Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ thực tiễn Bộ Nội vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DUNG

CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN BỘ NỘI VỤ

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN KHÁNH ĐỨC

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài nghiên cứu “Chính sách Đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức từ
thực tiễn Bộ Nội vụ” của luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng bản thân tôi
cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần
Khánh Đức. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết
quả của cuộc điều tra xã hội học mà tôi đã tiến hành nghiên cứu trên thực tế, không
có sự sao chép mà không trích nguồn tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu
toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.


Học viên

Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC

Chƣơng 1

MỞ ĐẦU

1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO

7

TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.1

Khái niệm cán bộ, công chức

7

1.2

Vấn đề về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

12


1.3

Mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

15

1.4

Giải pháp, công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

16

1.5

Thể chế chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

20

1.6

Chủ thể chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

21

Những yếu tố tác động đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

22

1.7

Chƣơng 2

công chức
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN

26

BỘ, CÔNG CHỨC BỘ NỘI VỤ

2.1

Thông tin chung về Bộ Nội vụ

28

2.2

Thực trạng kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của nước ta

30

Thực trạng kết quả chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Bộ

31

2.3

2.4
2.5
Chƣơng 3

3.1
3.2

Nội vụ
Thực trạng kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

50

công chức Bộ Nội vụ
Đánh giá chung chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

54

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI

61

DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Phương hướng hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

61

Một số giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

61

công chức.
KẾT LUẬN

73


TÀI LIỆU THAM KHẢO

75

PHỤ LỤC

79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên chữ viết tắt

Tên chữ viết nguyên bản

CBCC

Cán bộ, công chức

CBCCVC

Cán bộ, công chức, viên chức

CCHC

Cải cách hành chính

CSC


Chính sách công

ĐTBD

Đào tạo, bồi dưỡng

ĐTBD CBCC

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

ĐTBD CBCCVC

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức

HCNN

Hành chính nhà nước

QLNN

Quản lý nhà nước

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) là bộ phận cấu thành của nguồn nhân lực

Nhà nước, có vai trò rất quan trọng trong bộ máy hành chính nhà nước (HCNN).
Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy HCNN phụ thuộc phần nhiều vào trình độ,
năng lực và phẩm chất của đội ngũ CBCC nhà nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2010, Nhà nước đã xác định xây dựng đội ngũ CBCC
hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách hành chính
(CCHC) với mục tiêu là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có số
lượng, cơ cấu phù hợp với yêu cầu thực tiễn từng bước tiến tới chuyên nghiệp, hiện
đại, có phẩm chất đạo đức tốt, và năng lực thực thi công vụ, tận tụy phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân” [39]. Để xây dựng được đội ngũ
CBCC có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước thì cần phải đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) họ. ĐTBD
trở thành một giải pháp, một nhiệm vụ tất yếu khách quan không thể thiếu được
trong xây dựng đội ngũ CBCC. Xuất phát từ nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan
trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (ĐTBD CBCC) trong cải
cách hành chính nhà nước, Nhà nước đã ban hành chính sách ĐTBD CBCC.
Thực hiện Chính sách ĐTBD CBCC trong CCHC Nhà nước thời gian qua đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận về trình dộ, năng lực, phẩm chất đạo đức của
CBCC đã được nâng cao, thực thi công vụ ngày một hiệu quả hơn, tinh thần, thái độ
trong giải quyết các thủ tục hành chính giải quyết các yêu cầu của người dân được
đề cao, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn, tuy nhiên trong thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu
của chính sách, các hạn chế bất cập một mặt do khâu tổ chức thực hiện chính sách
mặt khác do bản thân chính sách ĐTBD CBCC còn có hạn chế, bất cập dẫn đến
chất lượng ĐTBD CBCC không bảo đảm, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng đội ngũ CBCC. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tiếp tục nghiên cứu để
đưa ra những giải pháp hoàn thiện chính sách.
Dựa trên các văn bản pháp luật của Nhà nước, Bộ Nội vụ đã triển khai và tổ
chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, Luật cán bộ công chức, Nghị định
18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng, Quyết định số
1



1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011- 2015. Để triển khai các
văn bản trên, Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 490/QĐ-BNV ngày 22/3/2016
về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động của Bộ Nội vụ. Quy chế này đã và đang hỗ trợ các đơn vị trực thuộc
Bộ Nội vụ dễ dàng triển khai trong việc áp dụng công tác ĐTBD, triển khai đúng
người, đúng yêu cầu cả về nội dung cũng như đối tượng. Tuy nhiên, trong quá trình
thực thi không tránh khỏi những bất cập như cán bộ, công chức, viên chức
(CBCCVC) vừa đi học vừa đi làm không đảm bảo được chất lượng học tập, nội
dung và chất lượng đào tạo chưa cao, chương trình tài liệu còn lạc hậu chưa phù
hợp với yêu cầu tực tế công việc.
Từ các lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức từ thực tiễn Bộ Nội vụ” làm luận văn thạc sĩ chính sách công với
mong muốn được đóng góp những kiến nghị, đề xuất của mình vào hoàn thiện
chính sách ĐTBD CBCC nói chung và ĐTBD CBCC của Bộ Nội vụ nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề Chính sách ĐTBD CBCC đã được rất nhiều tác giả trong nước
nghiên cứu, phân tích, đánh giá, có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như sau:
- TS. Thang Văn Phúc và PGS.TS. Nguyễn Minh Phương (2005), “Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức” của (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2005).
- PGS.TS. Đỗ Phú Hải (2012), Những vấn đề cơ bản về chính sách công,
Học viện Khoa học Xã hội. Nội dung bài viết nói về khái niệm, nội dung, quy trình,
cách thức, đánh giá về chính sách công (CSC).
- PGS.TS. Văn Tất Thu (2014), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ
sau cách mạng tháng 8 đến nay” Tạp chí Quản lý nhà nước, số 01/2014.
- PGS.TS. Văn Tất Thu (2016), “Vấn đề chính sách phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao” Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 6/2016.

