VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HUY HOÀNG
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Hà Nội, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HUY HOÀNG
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng từ thực tiễn trong công
tác, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Huy Hoàng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ............................................. 7
1.1. Một số khái niệm liên quan ........................................................................ 7
1.2. Nhận thức về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ............. 11
1.3. Quan điểm của Đảng về thể chế về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ........................................................................................................ 28
1.4. Bài học kinh nghiệm của một số nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức 31
1.5 Chính sách Đào tạo bồi dưỡng ở thành phố Hà Nội ................................. 36
Chương 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 39
2.1. Khái quát chung về huyện Chương mỹ, thành phố Hà Nội ..................... 39
2.2.Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội ............................................................................................ 41
2.3. Tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội ......................................................................... 55
Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TẠI HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 60
3.1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội .............................................. 60
3.2. Các kiến nghị, đề xuất cụ thể ................................................................... 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CBCC
Cán bộ công chức
ĐTBD
Đào tạo bồi dưỡng
HĐND - UBND
Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa ông cha ta đã khẳng định “Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước thịnh mà càng lên cao; nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà càng xuống thấp.Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có
đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm
nguyên khí.”[Thân Nhân Trung (1419-1499)].
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc, đội
ngũ những người lãnh đạo, cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định
thành bại hưng vong của một quốc gia, chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Cán bộ là gốc của mọi vấn đề, gốc có tốt thì ngọn mới tốt”. Người cán bộ
phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, là “Công bộc” của dân hết lòng phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân. Điều 2 - Hiến pháp năm 2013 quy định:“ Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”[26]
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nâng cao chất lượng đội ngũ Cán
bộ, Công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng,
quyết định đến sự phát triển nền Hành chính đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được có không ít những tồn tại trong công tác tác đào
tạo, bồi dưỡng vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, một bộ phận cán
bộ, công chức còn bộc lộ sự yếu kém về năng lực, thoái hóa biến chất về
phẩm chất đạo đức, lối sống. Nguyên nhân là do chưa có chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ, công chức hợp lý và đủ mạnh.
Nhận thức được vị trí vài trò và tầm quan trọng của công tác ĐTBD
CBCC Đảng ủy, HĐND - UBND huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội đã
lãnh đạo, chỉ đạo và đặc biệt quan tâm đến công tác cải cách hành chính nói
chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng nhằm xây dựng
1
đội ngũ CBCC có đủ năng lực, phẩm chất trình độ chuyên môn, cũng như
trình độ lý luận nhằm góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của Huyện đã đặt ra.Tuy nhiên, việc thực hiện công tác ĐTBD
CBCC của huyện vẫn còn những khó khăn, hạn chế, chưa bám sát yêu cầu
thực tiễn và chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công việc.Điều kiện cơ sở vật
chất, nguồn kinh phí dành cho công tác ĐTBD còn gặp nhiều khó khăn, còn
thiếu.Thậm chí có một số khóa ĐTBD tại huyện thì chính các CBCC tham gia
phải tự bỏ kinh phí.
Từ tình hình thực tiễn và những yêu cầu, nhiệm vụ mới cần đòi hỏi
phải có đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị,
đạo đức đáp ứng yêu cầu mới đặt ra. CBCC của huyện Chương Mỹ - thành
phố Hà Nội trong những năm qua về cơ bản đã được qua đào tạo, bồi dưỡng
nhưng do điều kiện thực tế tại huyện còn gặp nhiều khó khăn, chính đội ngũ
CBCC còn nhận thức chưa đầy đủ, tư tưởng tâm lý coi nhẹ vấn đề ĐTBD.
Trong thực thi các nhiệm vụ còn gặp nhiều hạn chế.Một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng CBCC đó là sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo
Huyện về ĐTBD CBCC còn chưa được sát sao, thỏa đáng.Chưa nhận thức
một cách đúng đắn, đầy đủ.Cho nên trong thời gian tới Huyện ủy, UBND
huyện Chương Mỹ cần phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ,
công chức một cách bài bản, khoa học.
