Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn các Tòa án quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY NAM

CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC
TIỄN CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN DUY NAM



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG MINH VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................. 7
1.1. Khái niệm chứng minh vụ án hình sự ................................................................. 7
1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án xâm phạm sở hữu ................................................................................................ 14
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm. ................................................................................................ 21
Chƣơng 2: THỰC TIỄN CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN CÁC TÒA
ÁN QUÂN SỰ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CHỨNG MINH35
2.1. Thực tiễn hoạt động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm tại các Tòa án quân sự ........................................................................... 35
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng chứng minh các vụ án xâm phạm sở
hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ......................................................................... 54
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chứng minh vụ án hình sự nói chung và hoạt động chứng
minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng là hoạt
động tư duy và thực tiễn vô cùng phức tạp và rất quan trọng, quyết định tính
đúng đắn trong phán quyết của Tòa án khi xét xử vụ án hình sự. Việc nhận
thức đúng đắn, đầy đủ lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình
sự nói chung cũng như hoạt động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu nói
riêng sẽ đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng mà nhất là Tòa án và trực tiếp là đội ngũ Thẩm phán được khách
quan, chính xác.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua công tác xét xử của các Tòa
án nói chung và các Tòa án quân sự nói riêng đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận. Hàng năm, các tòa án quân sự đã xét xử hàng trăm vụ án hình sự
theo thủ tục sơ thẩm, trong đó có những vụ án lớn, có số lượng người bị hại
đông, xâm phạm đến giá trị tài sản lớn gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Mặc dù vậy, trong hoạt động xét xử vẫn còn có tình trạng sai sót, bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội. Những hạn chế này đã gây ra những thiệt hại về tinh
thần và vật chất của các bên có liên quan, làm giảm uy tín của các Tòa án
trong việc thực thiện chức năng thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Một trong những nguyên nhân của các hạn chế trên là do những quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh vụ án trong giai đoạn
xét xử còn chưa thực sự thống nhất và chặt chẽ, gây nhiều khó khăn, vướng
mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật, nhất là việc chứng minh vụ án
hình sự nói chung và chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm nói riêng. Mặt khác, giữa lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn áp
1


dụng pháp luật còn có khoảng cách đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu
để tiếp tục làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản của hoạt động chứng minh vụ
án hình sự và nhất là vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề
"Chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ
thực tiễn các Tòa án quân sự" làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ Luật
học cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề chứng cứ và chứng

minh trong tố tụng hình sự ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
Những vấn đề cơ bản về chứng cứ và quá trình chứng minh được đề
cập trong một số giáo trình, tài liệu chuyên ngành như Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân
năm 2017; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Học viện tư pháp, NXB Tư pháp năm
2011; Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự của GS.TS Võ Khánh
Vinh, NXB Tư pháp năm 2011 …
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến đề tài trên như:
Đề tài nghiên cứu cấp trường "Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Bùi Kiên Điện làm chủ nhiệm
đề tài; Đề tài nghiên cứu cấp trường "Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp" của tác giả
Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm đề tài; Luận văn thạc sỹ năm 2008
"Đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn" của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hà; luận văn thạc
sỹ năm 2012 "Hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
2


hình sự" của Thạc sỹ Mạc Thị Duyên; luận văn thạc sỹ năm 2014 "Quá trình
chứng minh trong tố tụng hình sự" của Thạc sỹ Nguyễn Minh Ngọc…
Ngoài ra, một số sách chuyên khảo, một số bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành cũng đề cập nhiều vấn đề liên quan đến đề tài như: cuốn
sách "Chế định chứng cứ trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần
Quang Tiệp; cuốn sách "Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" của
tác giả Nguyễn Văn Cừ; cuốn sách "Chứng cứ và chứng minh trong vụ án
hình sự" của tác giả Đỗ Văn Đương; cuốn sách "Các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt" của tác giả Cao Thị Oanh (chủ biên)… Một số bài viết
như: "Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình

sự" - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm 2006 của tác giả Nguyễn Văn
Du; bài "Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong tố tụng hình sự" - Tạp chí Luật học số 7 năm 2008 của tác giả Hoàng
Thị Minh Sơn; bài "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về hoạt động chứng minh" - Tạp chí Nghề luật số 4 năm 2012 của tác
giả Nguyễn Văn Huyên; bài "Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố
tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng" - Tạp chí
Khoa học pháp lý số 8 năm 2015 của tác giả Lê Nguyên Thanh…
Những công trình khoa học, những bài viết trên đã bao quát toàn bộ
những vấn đề lý luận cơ bản về chứng minh và quá trình chứng minh vụ án
hình sự trong tất cả các giai đoạn tố tụng hoặc đi sâu nghiên cứu về một hoạt
động cụ thể của hoạt động chứng minh vụ án hình sự hoặc chứng minh trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm mà chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về
hoạt động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và chứng minh vụ
án xâm phạm sở hữu trong các Tòa án quân sự nói riêng. Vì vậy, việc nghiên
cứu hoạt động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm tại các Tòa án quân sự trên phương diện lý luận và thực tiễn để từ đó