- PGS.TS. Văn Tất Thu (2016), “Giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao” Tạp chí Quản lý nhà nước, số 246/2016.
- PGS.TS. Nguyễn Minh Phương, ThS. Trần Thị Hạnh (2014), “Hoàn thiện
quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức” Tạp chí
2


Tổ chức nhà nước, số 10/2014. Nội dung bài viết đã chỉ ra một số bất cập và hướng
hoàn thiện đối với các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt ĐTBD
CBCCVC.
- ThS. Nguyễn Thị La, Học viện Hành chính quốc gia (2015), “Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trong quá trình Cải cách Hành chính” (theo
www.tapchicongsan.org.vn ngày 04/9/2015). Tác giả đã nghiên cứu về ĐTBD
CBCC trong quá trình cải cách hành chính (CCHC) của nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
- TS. Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực III “Một số vấn
đề chính sách công ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí tổ chức nhà nước, số 6/2012. Tác
giả đã đưa ra một số vấn đề trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động
hoạch định và thực thi chính CSC ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong thời
gian tới.
- PGS.TS. Ngô Thành Can, Học viện Hành chính quốc gia “Nâng cao hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2008.
Tác giả đã nghiên cứu về các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD CBCC
trong nền công vụ của nước ta hiện nay.
- Nguyễn Xuân Hội (2015), “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, TP Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ chính sách công, Học
viện Khoa học Xã hội, Luận văn đề cập đến quá trình ĐTBD, thực trạng và giải
pháp ĐTBD cho CBCC tại Huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.
- TS. Vũ Thanh Xuân, Trường ĐTBD CBCC (2015), “Cải cách quy trình đào


tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ” (theo
tcnn.vn ngày 31/12/2015). Tác giả đã làm rõ quan điểm, quy trình về ĐTBD CBCC,
thực hiện cải cách trong ĐTBD CBCC nhằm nâng cao hiệu quả ĐTBD và năng lực
thực thi công vụ cho CBCC.
- TS. Vũ Thanh Xuân (2013), “Xây dựng đội ngũ giảng viên các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng của Bộ Nội vụ góp phần thực hiện các mục tiêu theo Quyết định
1734/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ”, Tạp chí Tổ chức nhà
nước Bộ Nội vụ, số 3/2013.
- PGS.TS. Trần Khánh Đức (2004), “Quản lý và kiểm định chất lượng đào
tạo nhân lực theo ISO & TQM”, NXB Giáo dục. Tác phẩm đã nêu tầm quan trọng
3


của quản lý chất lượng đào tạo, đưa ra các chỉ số và chuẩn trong đào tạo, phương
thức đánh giá, quản lý chất lượng, mô hình quản lý chất lượng cần phù hợp với thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
- TS. Lại Đức Vượng (2008), “Các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức Hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý công mới
và hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ. Theo tác giả chất
lượng ĐTBD CBCC hành chính có thể được xác định bằng đánh giá kết quả công
tác quản lý và công tác tổ chức ĐTBD.
- PGS.TS. Nguyễn Trọng Điều (2001), “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, số 16/2001. Bài viết đã làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận, thực tiễn và đưa ra các giải pháp của việc nâng cao
chất lượng ĐTBD CBCC nhà nước.
- TS. Nguyễn Ngọc Vân (2011), “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống tiêu chí
đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức”. Đề tài khoa học cấp Bộ,
Bộ Nội vụ, năm 2011
- Bộ Nội vụ (2016), Báo cáo số 2303/BC-BNV ngày 23/5/2016 báo cáo kết
quả 5 năm thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-BNV và triển khai Quyết định số

163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ĐTBD
CBCCVC giai đoạn 2016 - 2025
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và phân tích khá toàn diện về hệ
thống quan điểm, cơ sở lý luận và thực tiễn công tác ĐTBD CBCC và chính sách
ĐTBD CBCC trong bối cảnh đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và cải cách nền hành
chính và công vụ quốc gia. Tuy nhiên chưa có công trình, luận văn nghiên cứu sâu
về chính sách ĐTBD CBCC từ thực tiễn của Bộ Nội vụ
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách ĐTBD CBCC; để có cơ sở
khoa học đánh giá thực trạng chính sách và thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC ở Bộ Nội vụ và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách ĐTBD CBCC
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách ĐTBDCBCC;
- Tổng hợp đánh giá thực trạng chính sách và thực trạng thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC tại Bộ Nội vụ, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế bất cập; nguyên nhân của các
hạn chế bất cập.
- Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách
ĐTBD CBCC.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: chính sách ĐTBD CBCC
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là: chính sách ĐTBD CBCC tại Bộ Nội vụ giai đoạn
2011 đến nay và đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời đứng trên quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về Nhà nước và pháp luật; yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và
triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Tiếp cận chu trình
chính sách từ hoạch định, xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự
tham gia của chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được áp dụng qua thực
tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách công chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin: phân tích và tổng hợp, được sử dụng để
thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài
nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, luật, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng,
Nhà nước, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan, tham khảo một số báo hình, báo viết, tạp chí
qua interner và một số tài liệu tham khảo khác.
- Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp đánh giá: đánh giá trong quá trình ĐTBD CBCC giai đoạn từ
5