Từ những phân tích trên, học viên lựa chọn đề tài nghiên cứu “Chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội” để làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách
công là hết sức cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được nhiều cá nhân và
tổ chức nghiên cứu, có thể kể đến một số công trình, tài liệu nghiên cứu như:
2
- GS.TS Nguyễn Hữu Khiển “Tìm hiểu về hành chính nhà nước” , Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 1999 và NXB lao động Hà Nội, 2003;
- Văn Tất Thu (1996), “Đổi mới công tác cán bộ, công chức theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII”.Tạp chí Tổ chức Nhà nước, tháng
5 – 1946.
- Phạm Văn Hùng - Nguyễn Hữu Khiển “Hành chính nhà nước”, Nhà
xuất bản Đại học sư phạm TP HCM, 2006.
-“Nhận thức căn bản về Chính sách công” GS.TS Nguyễn Hữu Khiển,
Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 07 năm 2015;
- “Công tác Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức từ góc nhìn thực
tiễn”, GS.TS Nguyễn Hữu Hải,Lê Thị Hương / Quản lý nhà nước, Học viện
Hành chính 2008, số 155, tr24-27;
- Ngô Thị Minh Phú (2011), “Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn
nhân lực hành chính nhà nước quận Tây Hồ Thành phố Hà Nội”, Luận văn
thạc sỹ quản lý hành chính công;
- Luận văn thạc sỹ “ Cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động của
UBND quận 5, TP. Hồ Chí Minh”, GS.TS Nguyễn Hữu Khiển, Vương Hoàng
Tuấn, Học Viện Hành chính quốc gia, 2000;
- Đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mời của
PGS.TS Trần Khắc Việt, Tạp chí Nhịp cầu tri thức số 6 - tháng 6/2013.
- Đỗ Thị Thu Hằng (2014), “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp
xã trong giai đoạn hiện nay” luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công.
- Văn Tất Thu (2014), “Những yêu cầu trong đổi mới nội dung và
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.”.Tạp chí
quản lý Nhà nước số 222 - tháng 7/2014.
3
- Nguyễn Thị La (2015) - Học Viện Hành chính quốc gia “Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức trong quá trình cải cách hành chính”. Tạp chí cộng
sản (tháng 9/2015),
- Báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chứchàng năm của
UBND Huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, Thành phố
Hà Nội.Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” với mong
muốn góp phần hoạch định xây dựng chính sách và đưa vào thực thi có hiệu
quả tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề nhận thức về chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức và thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, hệ thống những nhận thức về chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
- Vận dụng lý thuyết về chính sách công để nghiên cứu chính sách
ĐTBD CBCC từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách ĐTBD CBCC. Thực trạng
tổ chức ĐTBD CBCC tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; chỉ ra những
ưu điểm, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của tồn tại hạn chế. Đồng thời, rút ra
một số bài học kinh nghiệm hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
4
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách ĐTBD CBCC tại huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách ĐTBD CBCC huyện Chương Mỹ,
Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Đề tài tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ 2011 - 2016.
+ Không gian nghiên cứu: Tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng cách tiếp cận theo hệ thống, đa ngành, liên ngành về khoa
học xã hội, tiếp cận dựa trên phương pháp nghiên cứu quy phạm về chu trình
thực thi và đánh giá chính sách công. Những đánh giá, nhận thức về chính
sách công được soi chiếu vào môi trường thực tiễn thông qua nghiên cứu một
chính sách cụ thể giúp hình thành nhận thức về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Có nhiều phương pháp để nghiên cứu, do đặc thù của đề tài và đặc thù
của chính sách nên tôi đã lựa chọn các phương pháp sau để nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin về tổ chức qua
nhiều phương tiện như: trên mạng internet; báo cáo tổng kết của phòng Nội
vụ huyện Chương Mỹ; Quy định pháp luật về cán bộ, công chức, các Quyết
định,Nghị Định, Thông Tư ...và tham khảo một số giáo trình khác.
Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp
được áp dụng nhiều nhất trong quá trình viết luận văn. Qua đó xây dựng và
thực hiện chính sách một cách chính xác, hiệu quả nhất.