3


đưa ra các kiến nghị nhằm đưa ra các kiến nghị nhằm triển khai và hoàn thiện
quy định của pháp luật tố tụng hình sự là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn về hoạt động
chứng minh vụ án hình sự nói chung và chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn các Tòa án quân sự nói riêng,
Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động chứng minh vụ án hình sự trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực
tiễn áp dụng pháp luật.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhằm làm rõ khái niệm, nội dung, đặc điểm
của hoạt động chứng minh và nghiên cứu các quy định về hoạt động chứng
minh trong giại đoạn xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Đánh giá thực tiễn chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn
xét xử từ thực tiễn các Tòa án quân sự.
Đưa ra số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chứng minh vụ án hình
sự nói chung và vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói
riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm những vấn đề cụ thể sau:

4


+ Các vấn đề lý luận chung về hoạt động chứng minh vụ án hình sự
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
+ Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến
chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
+ Thực trạng chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm tại các Tòa án quân sự.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về hoạt động chứng minh, các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 và các văn bản hướng dẫn về hoạt động chứng minh vụ án hình sự.
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ

sung năm 2009) và Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về
chương "Các tội xâm phạm sở hữu" và các văn bản hướng dẫn áp dụng các
quy định về nhóm tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn.
Xem xét thực tiễn hoạt động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm tại các Tòa án quân sự từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
quản điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền và về vấn đề cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay.
Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm phương
pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…

5


6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh vụ án
xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phân biệt chứng minh giai
đoạn xét xử sơ thẩm với các giai đoạn tố tụng khác.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt
động chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, đề
xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng
minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 2 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về chứng minh vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sở

thẩm vụ án hình sự.
Chƣơng 2: Thực tiễn chứng minh trong vụ án xâm phạm sở hữu trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm từ các Tòa án quân sự và giải pháp nâng cao chất
lượng chứng minh.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG MINH VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chứng minh vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng thì "chứng minh" là "dùng lý lẽ,
suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng" [56, tr. 256].
Như vậy, theo nghĩa thông thường, chứng minh được hiểu là hoạt động tư duy
và hoạt động thực tiễn của con người nhằm xác định sự tồn tại hay không tồn
tại hoặc đúng hoặc sại của một sự vật, hiện tượng trên cơ sở những chứng cứ
nhất định.
Chứng minh thực chất là một quá trình nhận thức, tức là phải có chủ
thể nhận thức (tức là ai nhận thức) và khách thể nhận thức (tức là nhận thức
cái gì). Trong tố tụng hình sự, chủ thể của hoạt động chứng minh là cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng khác. Trong đó, chủ thể chủ yếu của hoạt động
chứng minh là cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy
định "Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng". Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phân công cán bộ, nhân viên thuộc cơ quan
mình tiến hành các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật để chứng minh tội

phạm.
Khách thể của nhận thức trong tố tụng hình sự là "sự thật khách quan
của vụ án". Các vụ án hình sự xảy ra luôn để lại "dấu vết" trong thế giới
khách quan. Quá trình chứng minh vụ án hình sự thực chất là quá trình con
người nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra thông qua việc thu thập, phân
tích, đánh giá những "dấu vết" (thông tin) về vụ án. Các "dấu vết" (thông tin)
7


của vụ án chính là các chứng cứ của vụ án hình sự. Dựa trên các chứng cứ của
vụ án, các chủ thể tiến hành tố tụng "phải dựng lại toàn bộ bức tranh tội phạm
một cách toàn diện, khách quan và trung thực" [10, tr. 54].
Trong khoa học pháp lý hiện nay đang tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: "Chứng minh là quá trình nhận thức các
sự kiện, các tình tiết của vụ án hình sự" [54, tr. 330].
Quan điểm này đã phản ánh được bản chất của hoạt động chứng minh,
đó là quá trình nhận thức và đối tượng chứng minh là các sự kiện, tình tiết của
vụ án. Tuy nhiên quan điểm này không làm rõ được chủ thể của quá trình
chứng minh, các hoạt động cụ thể của quá trình chứng minh, cũng như căn cứ
pháp lý của hoạt động chứng minh.
Quan điểm thứ hai cho rằng: "Chứng minh là quá trình nhận thức các
sự kiện, các tính tiết của vụ án thông qua các chứng cứ" [8, tr. 164].
Quan điểm này đã xác định được đối tượng cần chứng minh trong vụ
án hình sự và phương tiện dùng để chứng minh là các chứng cứ. Tuy nhiên
tác giả vẫn chưa làm rõ được chủ thể chứng minh là ai, các hoạt động cụ thể
của quá trình chứng minh cũng như cơ sở pháp lý của hoạt động chứng minh.
Quan điểm thứ ba cho rằng: "Quá trình chứng minh trong vụ án hình
sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể khác trong
việc phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm làm

sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án" [45, tr. 108].
Quan điểm này đã nêu được khái quát những nét cơ bản của hoạt động
chứng minh vụ án hình sự. Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được những chủ
thể nào là cơ bản, chủ yếu tham gia vào quá trình chứng minh vụ án. Mặt
khác, quan điểm này cũng chưa nêu rõ được căn cứ pháp lý để hoạt động
chứng minh được thực hiện trên thực tế.

8


Các quan điểm nêu trên đã nói lên đặc điểm cơ bản của quá trình chứng
minh tội phạm hay nói cách khác là chứng minh một vụ án hình sự, đó là quá
trình nhận thức các tình tiết của vụ án để tìm ra sự thật khách quan. Tuy
nhiên, các quan điểm trên đều chưa chỉ ra được đầy đủ các yếu tố của quá
trình chứng minh như: chủ thể chứng minh, đối tượng chứng minh, phương
tiện chứng minh, cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động chứng minh...
Theo Từ điển Luật học thì: "Chứng minh tội phạm là thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội"
[5, tr. 165]. Vì vậy, có thể khẳng định chứng minh vụ án hình sự là "quá trình
tư duy và thực tiễn của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những
người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tư liệu cần thiết
nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho việc giải quyết
đúng đắn, khách quan vụ án" [52, tr. 185].
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau, trong đó giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng một vai trò
rất quan trọng bởi ở giai đoạn này Tòa án phải giải quyết mọi vấn đề của vụ
án trên cơ sở Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Dựa trên các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự, các chủ thể chứng minh tiến hành nhận thức về vụ
án thông qua hoạt động xét xử trên cơ sở xem xét toàn diện và đầy đủ các

chứng cứ để làm sáng tỏ từng tình tiết, từng nội dung của vụ án. Mục đích của
hoạt động chứng minh trong giai đoạn này nhằm xác định một người có tội
hay không có tội và xác định trách nhiệm hình sự cũng như vấn đề liên quan
khác để giải quyết toàn bộ vụ án.
Như vậy, có thể nói chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là "quá trình nhận thức" về vụ án của các chủ thể chứng minh, dựa
trên các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá
chứng cứ nhằm tìm ra chân lý khách quan của sự kiện phạm tội, tính có lỗi
9


hay không có lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội và xác định trách
nhiệm pháp lý đối với họ.
1.1.2. Nội dung hoạt động chứng minh vụ án hình sự trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Có nhiều cách phân chia hoạt động chứng minh vụ án hình sự thành các
giai đoạn khác nhau. Có quan điểm cho rằng hoạt động chứng minh được chia
thành ba giai đoạn gồm "phát hiện, thu thập, củng cố và bảo vệ chứng cứ;
kiểm tra, xác minh chứng cứ; đánh giá chứng cứ"[49, tr. 36]. Quan điểm khác
lại chia hoạt động chứng minh thành bốn giai đoạn khác nhau gồm "phát hiện
chứng cứ; xem xét và ghi nhận chứng cứ; kiểm tra chứng cứ; đánh giá chứng
cứ"[54, tr. 461]. Chúng tôi cho rằng, quá trình chứng minh vụ án hình sự xét
về bản chất là hoạt động nhận thức về vụ án hình sự thông qua phương tiện
chứng minh là chứng cứ. Quá trình này mặc dù trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau nhưng diễn ra liên tục, xen kẽ trong các hoạt động tố tụng hình sự. Vì
vậy việc phân chia hoạt động chứng minh vụ án hình sự thành các giai đoạn
chỉ mang tính chất tương đối. Dựa trên khái niệm và bản chất hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự, có thể chia hoạt động chứng minh thành ba
giai đoạn là thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
- Thu thập chứng cứ