2011 đến nay, thực trạng, nguyên nhân, những vấn đề khó khăn và đưa ra các giải
pháp hoàn thiện nâng cao công tác ĐTBD CBCC tại Bộ Nội vụ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
- Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, hoàn
thiện những vấn đề lý luận về chính sách công nói chung, chính sách ĐTBD CBCC
ở nước ta nói riêng, góp phần cung cấp thêm cơ sở cho Bộ Nội vụ nhằm hoàn thiện
chính sách ĐTBD CBCC.

- Tài liệu tham khảo cho các học viên và các cơ sở ĐTBD CBCC.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách ĐTBD CBCC chỉ ra những khó khăn,
hạn chế trong hoạch định và thực thi chính sách, đồng thời kết quả nghiên cứu giúp
Bộ Nội vụ có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh chính sách và tổ
chức thực hiện chính sách đáp ứng yêu cầu của Bộ Nội vụ trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố
cục gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức.
Chương 2: Thực trạng chính sách và thực trạng tổ chức thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Bộ Nội vụ.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Từ trước tới nay việc nghiên cứu, phân tích một cách rành mạch khái niệm
cán bộ còn ít hoặc có đề cập đến thì các ý kiến lại không đồng nhất.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 chỉ rõ:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức

vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước [34].
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1997, cán bộ được định nghĩa
là: người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, Đảng và
đoàn thể; là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ [49].
Cán bộ ở đây được hiểu theo 2 cách: thứ nhất, là những người làm công tác
nghiệp vụ chuyên môn không chỉ trong cơ quan nhà nước mà còn trong cả hệ thống
chính trị. Bộ phận cán bộ có nghiệp vụ chuyên môn ở đây được phát triển thông qua
con đường đào tạo từ nhà trường; thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị. Đây chính là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Bộ phận cán bộ này được hình thành thông qua việc bầu cử dân
chủ, đề bạt, bổ nhiệm.
Cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, một đơn
vị nào đó. Họ có trách nhiệm đề ra phương hướng hoặc chủ trương, quy định quan
trọng, có tính chiến lược về đơn vị mình. Họ là người điều hành, chỉ đạo bằng
quyền hành qua các mệnh lệnh. Cán bộ lãnh đạo còn là người điều chỉnh những
chính sách cho phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh khách quan. Cán bộ lãnh đạo
7


được phân làm nhiều cấp; cấp tỉnh và cấp huyện. Cán bộ lãnh đạo của các cấp khác
nhau thì chịu tác động ảnh hưởng cũng khác nhau.
Cán bộ quản lý là người mà hoạt động nghề nghiệp của họ chủ yếu gắn với
việc thực hiện chức năng quản lý; là người điều hành, hướng dẫn và tổ chức thực
hiện những quyết định của cán bộ lãnh đạo. Họ được trao quyền đánh giá một cách
độc lập, chỉ đạo hoạt động công việc của người khác hay của một đơn vị, tổ chức

hoặc một khâu trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Cán bộ quản lý phải hội tụ đầy đủ
những ưu điểm như giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất tốt, có năng lực điều
hành, có khả năng tổ chức công việc và gắn kết cộng đồng.
Cả hai chức danh cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều đòi hỏi phải có
phẩm chất chính trị, phẩm chất cá nhân và phẩm chất năng lực thực thi nhiệm vụ.
Như vậy, cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị trong
một tổ chức, có tác động và ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và chịu trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
1.1.2. Khái niệm công chức
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008: “Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật” [34]. Công chức, là một khái niệm chung được sử dụng tương đối phổ
biến ở nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ những người được tuyển dụng và làm việc
trong các cơ quan nhà nước. Nội dung của khái niệm này phụ thuộc nhiều vào quan
niệm về hoạt động công vụ, chế độ chính trị, nền văn hóa của mỗi quốc gia và phụ
8


thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể của từng nước. Một số nước chỉ giới hạn
công chức trong phạm vi quản lý nhà nước, thi hành pháp luật. Trong khi đó, một số
nước lại có quan niệm rộng hơn khi cho rằng, công chức không chỉ bao gồm những