5
Phương pháp đánh giá: Đánh giá quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở huyện ChươngMỹ giai đoạn 2011 - 2016 để thấy được những gì
đã đạt được và những gì chưa đạt được trong thời gian qua, nêu nguyên nhân
và đề ra những giải pháp nhằm khắc phục.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa về nhận thức: Góp phần bổ sung, hoàn thiện nhận thức về chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ , công chức nói chung, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội nói riêng;
hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC.
- Ý nghĩa thực tiễn đối với huyện Chương Mỹ: Đề xuất các giải pháp
có tính khả thi cao, bám sát thực tiễn nhằm giúp lãnh đạo UBND huyện
Chương Mỹ điều chỉnh, hoàn thiện chính sách ĐTBD CBCC của huyện đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu
giảng dạy môn học chính sách công trong các trường Học viện, Đại học và
các trường ĐTBD CBCC.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ cái viết tắt,
danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục theo 3 chương như sau:
Chương 1: Những nhận thức cơ bản về chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức.
Chương 2: Thực trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
6
Chương 1
NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm chính sách
Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến tuy nhiên cho
đến nay mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về chính sách và có nhiều cách tiếp
cân khác nhau nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm chính sách.
Trên thế giới có thể kể đến một số khái niệm về chính sách như : Chính sách
là một quá trình hoạt động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể
trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm ( James Anderson1984) hay
“Chính sách là những gì mà chính phủ làm, lý do làm, và sự khác biệt mà nó
tạo ra (Dye 1972)... Tại Việt Nam Từ điển bách khoa Việt Nam đưa ra khái
niệm Chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”[19]
Theo cách hiểu thông thường, chính sách là: “Chủ trương và các biện
pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội.
Theo điểm 1, Điều 2 của Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016
của chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật: “ Chính sách là định hướng, giải pháp của
nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất
định”[9].
Như vậy có thể đưa ra cách hiểu chính sách là chương trình hành động
do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó
trong phạm vi thẩm quyền của mình. Các tổ chức, doanh nghiệp, các đoàn thể
7
đều có thể có những chính sách riêng của mình để giải quyết các vẫn đề trong
quá trình hoạt động, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó, do đó có
thể được coi là những “chính sách tư”. Mặc dù được sử dụng rộng rãi (Chính
sách đào tạo nhân viên, Chính sách mở rộng thị trường kinh doanh; Chính
sách cạnh tranh...) nhưng chính sách tư hầu như không được đề cấp đến và
được nghiên cứu với tư cách là một ngành khoa học.
Một chính sách được ban hành thể hiện ý chí, quan điểm của chủ thể
ban hành chính sách, đòi hỏi đối tượng thực hiện chính sách phải thực hiện
chính sách đó một cách đầy đủ, chính xác nhằm thực hiện những mục tiêu đã
định trước.
1.1.2. Khái niệm Chính sách công
Trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều quan niệm về chính sách
công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
“Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn
các mục tiêu và giải pháp để đạt được mục tiêu đó” - ( William Jenkin, 1978).
Như vậy, William Jenkin cho rằng chính sách công không phải là một quyết
định đơn lẻ nào đó mà là một tập hợp hợp các quyết định có liên quan đến
nhau trong một khoảng thời gian dài, chủ thể ban hành chính sách công phải
là cơ quan nhà nước và chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định
theo mong muốn của nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục
tiêu đã chọn. Còn theo Thomas R.Dye đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn là
“Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm”- (Dye
1992) trong định nghĩa này thì Ông không bàn luận “mục tiêu” hay “ mục
đích” của chính sách, đông thời định nghĩa của Dye cũng thừa nhận rằng các
chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm của chính phủ. Chính
sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành, chính sách
8
có thể vừa là hành động riêng biệt của chính phủ vừa là kết quả của hàng loạt
quyết định đa dạng, chính sách công là một quá trình hành động hoặc không
hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết
hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách
chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng
thực hiện những chương trình.
Ở nước ta theo PGS.TS Lê Chi Mai đưa ra định nghĩa chính sách công
với các nội hàm như sau:
+ Chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước, chính sách do nhà
nước ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của nhà nước.