"Thu thập chứng cứ là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu
giữ và bảo quản các thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án phục vụ
cho việc giải quyết vụ án" [42, tr. 65]. Trong đó, phát hiện chứng cứ là tìm ra
những nguồn lưu giữ thông tin về vụ án. Ghi nhận chứng cứ là mô tả, sao
chép những thông tin từ các nguồn lưu giữ thông tin về vụ án để đưa vào hồ
sơ vụ án. Nếu nguồn lưu giữ thông tin là các vật thì mô tả đặc điểm, dấu hiệu,
dấu vết có liên quan đến diễn biến của vụ án. Nếu nguồn lưu giữ thông tin là
người thì hoạt động ghi nhận được tiến hành bằng cách yêu cầu họ trình bày
10


về những tình tiết của vụ án mà họ biết được. Thu giữ chứng cứ được thực
hiện đối với những chứng cứ tồn tại dưới hình thức là vật và cần phải thu giữ
để đảm bảo tính nguyên vẹn của thông tin, phục vụ cho hoạt động kiểm tra và
đánh giá chứng cứ; bảo quản chứng cứ là bảo vệ tính nguyên vẹn của chứng
cứ, không để chứng cứ bị mất mát, hư hỏng, biến dạng, sai lệch.
Chứng cứ trong vụ án hình sự được chứa đựng bởi nhiều nguồn khác
nhau. Do đó, để thu thập chứng cứ hiệu quả, các chủ thể chứng minh cần áp
dụng nhiều biện pháp thu thập khác nhau phù hợp với đặc điểm của từng loại
nguồn chứng cứ. Các biện pháp thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự bao
gồm: thu giữ vật chứng; triệu tập để hỏi những người biết về vụ án; tiến hành
các hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, khám xét, thực
nghiệm điều tra, nhận dạng, xem xét dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám
định ...; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những
tình tiết làm sáng tỏ nội dung vụ án; tiếp nhận tài liệu, đồ vật, thông tin liên
quan đến vụ án do các cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ động cung cấp...
Hoạt động thu thập chứng cứ ở các giai đoạn trước khi Tòa án thụ lý hồ
sơ vụ án có thể được các chủ thể chứng minh tiến hành bằng tất cả các biện
pháp nêu trên. Nhưng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, do chức năng tố tụng và

hạn chế trong khả năng thu thập chứng cứ của Tòa án nên hoạt động thu thập
chứng cứ ở giai đoạn này chủ yếu được thực hiện bằng các biện pháp như: hỏi
và nghe những người tham gia tố tụng trình bày những vấn đề liên quan đến
vụ án; tiếp nhận các tài liệu, đồ vật do người tham gia tố tụng cung cấp; trưng
cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, xem xét tại chỗ...
- Kiểm tra chứng cứ:
Chứng cứ là cơ sở để ra các quyết định giải quyết vụ án của cơ quan
điều tra, tuy tố và xét xử. Do đó, sẽ dễ mắc sai lầm trong việc giải quyết vụ án
nếu dựa vào các tài liệu thu được mà chưa kiểm tra để xác định có đúng đắn
hay không. Thực tế đã chỉ ra rằng, sử dụng các tài liệu chưa được kiểm tra
11


xem có thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ hay không để làm căn cứ ra các
quyết định giải quyết vụ án hình sự đều đưa đến các sai lầm ở những mức độ
khác nhau mà nghiêm trọng nhất là làm oan người vô tội.
Kiểm tra chứng cứ là hoạt động của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng hình sự để xác định tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp của các chứng cứ đã được thu thập.
Kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động
xem xét của chủ thể chứng minh đối với toàn bộ chứng cứ về vụ án được thu
thập trong quá trình điều tra, truy tố, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại
phiên tòa nhằm xác định tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan của
chúng. Hoạt động kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại
phiên tòa có sự khác nhau về tính chất, chủ thể tiến hành và cách thức thực
hiện.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hoạt động kiểm tra chứng cứ do Thẩm
phán được phân công Chủ tọa phiên tòa tiến hành thông qua việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án. Kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn này nhằm mục đích xem xét
các thông tin mà các tài liệu trong hồ sơ vụ án chứa đựng có đủ điều kiện để

được coi là chứng cứ hay không và có thể sử dụng để chứng minh tội phạm
hay không?
Hoạt động kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa được thực hiện công khai,
do Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tiến hành với sự tham gia đầy đủ của
những người tham gia tố tụng thông qua thủ tục xét hỏi, xem xét vật chứng,
công bố các tài liệu liên quan đến vụ án v.v... Qua đó, Hội đồng xét xử, Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng xem xét, kiểm tra các thuộc tính của
toàn bộ các chứng cứ đã được thu thập ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại
phiên tòa để làm cơ sở cho hoạt động đánh giá chứng cứ.
- Đánh giá chứng cứ:

12


Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của chủ thể chứng minh dựa
trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm xác định giá trị chứng minh của
toàn bộ các chứng cứ đã được thu thập và kiểm tra trước đó. Đây là một khâu
phức tạp trong quá trình chứng minh vụ án hình sự và có tính hệ quả của hoạt
động này cực kỳ quan trọng, bởi vì các chủ thể tiến hành tố tụng sẽ sử dụng
kết quả đánh giá đó làm cơ sở cho các quyết định, phán quyết giải quyết vụ
án. Để đánh giá chứng cứ chính xác, các chủ thể chứng minh phải phân chia
toàn bộ chứng cứ đã thu thập được trong vụ án thành các chứng cứ riêng lẻ,
phân biệt chứng cứ này với chứng cứ khác; phân tích từng chứng cứ riêng lẻ
để xác định các tình tiết, các sự kiện riêng. Sau đó phải tổng hợp tất cả các
chứng cứ, xem xét các chứng cứ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và
hệ thống trong mối quan hệ qua lại với nhau để xác định những vấn đề phải
chứng minh nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Đánh giá chứng cứ là một giai đoạn cực kỳ quan trọng của quá trình
chứng minh nhằm xác định xem: "Có thể sử dụng chứng cứ này để chứng
minh vấn đề gì trong vụ án. Việc sử dụng chứng cứ có mâu thuẫn với các

chứng cứ khác hay không? Có phù hợp với các quy định của pháp luật không?
Có vi phạm nguyên tắc chứng minh hay không? Chứng cứ này có liên quan gì
đến các chứng cứ khác trong vụ án, tính chất và ý nghĩa của mối liên hệ ấy.
Toàn bộ chứng cứ đã thu được có giá trị như thế nào đối với việc xác định
chân lý của vụ án. Nó có đủ cơ sở đề ra một quyết định về mặt tố tụng hay
chưa?"[8, tr. 199]. Chính vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ không thể tách
rời với với hoạt động kiểm tra chứng cứ. Một mặt, việc đánh giá chứng cứ
xuất phát từ việc kiểm tra chứng cứ; mặt khác, chính từ việc đánh giá chứng
cứ mà xác định việc kiểm tra chứng cứ đã đạt được yêu cầu hay chưa?
Hoạt động đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự thông thường trải qua hai cấp độ. Thứ nhất là đánh giá chứng cứ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử mang tính chất sơ bộ và đánh giá chứng cứ chính thức
13


tại phiên tòa. Dù là sơ bộ hay chính thức thì đánh giá chứng cứ vẫn phải tuân
thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ. Việc đánh giá chứng cứ phải
được tiến hành đối với từng chứng cứ và tổng thể các chứng cứ, phải đặt mỗi
chứng cứ trong mối quan hệ với các chứng cứ khác, nhất là đối với loại chứng
cứ gián tiếp. Mỗi chứng cứ chỉ cho phép xác định một hay một số tình tiết của
vụ án, do vậy chỉ có tổng thể các chứng cứ mới có khả năng làm rõ vụ án một
cách khách quan, toàn diện.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, chỉ có Thẩm phán tiến hành đánh giá
chứng cứ thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ. Việc đánh giá chứng cứ
trong giai đoạn này chỉ mang tính chất sơ bộ vì các tài liệu trong hồ sơ vụ án
chưa được thẩm tra một cách khách quan, chưa đủ cơ sở để xác định sự thật
khách quan của vụ án. Tại phiên tòa, hoạt động đánh giá chứng cứ được tiến
hành bởi Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên và những người tham gia tố
tụng khác. Hoạt động này đan xen với quá trình thu thập, kiểm tra chứng cứ
tại phiên tòa. Tuy nhiên, kết quả đánh giá của các chủ thể chỉ được chính thức

trình bày thông qua lời luận tội, tranh luận tại phiên tòa và thông qua bản án.
1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh vụ án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ
sơ vụ án cùng với bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố bị can do Viện kiểm
sát chuyển đến và kết thúc khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ
án. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, giải quyết lần đầu và toàn bộ vụ án;
đây là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ở giai đoạn
này, mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu
thập trong quá trình điều tra, truy tố hay các chứng cứ do những người tham
gia tố tụng khác cung cấp đều được nghiên cứu kỹ và được xem xét, kiểm tra
công khai tại phiên tòa. Trên cơ sở đó Tòa án đánh giá các chứng cứ làm cơ
sở để ra bản án, quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự. Vị trí, vai trò
14