người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý nhà nước (QLNN), hoạt động công
quyền mà còn bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan dịch vụ có tính
chất công cộng. Song có một điểm chung là các nước đều giới hạn công chức trong
phạm vi bộ máy HCNN. Các tổ chức hoạt động chính trị hay hoạt động doanh nghiệp
không phải là công chức nhà nước.
Như vậy, có thể hiểu công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong biên chế giữ một nhiệm vụ thường xuyên của
bộ máy nhà nước.
1.1.3. Khái niệm đào tạo
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng,
2009, thì “đào tạo có nghĩa là quá trình làm con người trở nên có năng lực, có khả
năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định” [48].
Như vậy, theo định nghĩa này, đào tạo là một quá trình tác động tới năng lực,
khả năng của con người, để giúp cho người đó đạt được những tiêu chuẩn định trước.
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về ĐTBDCC đưa ra khái niệm: “đào tạo là
quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định
của từng cấp học, bậc học” [23]. Với khái niệm này, quá trình đào tạo gắn liền
với thời gian đào tạo tại trường học qua từng cấp học, bậc học.
Từ đó, có thể thống nhất khái niệm về đào tạo như sau: đào tạo là quá trình
truyền tải, trang bị cho con người những kiến thức, kỹ năng, thái độ, phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp để họ có thể tự tạo được việc làm hoặc làm việc trong những
ngành nghề nhất định.
1.1.4. Khái niệm bồi dưỡng
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về ĐTBD CBCC đưa ra khái niệm rất rõ: “Bồi
dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [23].
Ở khái niệm này, chỉ ra hoạt động bồi dưỡng gắn liền với trang bị, cập nhật, nâng
9


cao kiến thức, kỹ năng vận dụng những kiến thức chung nhất ở một môi trường

công việc cụ thể.
UNESCO định nghĩa: Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề nghiệp. Quá
trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Vì vậy, bồi dưỡng được hiểu là hoạt động dựa trên những cái đã có sẵn của
một cá nhân để làm tăng năng lực, trình độ, phẩm chất của cá nhân đó thông qua
việc cập nhật, bổ sung những kiến thức mới phù hợp với thực tiễn và yêu cầu công
việc thực tế.
Như vậy, bồi dưỡng là quá trình trang bị, cập nhật những tri thức mới, kinh
nghiệm thực tiễn và phẩm chất nghề nghiệp nhằm giúp cho người lao động hoàn
thiện những kỹ năng để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao nhằm phục
vụ cho sự phát triển hoạt động của tổ chức.
1.1.5. Khái niệm đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay giữ vai trò quan trọng hết sức quan trọng,
để thực hiện công tác ĐTBD CBCC. CBCC là lực lượng quyết định sự phát triển
của đất nước. Đây là chủ thể đề ra mục tiêu, hoạch định và thực hiện chính sách.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ yêu cầu CBCC không ngừng nâng cao kiến thức,
trình độ hiểu biết cho bản thân. Để đáp ứng được yêu cầu này thì công tác ĐTBD
CBCC đóng vai trò phát triển kinh tế - xã hội. Để xây dựng được đội ngũ CBCC có
phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, năng lực, chuyên nghiệp, tận tụy phục
vụ nhân dân thì cần phải có các hình thức ĐTBD phù hợp, hiệu quả để xây dựng
được đội ngũ CBCC thực sự có năng lực, giải quyết các vấn đề được giao trên
nguyên tắc hiệu quả và chất lượng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW Đảng khóa VIII đã xác
định: “Xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất
lượng của bộ máy nhà nước”. Đối với công tác ĐTBD, Nghị quyết đã xác định rõ:
“đối với CBCC nhà nước cần phải được ĐTBD kiến thức toàn diện, trước hết về
đường lối chính trị, QLNN, quản lý kinh tế - xã hội” [2].
10



Đại hội IX của Đảng xác định tiếp tục đổi mới công tác cán bộ: “Xây dựng đội
ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn,
ĐTBD cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài”. Đại hội đã chỉ ra: “Xây dựng,
chỉnh đốn các học viện, trường, trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng hiệu quả
ĐTBD cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp chống các biểu
hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập” và cần phải “Có chương trình, kế hoạch đào
tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên CBCC nhà nước”[4].
Vì vậy, ĐTBD CBCC là một quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng, chuyên
môn, nghiệp vụ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm giúp cho CBCC đáp ứng yêu
cầu giải quyết công việc được các cơ quan nhà nước giao.
1.1.6. Khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Chính sách là công cụ quản lý nhà nước góp phần thực hiện để đạt được mục
tiêu mong muốn và chúng ta có thể hiểu chính sách là tập hợp các quyết định, giải
pháp của các nhà quản lý nhằm tác động đến đối tượng thực thi chính sách để thực
hiện mục tiêu đề ra.
Có nhiều quan niệm về chính sách công, tuy nhiên theo định nghĩa của
PGS.TS Đỗ Phú Hải, 2012, (CSC) được hiểu như sau: “Chính sách công là một tập
hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể với
các giải pháp công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng
thể đã xác định” [30] .Vì vậy CSC là một công cụ quản lý của nhà nước thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách nhằm đạt được mục tiêu vai trò quản lý của
Nhà nước. Ở nước ta, CSC là do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề
ra. Chủ thể ban hành CSC là các cơ quan lập pháp, hành pháp của Nhà nước như
Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngành, địa phương và được thể hiện thông qua các
văn bản: Hiến pháp, Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư.
Mục tiêu của CSC là cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát triển
kinh tế - xã hội nhằm phục vụ lợi ích của người dân. Quy trình xây dựng, quản lý