+ Chính sách công là những quyết định hành động , bao gồm cả những
hành vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà nước
hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm các hành vi
thực hiện dự định đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được
những kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là lý thuyết.
+ Chính sách công tập trung giả quyết một vấn đề trong đời sống kinh
tế - xã hội theo những mục tiêu xác định.
Trong giáo trình “ Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học
viện Hành chính quốc gia xuất bản năm 2013 đưa ra định nghĩa “ Chính sách
công là những hành động ứng xử của nhà nước với các vẫn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[17,tr50]
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Hải (Học viện Hành chính quốc gia) đưa ra
định nghĩa: “ Chính sách công là những hành động ứng xử của nhà nước với
các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”, theo định nghĩa này
9
thì mục đích của chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định
hướng, chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề công.
Còn theo PGS.TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái
niệm:“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của Đảng và nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực
hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định[14,tr20]
Các khái niệm, định nghĩa của học giả, các nhà khoa học về chính sách
công có sự khác nhau trong chừng mực nhất định nhưng đều có chung các nội
hàm sau:
+ Chính sách công là chính sách của nhà nước
+ Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau
+ Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề
xã hội theo ý chí của Đảng cầm quyền.
Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước thông qua các cơ quan
quyền lực (Quốc hội, Chính phủ), các Bộ ngành thực hiện chức năng quản lý
nhà nước. Chính sách công được biểu hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau:
Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định. Mục đích là
để phát triển và quản lý sự phát triển của xã hội. Cấu trúc của một chính sách
gồm 3 bộ phận:
+ Những đường hướng hành động ứng xử là quan điểm và định hướng.
+ Biện pháp thực hiện chính sách, các công cụ của chính sách.
+ Mục tiêu mà chính sách hướng tới.
Chính sách công thể hiện ý chí, quan điểm, chủ trương đường lối của
chủ thể ban hành chính sách, bao gồm các quyết định, định hướng chỉ đạo của
chủ thể ban hành có liên quan, tác động lẫn nhau. Trong chính sách đó cũng
phải nêu ra được những biện pháp, các công cụ và đặc biệt phải có mục tiêu
10
mà chính sách đó hướng đến, trả lời những câu hỏi mục tiêu chính sách là gì?
Giải pháp thực hiện chính sách như thế nào?...
1.2. Nhận thức về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.2.1. Khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 khái niệm cán bộ công chức
được quy định như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Khái niệm Đào tạo được hiểu là công việc trang bị những phẩm chất,
kiến thức, kỹ năng cơ bản, có hệ thống cho người học, để sau một khoá học
(dài hạn hoặc ngắn hạn) người học đạt được trình độ một cấp học cao hơn.
11
Khái niệm Bồi dưỡng được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một
số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ
bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng...
Về chính sách ĐTBD CBCC thì Đào tạo được hiểu là “quá trình tác
động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức,
kỹ năng kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định”.
Đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người ta “trở thành người có
năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, còn bồi dưỡng được xác định là
quá trình làm cho người ta “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”.
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học và Bồi dưỡng là hoạt động
trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc
Như vậy, theo quan điểm của chính sách công có thể đưa ra khái niệm:
“Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tổng thể những quan
điểm, thái độ, quyết định, quy định của Nhà nước với các giải pháp, công cụ
cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”.
1.2.2. Vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
* Vai trò của cán bộ, công chức trong nền hành chính quốc gia
CBCC là lực lượng thực thi pháp luật của Nhà nước để quản lý các lĩnh
vực của đời sống xã hội, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thể hiện đường lối của
giai cấp cầm quyền. Khác với các nước tư sản,CBCC trong các nhà nước
XHCN trước đây và ở nước ta hiện nay đóng vai trò quan trọng trong việc
duy trì trật tự, kỷ cương Nhà nước và bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân.
Đội ngũ CBCC có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống, quản
12
lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với mục tiêu
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng; cán bộ có
vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới;
cán bộ nói chung có vai trò quan trọng, cán bộ chính quyền cơ sở nói riêng có
vị trí chính trị cơ sở.