của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự làm cho
hoạt động chứng minh trong giai đoạn này có những điểm đặc trưng so với
hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác.
1.2.1. Chủ thể chứng minh
Tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 hay Điều 15 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đều quy định: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc
về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo (hay nói cách khác
là người bị buộc tội) có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Như vậy, có thể thấy trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục
tố tụng có hai nhóm chủ thể cùng tham gia hoạt động chứng minh. Nhóm chủ
thể thứ nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng, có trách nhiệm chứng minh tội
phạm. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan
này giao cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của cơ quan mình thực
hiện nhiệm vụ chứng minh, đó là đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội

thẩm. Nhóm chủ thể thứ hai là người bị buộc tội có quyền chứng minh tội
phạm. Người bị buộc tội có thể trực tiếp thực hiện việc chứng minh hoặc
thông qua người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp để thực hiện việc chứng minh đó.
Thẩm phán và Hội thẩm là các thành viên của Hội đồng xét xử, chủ thể
đặc biệt của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Hoạt động chứng minh
của Hội đồng xét xử chủ yếu được thực hiện tại phiên tòa. Tại đây, Hội đồng
xét xử thu thập chứng cứ mới do những người tham gia tố tụng đưa ra; tự
kiểm tra, xác minh chứng cứ; kiểm tra, đánh giá toàn bộ các chứng cứ đã thu
thập được trong các giai đoạn tố tụng trước đó một cách đầy đủ, toàn diện.
Mặc dù, Hội đồng xét xử quyết định theo tập thể, nhưng với nguyên tắc "khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" nên hoạt
động chứng minh của các thành viên Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập nhau
và độc lập với các chủ thể khác.
15


So với các giai đoạn khác, giai đoạn này các chủ thể tham gia hoạt
động chứng minh đông đảo và đầy đủ nhất. Đó là những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng như bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người làm chứng… Trong hai nhóm chủ
thể đó thì nhóm chủ thể những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là
những người có trách nhiệm chứng minh để xác định sự thật khách quan của
vụ án. Còn những người tham gia tố tụng cũng có quyền chứng minh tội
phạm song họ không bắt buộc phải thực hiện điều đó. Điều 15 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 quy định: "Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng

nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội".
Như vậy có thể thấy, khác với các giai đoạn tố tụng khác, trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm có nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia hoạt động
chứng minh tội phạm. Trong đó, chủ thể có trách nhiệm chứng minh thuộc về
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và trực tiếp là những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, đó là Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên. Và các
chủ thể có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh, đó là người bị buộc
tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa cho người bị buộc
tội...
1.2.2. Đối tượng chứng minh
"Đối tượng chứng minh là tất cả những tình tiết phải được xác định,
đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự"
[52, tr. 164]. Trong các vụ án hình sự, việc xác định đối tượng chứng minh
đặc biệt quan trọng, bởi vì nếu không xác định được đối tượng chứng minh thì
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử sẽ mất phương hướng, làm cho quá trình
16


giải quyết vụ án kéo dài, không đạt được mục đích đề ra, thậm chí là đi vào
ngõ cụt.
Đối tượng chứng minh được khoa học luật tố tụng hình sự của hầu hết
các quốc gia trên thế giới xem là một trong những nội dung cơ bản của pháp
luật về chứng cứ. Có quốc gia quy định đối tượng chứng minh trong một điều
luật cụ thể như điều "những tình tiết phải chứng minh trong vụ án hình sự"
của Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga. Cũng có những quốc gia không
có quy phạm độc lập để xác định đối tượng cần chứng minh mà đối tượng
chứng minh được thể hiện rải rác trong các điều luật điều chỉnh từng hoạt
động tố tụng cụ thể như Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa Pháp, Bộ luật
tố tụng hình sự của Nhật Bản, Hàn Quốc. Hay có nước quy định đối tượng
chứng minh trong phần các nguyên tắc chung của Bộ luật tố tụng hình sự

Trung Quốc.
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau,
mỗi vụ án hình sự xảy ra trên thực tế đều có những tình tiết khác nhau, không
vụ án nào hoàn toàn giống vụ án nào. Tuy nhiên, tất cả các vụ án hình sự đều
có những điểm chung nhất định, trên cơ sở đó nhà làm luật đã xây dựng quy
định về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Có thể phân
loại những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự thành các nhóm khác
nhau dựa trên vào mục đích chứng minh của những vấn đề đó. Trên cơ sở mối
quan hệ với bản chất vụ án, những vấn đề chứng minh trong vụ án hình sự
được chia thành ba nhóm chính, đó là:
- Nhóm những vấn đề phải chứng minh thuộc về bản chất của vụ án, có
ý nghĩa trong việc định tội danh, đó là các tình tiết chứng minh cấu thành tội
phạm;
- Nhóm những ấn đề phải chứng minh không thuộc về bản chất vụ án
nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự và hình phạt gồm:

17


những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, những tình tiết miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; đặc điểm nhân thân người phạm tội …
- Nhóm các tình tiết phải chứng minh không thuộc về bản chất của vụ
án hình sự, không liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm
tội nhưng có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án đúng đắn, kịp thời, toàn diện
vụ án như: xác định mức độ thiệt hại xảy ra, xác định nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, mối quan hệ giữa bị can, bị cáo với người bị hại, người làm
chứng …
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 bao
gồm: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình

tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi
hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân
của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định những tình tiết phải chứng
minh trong vụ án hình sự như quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 nhưng bổ sung thêm các tình tiết khác cũng phải chứng minh gồm:
nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Bên cạnh đó,
để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, các chủ thể chứng minh còn
phải chứng minh các tình tiết để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.2.3. Phạm vi chứng minh
Từ việc quy định "những tình tiết phải chứng minh trong vụ án hình
sự", pháp luật tố tụng hình sự đã xác định phạm vi chứng minh của vụ án.
Hay nói cách khác, tất cả những tình tiết mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án phải làm rõ, tạo cơ sở để xác định những vấn đề cần phải chứng minh
18


do luật định chính là phạm vi chứng minh. Trên thực tế, phạm vi chứng minh
của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có phạm vi rộng lớn hơn nhiều
so với phạm vi chứng minh do luật định. Bởi vì, "để xác định được những vấn
đề cần phải chứng minh do luật định, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án
còn phải chứng minh rất nhiều vấn đề khác, mặc dù các vấn đề này không
trực tiếp kết luận tội, lỗi của bị can, bị cáo nhưng cần thiết phải được làm
sáng tỏ để chỉ ra con đường xác định những vấn đề cần phải chứng minh do
luật định" [21, tr. 18-19].
Việc xác định phạm vi chứng minh trên thực tế vô cùng khó khăn và
phức tạp. Ngoài những tình tiết xác định các yếu tố cấu thành tội phạm và

những tình tiết liên quan đến việc xác định tính chất, mức độ của hành vi
phạm tội, trên thực tế phạm vi chứng minh còn bao gồm nhiều vấn đề khác
mà số lượng cụ thể của chúng phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của từng vụ
án và khả năng chứng minh của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên, không phải tất cả mọi tình tiết đều phải chứng minh mà chỉ những tình
tiết chưa rõ, chưa chắc chắn mà chúng gián tiếp liên quan đến những vấn đề
cần phải chứng minh do luật định mới cần phải làm sáng tỏ. Chẳn hạn, để
chứng minh một người nào đó phạm tội thì một trong những tình tiết phải
chứng minh là sự có mặt của người đó tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ
án. Tuy nhiên, chỉ phải chứng minh tình tiết này trong những vụ án không
phải phạm tội quả tang và người bị buộc tội khai rằng vào thời điểm phạm tội
họ đang có mặt ở một địa điểm khác. Việc chứng minh tình tiết này có ý
nghĩa khẳng định hay bác bỏ tình trạng ngoại phạm của người bị buộc tội
trước khi chứng minh các tình tiết khác của vụ án.
Như vậy, đối tượng chứng minh và phạm vi chứng minh có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Chính "những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình
sự" làm cơ sở để các chủ thể chứng minh xác định các tình tiết cần phải làm

19


sáng tỏ để chứng minh từng vấn đề của đối tượng chứng minh. Tổng hợp tất
cả những tình tiết đó đã xác định phạm vi chứng minh của vụ án hình sự.
1.2.4. Giới hạn chứng minh
Trong quá trình chứng minh vụ án hình sự, các chủ thể chứng minh
không chỉ phải trả lời câu hỏi "cần làm rõ những tình tiết nào của vụ án?", mà
còn phải trả lời câu hỏi "cần bao nhiêu chứng cứ để làm rõ tình tiết thuộc đối
tượng chứng minh?". Trả lời câu hỏi thứ nhất, chủ thể chứng minh xác định
được phạm vi chứng minh, đối tượng chứng minh. Trả lời câu hỏi thứ hai
chính là để chủ thể chứng minh xác định giới hạn chứng minh. Tính toàn diện