chính sách gồm các bước như sau:
11


- Xác định vấn đề: Nghiên cứu lý thuyết, thực tiễn, dự đoán, ước tính rủi ro
đề xuất lựa chọn các giải pháp.
- Xây dựng chính sách: Soạn thảo chính sách, xác định đối tượng hưởng thụ,
tham mưu các bên liên quan, các chủ trương, giải pháp và mục đích của chính sách.
- Ban hành chính sách: Chỉnh sửa, ban hành, dự báo được phản ứng của xã
hội, phải đảm bảo điều kiện để thực hiện chính sách, thông tin tuyên truyền, hỗ trợ
thực hiện, lựa chọn hoàn cảnh để ban hành chính sách.
- Phân tích chính sách: Tổ chức điều tra, phân tích tính phù hợp, khoa học,
điểm mạnh, điểm yếu, đối tượng chịu tác động và đề xuất các giải pháp.
- Đánh giá chính sách: Đánh giá quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện, đối
tượng chịu tác động.
Từ quan niệm chung về CSC và quan niệm về ĐTBD ở trên, có thể đưa ra
định nghĩa như sau: Chính sách ĐTBD CBCC là tập hợp các quyết định, chính trị
có liên quan với nhau của Nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công cụ nhằm xây
dựng đội ngũ CBCC có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Nói một cách cụ thể và
rộng hơn chính sách ĐTBD CBCC là kết quả cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của
Đảng thành các quyết định, tập hợp các quyết định với mục tiêu, giải pháp công cụ
nhằm ĐTBD nâng cao trình độ, năng lực, chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
1.2. Vấn đề về chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
ĐTBD CBCC trở thành vấn đề chính sách được luận giải bởi các lý do sau:
Thứ nhất, về mặt pháp lý CBCC, là những người làm việc cho Nhà nước có
nghĩa vụ và quyền theo quy định trong luật CBCC năm 2008, cụ thể như có nghĩa
vụ: “Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân dân,

tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Pháp luật của Nhà nước”. “Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao” [34]. Đồng thời CBCC
12


cũng có các quyền tương ứng với nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao. Trong đó có quyền
“được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; được
pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ” [34]. Đây chính là chính sách của Nhà nước
đối với CBCC Nhà nước, những người làm việc cho Nhà nước. Và việc Nhà nước
bảo đảm cho công chức có quyền được ĐTBD nâng cao trình độ chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ là bổn phận và nghĩa vụ pháp lý của Nhà nước đối với CBCC. Nhà
nước muốn và yêu cầu CBCC phải trung thành với Nhà nước, tôn trọng và tận tụy
với nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước thì Nhà
nước phải có chính sách đối xử với CBCC một cách thích hợp và đúng mực.
Thứ hai, do vai trò, tầm quan trọng của CBCC, của đội ngũ CBCC trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
Nhà nước nói chung, của hệ thống chính trị nói riêng xét cho cùng được quyết định
bởi năng lực, phẩm chất, hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC. Chính đội ngũ
CBCC, nhất là công chức lãnh đạo quản lý là lực lượng tham mưu cho Đảng và
Chính phủ trong hoạch định xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, để có được đội ngũ CBCC có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước xây dựng Nhà nước phải đặc
biệt quan tâm đến công tác ĐTBD họ. Nhà nước phải có thái độ quan điểm đúng về
công tác ĐTCBCC. Nói cách khác, Nhà nước phải có chính sách ĐTBD CBCC hợp
lý, đủ mạnh. Nếu không có chính sách ĐTBD CBCC một cách đúng đắn, hợp lý và
đủ mạnh khó có thể đào tạo, xây dựng được đội ngũ CBCC có đủ trình độ, năng lực,
phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư, là mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển đất
nước cần phải có một đội ngũ CBCC tương thích, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
giai đoạn đó. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có thái độ, quan điểm, cách xử sự đối
với công tác ĐTBD CBCC phù hợp với giai đoạn đó. Chính sách ĐTBD CBCC
không phải là cái nhất thành bất biến, nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh hay ban hành
mới chính sách về ĐTBD CBCC là tất yếu khách quan, là nhiệm vụ thường xuyên
trong xây dựng đội ngũ CBCC.
13


Thứ năm, thực tế hiện nay chất lượng ĐTBD CBCC còn nhiều bất cập, hạn
chế. Một trong các nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó là do chưa có chính sách
ĐTBD CBCC hợp lý và đủ mạnh. Do đó, không có cách nào khác cần phải đổi mới
hoàn thiện chính sách ĐTBD xây dựng đội ngũ CBCC.
Thứ sáu, ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách đặt ra là cần phải khẩn trương đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng
cao trong đó có đội ngũ CBCC nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao” [28] là một trong ba đột phá chiến
lược trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Để
thực hiện khâu đột phá chiến lược này đương nhiên phải có quyết sách hay chính
sách đúng và đủ mạnh về công tác ĐTBD nguồn nhân lực có chất lượng cao trong
đội ngũ CBCC lãnh đạo quản lý.
Thứ bảy, vấn đề ĐTBD CBCC trở thành quan trọng, bức xúc và cấp bách đặt
ra hiện nay ngoài tình trạng do các hạn chế, bất cập hiện nay của đội ngũ CBCC, do
yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ CBCC đặt ra ngày một cao, ngày một nặng nề,
còn do yếu tố cạnh tranh quyết liệt về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, giữa khu vực công và khu
vực tư, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập quốc

tế. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu, hợp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác ĐTBD CBCC chúng ta khó có thể xây dựng được đội ngũ CBCC như mục
tiêu đề ra trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao.
Thứ tám, chất lượng, hiệu quả ĐTBD CBCC phụ thuộc vào nội dung, chương
trình, hình thức, phương pháp ĐTBD CBCC; phụ thuộc vào trình độ, năng lực của đội
ngũ giảng viên làm công tác ĐTBD CBCC. Để công tác này đạt được mục tiêu, yêu
cầu đặt ra Nhà nước phải có chính sách đầu tư kinh phí, thời gian... Vấn đề ĐTBD
CBCC chỉ có thể giải quyết thành công bằng chính sách của Nhà nước.
14