Đào tạo, bồi dưỡng có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác
cán bộ. Có đào tạo, bồi dưỡng thì năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của cán bộ công chức mới được nâng cao, giúp cập nhật những chủ trương
chính sách, cũng như những thông tin kịp thời phục vụ cho công việc. Các
cấp các ngành cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức để có sự đầu tư thỏa đáng, kịp thời nhằm nâng cao
trình độ cho cán bộ, công chức.
Nhận thức rõ được vị trí vai trò của CBCC Đảng ta luôn khẳng định
tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức. Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả
của nền hành chính trên các lĩnh vực thì nhất thiết phải xây dựng được đội
ngũ cán bộ, công chức giỏi về chuyên môn, kinh nghiệm, có phẩm chất chính
trị và cách mạng vững vàng, hiểu biết về quản lý hành chính, làm chủ được
trang thiết bị phục vụ cho công việc, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở
nước ta hiện nay.
* Vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Chính sách là do con người tạo ra, nhưng đồng thời chính sách lại tác
động mạnh mẽ đến hoạt động của con người. Chính sách có thể mở đường, là
động lực thúc đẩy tính tích cực, khả năng sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của
mỗi con người nhưng cũng có thể kìm hãm những hoạt động, làm thui chột tài
năng, sáng tạo của họ.
13
Nhà nước ta có rất nhiều chính sách Đào tạo bồi dưỡng như: Chính
sách ĐTBD nguồn nhân lực, Chính sách ĐTBD viên chức và không thể
không kể đến đó là chính sách ĐTBD CBCC bởi vì đội ngũ CBCC giữ vai trò
quyết định trong hoạt động của nền hành chính quốc gia.
Vấn đề ĐTBD CBCC là một vấn đề quan trọng, gây bức xúc và cấp
bách trong các giai đoạn từ đổi mới cho đến tận ngày nay và cần phải được
giải quyết bằng chính sách của Nhà nước, bởi các lý do sau:
+ Do vị trí tầm quan trọng của đội ngũ CBCC trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt trong những thời kỳ bắt đầu đổi mới thì
vấn đề ĐTBD CBCC ngày càng trở nên quan trọng, cấp bách vì thời kỳ này
đất nước còn khó khăn về kinh tế do ảnh hưởng của cơ chế bao cấp nhà nước,
đội ngũ CBCC còn yếu kém, hạn chế về năng lực trình độ chuyên môn do đó
còn gặp nhiều khó khăn trong thực thi công vụ.
Trong thời kỳ hiện nay đất nước ta đang hội nhập Quốc tế ngày càng
sâu rộng, thì đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm, có quan điểm, thái độ và cách
xử sự đúng mực về công tác ĐTBD CBCC. Hay nói một cách khác, Nhà nước
phải có chính sách đúng đắn, hợp lý và kịp thời cho công tác ĐTBD xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
+ Mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước cần phải có đội ngũ
CBCC tương thích đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ các giai đoạn đó. Nước ta đang
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra trên các lĩnh vực. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải
có chính sách ĐTBD CBCC phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn hiện
nay. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách
ĐTBD CBCC và ban hành thực thi trong đời sống là tất yếu khách quan.
+ Thực tế cho thấy công tác ĐTBD CBCC hiện nay còn nhiều bất cập,
hạn chế ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ CBCC, phần đông đội
14
ngũ CBCC chưa đáp ứng được so với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã
hội.Một trong những nguyên nhân đó là chưa có chính sách về ĐTBD CBCC
hợp lý và đủ mạnh.
+ Ngày nay, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế cần phải đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong
đó có đội ngũ CBCC, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
từ nay đến năm 2020. Để thực hiện thành công khâu đột phá chiến lược này
cũng cần phải có chính sách ĐTBD CBCC đúng, hợp lý và đủ mạnh đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ nước ta trong thời kỳ mới.
Từ các lý do nêu trên đã luận giải vấn đề ĐTBD CBCC phải được giải
quyết bằng chính sách. Thực tế ĐTBD CBCC ở nước ta hiện nay đã trở thành
một chính sách quan trọng và đã được ghi nhận trong Luật cán bộ, công chức
năm 2008, và trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các
Bộ, ngành.
