: Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng đầu tư và Phát triển
BIDV, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank, Ngân hàng
thương mại cổ phần công thương Viettinbank,…
Ngoài những thành tựu mà bảo lãnh ngân hàng đem lại thì bên cạnh đó
còn có rất nhiều những điểm bất cập trong hoạt động này, đặc biệt là trong lĩnh
vực bảo lãnh xây dựng, bảo lãnh cho các dự án bất động sản. Chẳng hạn như
bảo lãnh dự thầu: sau khi công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt hồ sơ
mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời thầu gửi các nhà
thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ dự thầu để tham
gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng. Trong
thư bảo lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công trình, số tiền bảo
lãnh, thời gian hiệu lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân hàng ký tên đóng
dấu vào thư bảo lãnh, với số tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục đích bảo lãnh là
cam kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu như phá thầu trong quá
trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng khi trúng thầu gây thiệt hại cho chủ
đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo quy định… Nếu những vi
phạm trên xảy ra, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho chủ đầu tư tối đa là số


tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hai do nhà thầu gây ra, khi có văn bản yêu cầu của
chủ đầu tư. Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia
đấu thầu xây dựng công trình là rất cần thiêt, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt
kinh tế, phải tham gia đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy
chế đấu thầu, sẽ phải mất khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi
trúng thầu thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư bảo lãnh hợp đồng. Lúc đó, thư bảo
lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực. Do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc
thực hiện mức bảo lãnh dự thầu hiện nay thường là 1% (tương đối thấp) nên một
số nhà thầu chấp nhận ứng ra số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không
lành mạnh.

Một số giải pháp để phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam:
- Do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh chưa phát huy
hết tác dụng của nó, vì vậy cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi
các nhà làm chính sách cần nghiên cứu kịp thời để sớm trình cấp thẩm quyền
ban hành một số chính sách chặt chẽ, phù hợp với nhu cầu phát triển. Việc
nghiên cứu cho ra đời các đạo luật quy định cụ thể về bảo lãnh như: nội dung,
phạm vi điều chỉnh, các hình thức xử phạt,….
- Đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa được đồng bộ, bên cạnh những người
có thực lực thì còn không ít người kém thực lực vì vậy cần đào tạo đội ngũ có
trình độ, thành thạo về nghiệp vụ bảo lãnh.
- Với một thực tế là rất nhiều khoản vay đã bị các doanh nghiệp sử dụng sai mục
đích, không có hiệu quả thì sau khi đã chấp nhận bảo lãnh, các cán bộ, nhân viên
tín dụng phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn, khi thấy có hành vi sử
dụng vốn sai phải xử lý ngay.
C. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu ta có thể thấy, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đem lại
nhiều lợi ích kinh tế cho xã hội, tuy nhiên cũng có rất nhiều bất cập còn tồn tại.
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động
của ngân hàng nói riêng mà còn có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung


vì vậy nhà nước cần có những quy định điều chỉnh nghiêm ngặt hoạt động này
để hoạt động này phát huy tác dụng tốt nhất cho nền kinh tế nước nhà.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
3. Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2015 của Ngân
hàng Nhà nước, quy định về bảo lãnh ngân hàng.

4. Thông tư số 13/2017/TT-NHNN ngày 29/09/2017 sửa đổi một số điều
của Thông tư số 07/2015/TT-NHNN.
5. Giáo trình: Luật ngân hàng Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công An nhân dân, năm 2010.



×