Tóm lại, từ các phân tích nêu trên cho thấy ĐTBD CBCC thực sự trở thành
vấn đề chính sách, và vấn đề này chỉ có thể giải quyết thành công bằng chính sách
của Nhà nước.
1.3. Mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
Mục tiêu của CSC nói chung là cái đích chủ thể chính sách hướng tới để giải
quyết nhằm đạt được kết quả xác định mục tiêu chung của chính sách ĐTBD CBCC
nhằm xây dựng đội ngũ CBCC có đủ trình độ, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Nội vụ đã tổ chức Hội
nghị tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg và triển khai Quyết
định số 1374/QĐ-TTg. Hội nghị đã thống nhất 5 nhiệm vụ, giải pháp triển khai,
thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-TTg, bao gồm:
Một là, các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương xây dựng và ban hành Kế
hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 - 2015. Kế hoạch cần xác định các mục tiêu và
giải pháp cụ thể, khả thi để triển khai, hoàn thành tốt mục tiêu đề ra.
Hai là, tiến hành ngay việc biên soạn mới hệ thống chương trình ĐTBD
CBCC, bảo đảm không trùng lặp và sát với yêu cầu nhiệm vụ của CBCC.
Ba là, Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc biên soạn các chương trình bồi

dưỡng theo nhu cầu công việc, vị trí việc làm được. Đây là giải pháp quan trọng
nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 - 2015.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ quy
định về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
lực lượng vũ trang nhân dân, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để tổ chức
các hoạt động ĐTBD.
Năm là, tổ chức xây dựng và đưa vào sử dụng bộ chỉ số đánh giá chất lượng
ĐTBD, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp, hoạt động nâng cao chất lượng ĐTBD.
Mục tiêu cụ thể chính sách ĐTBD CBCC là góp phần xây dựng đội ngũ
CBCC chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ, có đủ năng lực
phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
15


Bên cạnh mục tiêu trên, việc định hướng để trang bị, phát triển tri thức, nâng
cao khả năng làm việc sáng tạo, khả năng độc lập và khả năng làm việc tập thể, khả
năng tư duy khoa học của CBCC thì ĐTBD CBCC thông qua việc bồi dưỡng, trang
bị các kỹ năng cần thiết cho họ. Không có phương pháp làm việc khoa học và khả
năng thích ứng thì người học không thể đáp ứng được các tiêu chí của nguồn nhân
lực đảm bảo yêu cầu phát triển. Để có được nguồn nhân lực đảm bảo yêu cầu khả
năng đáp ứng với sự thay đổi nhanh của môi trường làm việc trong nước và quốc tế
là vấn đề rất quan trọng. Đây là điều kiện và cơ sở vững chắc cho hoạt động sáng
tạo của CBCC, nâng cao sự ảnh hưởng và vai trò của CBCC đối với quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất nước, địa phương, ngành, cơ
quan, đơn vị cũng như đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của mỗi chức danh, ngạch
công chức.
Để chính sách ĐTBD CBCC đạt kết quả thì phải dựa trên các nguyên tắc sau:
- ĐTBD phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, chức
vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng phát triển nguồn nhân lực của tổ chức đó.
- Bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng CBCC.

- Đảm bảo yêu cầu thực tế của đơn vị và như cầu công việc.
- Phối kết hợp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức ĐTBD.
- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ, công bằng của CBCC được tham gia ĐTBD.
- Đề cao vai trò tự học và quyền của CBCC trong việc lựa chọn chương trình
ĐTBD theo vị trí việc làm.
- Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả trong công tác ĐTBD.
1.4. Giải pháp, công cụ chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
1.4.1. Giải pháp chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Giải pháp chính sách công nói chung, giải pháp ĐTBD CBCC nói riêng là
cách thức chủ thể chính sách sử dụng tác động đến đối tượng chính sách để đạt
được mục tiêu chính sách. Giải pháp chính sách ĐTBD CBCC là cách thức Nhà
nước sử dụng để tác động đến công tác ĐTBD góp phần xây dựng đội ngũ CBCC
chuyên nghiệp vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng lực xây
16


dựng hệ thống chính trị Nhà nước pháp quyền XHCN tiên tiến, hiện đại. Để đạt
được mục tiêu chính sách cần phải sử dụng các giải pháp cụ thể sau:
Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
ĐTBD CBCC:
Để làm được điều này thì căn cứ vào số lượng và chất lượng đội ngũ
CBCBVC, tổ chức kiểm tra, rà soát thường xuyên trình độ, nghiệp vụ tổ chức đánh
giá phân loại đội ngũ CBCC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC làm cơ sở để
xây dựng kế hoạch ĐTBD CBCC.
Hai là, xác định nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức ĐTBD CBCC:
Chất lượng chương trình ĐTBD phụ thuộc rất lớn vào nội dung chương trình
một chương trình đủ tiêu chuẩn không chỉ về mặt lý luận mà còn sát với thực tiễn,
bổ sung kiến thức, kỹ năng xây dựng nội dung, chương trình ĐTBD CBCC phải
được thiết kế phù hợp với nhu cầu người học, nội dung, biên soạn mới các chương
trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch bảo đảm không trùng lặp, có kết cấu