của hoạt động chứng minh phụ thuộc vào việc xác định đối tượng chứng
minh, phạm vi chứng minh, còn tính đầy đủ của hoạt động chứng minh phụ
thuộc vào việc xác định giới hạn chứng minh. Thông thường, "giới hạn chứng
minh được hiểu là ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu những tình tiết
có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, xác định giới hạn chứng minh chính là xác
định ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu những tình tiết đó ở mức độ đủ
để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo đúng yêu cầu của pháp luật" [15, tr.
17-19].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác
nhau. Mỗi giai đoạn có chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản tố tụng
khác nhau khiến cho hoạt động chứng minh ở từng giai đoạn tố tụng có những
đặc trưng riêng biệt. Mục đích chứng minh để làm sáng tỏ các vấn đề cần giải
quyết vụ án hình sự trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau đã xác định giới
hạn chứng minh của từng giai đoạn đó.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là "giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa
án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố
tụng theo quy định của pháp luật" [52, tr. 345]. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng với bản cáo trạng
hoặc quyết định truy tố bị can do Viện kiểm sát chuyển đến và kết thúc khi
20


Tòa án ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Xét xử sơ thẩm là cấp xét
xử thứ nhất, đây là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ở giai đoạn này, mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra, truy tố hay các chứng cứ do những
người tham gia tố tụng khác cung cấp đều được nghiên cứu kỹ và được xem
xét, thẩm tra công khai tại phiên tòa. Trên cơ sở đó, Tòa án ra bản án, quyết
định giải quyết những vấn đề cơ bản của vụ án.
Tính chất của giai đoạn xét xử sơ thẩm làm cho hoạt động chứng minh

trong giai đoạn này có những điểm khác biệt so với hoạt động chứng minh
trong các giai đoạn tố tụng khác. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình
sự và trong giai đoạn truy tố bị can, hoạt động chứng minh do các chủ thể có
chức năng buộc tội và các chủ thể có chức năng gỡ tội thực hiện. Vì vậy, giới
hạn chứng minh cũng chủ yếu để nhằm thực hiện chức năng buộc tội và chức
năng gỡ tội. Hay trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giới hạn chứng minh phụ
thuộc vào nội dung kháng cáo, kháng nghị và nhằm mục đích giải quyết nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Còn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, giới hạn
chứng minh là toàn bộ những vấn đề liên quan đến việc sự thật vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng
minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
1.3.1. Quy định về hoạt động chứng minh trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử.
Chứng minh vụ án hình sự là cả một quá trình trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau từ khi nhận tin báo, tố giác tội phạm cho đến khi đưa bản án ra thi
hành. Như đã nói ở trên, trong quá trình tố tụng có hai nhóm chủ thể cùng
tham gia hoạt động chứng minh, trong đó trách nhiệm chứng minh thuộc về
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự khác
nhau đều gắn với quyền hạn và trách nhiệm của một hay một số cơ quan có
21


thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh vụ án hình sự, trong
đó có một cơ quan có trách nhiệm chính. Tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ
của mỗi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà mục đích và trách nhiệm
chứng minh trong mỗi giai đoạn tố tụng cũng khác nhau. Trong giai đoạn
khởi tố, điều tra và truy tố bị can trong vụ án hình sự, trách nhiệm chứng
minh vụ án gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát. Do chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là cơ quan buộc tội

nên việc chứng minh vụ án của các cơ quan trên theo hướng buộc tội. Chức
năng của Tòa án là cơ quan xét xử nên đặc trưng hoạt động chứng minh của
tòa án không theo hướng buộc tội hay gỡ tội và nhằm mục đích để đưa ra các
phán quyết xử lý vụ án một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án là cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đóng vai trò chủ thể chính thực hiện chức năng chứng
minh vụ án. Hoạt động chứng minh của Tòa án thông qua người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng là Thẩm phán. Vai trò là chủ thể chính của hoạt động
chứng minh của Thẩm phán thể hiện rõ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự. Bởi vì, kể từ khi thụ lý hồ sơ vụ án hình sự, trách nhiệm giải quyết vụ
án lúc này thuộc về Tòa án và Thẩm phán là những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng đại diện cho Tòa án thực hiện nhiệm vụ chứng minh. Giai đoạn
chuẩn bị xét xử là giai đoạn Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án và chuẩn bị các
nội dung cần thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm. Theo quy định của Điều
176 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 thì hoạt động chứng minh trong giai đoạn này chủ yếu thuộc về
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Các chủ thể chứng minh khác
như Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia hoạt động
chứng minh trong giai đoạn này thông qua việc cung cấp, bổ sung các chứng
cứ, yêu cầu. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử còn có thêm các Hội
thẩm cũng tham gia hoạt động chứng minh. Tuy nhiên, động chứng minh của
22


×