hợp lý giữa lý thuyết và thực tiễn; kiến thức tiêu chuẩn ngạch với kỹ năng theo vị trí
việc làm. Phương pháp đào tạo theo hướng thiết thực, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế, có mục tiêu, chất lượng, khuyến khích CBCC tự học, tự đào tạo để nâng cao
trình độ. Chương trình đào tạo theo sát tiêu chuẩn và chức danh, ngạch, bậc công
chức, tuy nhiên cần đặc biệt quan tâm đặc điểm của từng ngành để có chương trình,
hình thức đào tạo phù hợp, chương trình không quá dài gây ảnh hưởng đến thời gian
công tác của CBCC.
Phương pháp, hình thức ĐTBD CBCC phải phù hợp bởi vì đặc điểm
CBCCVC đã được qua ĐTBD, có trình độ và hình thức khác nhau vì vậy phải lựa
chọn phương pháp, hình thức ĐTBD phù hợp nhằm tác động đến yếu tố đào tạo.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên chuyên trách
để giảng dạy, ĐTBD CBCC.
Chất lượng ĐTBD được quyết định từ đội ngũ giảng viên làm công tác
ĐTBD CBCC bao gồm giảng viên kiêm chức và giảng viên chuyên nghiệp tại các
cơ sở ĐTBD, có kế hoạch đào tạo phát triển đảm bảo cơ chế ngành nghề, bồi dưỡng
có kiến thức sâu rộng, có nhiều kinh nghiệm thực tế, nhất là đội ngũ giảng viên có
17


năng lực về nghiên cứu khoa học, pháp lý và quản lý nhà nước để cung cấp cho
người học những thông tin, kiến thức thiết thực. Tăng cường hoàn thiện các chế độ
chính sách, đầu tư kinh hợp lý để tạo cơ hội, thu hút, động viên đội ngũ giảng dạy
trong các các cơ sở ĐTBD CBCC để nâng cao công tác nghiên cứu, giảng dạy để họ
yên tâm công tác bởi vì đây là đối tượng trực tiếp truyền tải các kiến thức nâng cao
trình độ cho CBCC.
Bốn là, củng cố, kiện toàn các cơ sở ĐTBD CBCC.
Tăng cường hệ thống các cơ quan tham gia ĐTBD CBCC, đầu tư kinh phí
cho cơ sở vật chất và tăng cường các nguồn lực như trụ sở làm việc, trang thiết bị
ĐTBD cho các cơ sở ĐTBD CBCC tương ứng với việc áp dụng, sử dụng các
phương pháp trao đổi tích cực trong ĐTBD, số lượng học viên cho từng lớp học cần

xem xét giới hạn cho phù hợp góp phần không nhỏ đến việc thực thi chính sách
ĐTBD CBCC.
Năm là, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ĐTBD CBCC.
Để tăng cường hội nhập quốc tế phát triển nền công vụ, hành chính phải
thường xuyên trao đổi với các nước về nội dung chương trình, nguồn nhân lực để
nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC ngành Nội vụ nhằm giúp CBCC có được phương
pháp làm việc khoa học và có kỹ năng thích ứng nhanh với thay đổi môi trường làm việc
trong nước và quốc tế, có khả năng thích ứng, thích nghi tốt để hội nhập quốc tế. Đây
là cơ hội tạo động lực thúc đẩy cả người dạy và người học nâng cao kiến thức, kỹ
năng, phương pháp cần thiết, hiện đại trong quá trình hội nhập quốc tế.
Sáu là, đãi ngộ, trọng dụng, sử dụng CBCC sau khi được ĐTBD.
Tại điều 23 Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 3 năm
2010 quy định về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức quy
định “Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bao gồm: ngân sách nhà nước,
kinh phí của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức và tài trợ của tổ chức, cá
nhân nước ngoài”[23].
CBCC sau khi được tham gia các khóa ĐTBD trong nước và nước ngoài,
ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn bản thân mà còn phát triển năng lực của tổ
18


chức mạnh mẽ và đồng đều. Vì vậy các tổ chức cần bố trí, sử dụng CBCC một cách
hợp lý để họ có cơ hội thể hiện và khẳng định bản thân.
Bảy là, đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC.
Không nên coi nhẹ việc đánh giá, muốn biết tiêu chuẩn ĐTBD đạt hiệu quả,
đáp ứng hay không thì các bộ phận chịu trách nhiệm phải thường xuyên đánh giá,
thu thập thông tin phản hồi từ các khóa ĐTBD xem xét chất lượng, hiệu quả nhằm
đưa ra những quyết định điều chỉnh kịp thời và được thực hiện ở tất cả các khâu
trong quá trình đào tạo để xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng một cách
cụ thể và khách quan.

1.4.2. Công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Công cụ chính sách ĐTBD CBCC là tất cả các phượng tiện mà chủ thể chính
sách sử dụng để tác động lên đối tượng chính sách nhằm đạt được mục tiêu chính
sách. Công cụ chính sách ĐTBD CBCC bao gồm:
- Công cụ dựa vào quyền lực, luật pháp của Nhà nước:CSC là công cụ của
nhà lãnh đạo quản lý thì phải dựa vào luật pháp, đây là cơ sở để chính sách ĐTBD
cho CBCC đạt hiệu quả, dựa vào luật pháp để nâng cao hiệu quả công tác tranh tra,
kiểm tra, giám sát trong việc hoạch định, xây dựng, thực hiện, áp dụng cũng như
đánh giá chính sách ĐTBD CBCC.
- Công cụ dựa vào tổ chức: Thực hiện chính sách ĐTBD bằng hệ thống các
cơ sở ĐTBD CBCC, các cơ sở ĐTBD CBCC phải kiện toàn cơ sở vật chất để nâng
cao chất lượng ĐTBD CBCC hiện nay.
- Công cụ dựa vào tài chính: Đây là công cụ cần được cải thiện, Nhà nước
cần đầu tư các nguồn lực tài chính cho xây dựng nội dung, chương trình ĐTBD,
ĐTBD đội ngũ lãnh đạo, quản lý và cán bộ giảng dạy chuyên trách đưa ra các giải
pháp thực tế và có ý nghĩa thiết thực như cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp, cấp
kinh phí cho công tác ĐTBD.
- Công cụ dựa vào thông tin, tuyên truyền: Các cơ quan truyền thông như
báo đài, internet, truyền hình... có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của đội ngũ CBCC về ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc ĐTBD và chính sách ĐTBD.
19


1.5. Thể chế chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
Thể chế chính sách ĐTBD CBCC được hiểu là cơ sở pháp lý để hoạch định
xây dựng và thực hiện chính sách ĐTBD CBCC. Đó là các văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc Hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ trưởng. Cụ thể hóa như:
- Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về

đào tạo, bồi dưỡng công chức (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2010 và bãi bỏ
Chương III Nghị định số 54/2005/NĐ- CP ngày 19/4/2005);
- Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Bộ Tài
Chính quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách Nhà
nước dùng cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức;
- Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2011 quy định về việc
phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;
- Quyết định số 163/2006/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2016 - 2025;
- Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg ngày 06 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt đề án ĐTBD Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã giai đoạn 2006 - 2010;
- Thông tư số 11/2011/TT-BNV ngày 25 tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội vụ
về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05
tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức;
- Bộ Nội vụ - Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Quyết định 1347/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức giai đoạn 2011 – 2015;
- Bộ Nội vụ - Báo cáo số 2303/BC-BNV ngày 23/5/2016 báo cáo kết quả 5
năm thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-BNV và triển khai Quyết định số 163/QĐTTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025”.
20


Các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quản lý
như trên đã tạo thành cơ sở pháp lý khá đầy đủ để hoạch định, xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách ĐTBD CBCC. Để chính sách ĐTBD CBCC có hiệu lực, hiệu
quả khi xây dựng chính sách cần khai thác triệt để các quy định trong thể chế về
ĐTBD CBCC.

1.6. Chủ thể chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
Chính sách là công cụ được Nhà nước ban hành để điều hành, quản lý mọi
hoạt động kinh tế - xã hội. Các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước bao
gồm: Quốc hội ban hành hiến pháp, luật pháp; Chính phủ ban hành Nghị định
hướng dẫn luật, Thủ tướng Chính phủ bạn hành Quyết định, các Bộ, Ngành ban
hành Thông tư, thông tư liên tịch để hướng dẫn thi hành Nghị định, UBND ban
hành chỉ thị, quyết định.
Ngoài ra, chủ thể ban hành chính sách ĐTBD CBCC còn có UBND các Bộ,
ngành, địa phương cũng cụ thể hóa các chính sách ĐTBD cho phù hợp với tình
hình, phạm vi, đối tượng từng Bộ ngành, cụ thể như: Bộ Nội vụ ban hành Quyết
định số 104/2015/QĐ-BNV ngày 3/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban
hành Quy chế cử cán bộ, công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng
ngân sách Nhà nước.
Các chủ thể tham gia xây dựng chính sách ĐTBD CBCC bao gồm: Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân, CBCC, giảng
viên trực tiếp tham gia ĐTBD CBCC, cán bộ quản lý các cơ sở ĐTBD, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông và
người dân .
Chính sách ĐTBD ra đời đã chứa đựng trong nó mối quan hệ của các Bộ,
Ngành, các bên liên quan. Bởi muốn ĐTBD phải có đối tượng thụ hưởng chính
sách, hay nói cách khác là muốn ĐTBD thì phải có đội ngũ CBCC. Bộ Nội vụ là cơ
quan quản lý đối với CBCC. CBCC được đi học thì phải được cấp kinh phí từ ngân
sách Nhà nước do Bộ Tài chính. Căn cứ vào tình hình thực cụ thể của từng Bộ,
Ngành, địa phương. Bộ Tài chính sẽ quy định nguồn kinh phí một cách phù hợp.
Ngoài ra các Bộ, Ngành, các cơ quan hữu quan, ngân hành, kho bạc Nhà nước cũng
21


×