1.2.3. Các đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
* Đối tượng trực tiếp
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng việc xây dựng được đội ngũ
cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên. Vì thế, đối tượng trực tiếp được thụ
hưởng của chính sách đào ĐTBD CBCC bao gồm tất cả các cán bộ, công
chức đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và Đoàn thể từ cấp
trung ương đến địa phương nằm trong biên chế nhà nước, trong đó có cán bộ,
công chức của huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội.
* Đối tượng gián tiếp
Ngoài những đối tượng trực tiếp thụ hưởng chính sách ĐTBD CBCC
còn có một phần không nhỏ các đối tượng gián tiếp thụ hưởng chính sách này.
Các đối tượng này không nằm trong phạm vi trực tiếp quản lý của chính sách
15
mà chính là những đối tượng có liên quan. Đó chính là đội ngũ giáo viên tham
gia chương trình đào tạo, bồi dưỡng là đối tượng gián tiếp thụ hưởng chính
sách ĐTBD CBCC.
Trong chính sách thì chế độ ưu đãi, chế độ đãi ngộ và các khoản kinh
phí đầu tư cho đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy ĐTBD là không nhỏ.
Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐTBD CBCC.
Khoản 2, Điều 18 - Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010
quy định về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức quy định:
“Giảng viên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
được hưởng chế độ, chính sách như giảng viên đại học”.[8]
Bên cạnh đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ sở ĐTBD
cũng có vai trò rất quan trọng trong việc thực thi chính sách. Họ là những
người trực tiếp quản lý đội ngũ học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng;
nắm vững những khó khăn, thuận lợi của từng học viên trong quá trình
ĐTBD. Đồng thời, họ là nơi để học viên trao đổi, phản ánh, đóng góp ý kiến
về chương trình, phương pháp giảng dạy của giáo viên và các điều kiện về cơ
sở vật chất.
1.2.4. Mục tiêu, nguyên tắc của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
* Mục tiêu
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là các bộ lãnh đạo và quản lý ở các
cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức trong sáng về lối sống, có
trí tuệ, kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Mục tiêu ĐTBD CBCC là nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ, công
chức có bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, có phẩm chất và đạo đức cách
mạng trong sáng, tác phong làm việc khoa học, hiệu quả. Đáp ứng việc kiện
16
toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, đảm bảo hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy quản lý Nhà nước và chất lượng hoạt động của các đoàn thể.
Chính sách ĐTBD CBCC được đưa vào thực thi trong đời sống không
chỉ khắc phục những hụt hẫng về năng lực công tác của cán bộ, công chức mà
còn liên quan đến việc xác định và thỏa mãn các nhu cầu phát triển khác như:
Phát triển đa kỹ năng, tăng cường năng lực làm vịêc để cán bộ đảm nhận thêm
trách nhiệm, tăng cường năng lực công tác và chuẩn bị cho đề bạt, bổ nhiệm
lên vị trí cao hơn với trách nhiệm nặng nề hơn trong tương lai của CBCC.
Tóm lại có thể phân thành ba mục tiêu cơ bản của chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức là:
- ĐTBD nhằm nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo
đức, rèn luyện vững vàng tư tưởng chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, chức
danh CBCC đã được quy định.
- ĐTBD nhằm giúp cá nhân và tổ chức đáp ứng những yêu cầu của
trong thời kỳ đổi mới, hội nhập của quốc tế.
- ĐTBD nhằm giúp CBCC hướng đến nền Hành chính phục vụ nhân
dân một cách tốt nhất.
* Nguyên tắc
- ĐTBD phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công
chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị.
- Bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức
trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
- Đảm bảo yêu cầu từ thực tế địa phương, nhu cầu công việc.
- Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức ĐTBD.
- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ, tính công bằng của CBCC được tham gia
ĐTBD
17
- Đề cao vai trò tự học và quyền của công chức trong việc lựa chọn
chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm.
- Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
1.2.5. Các giải pháp, công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức
* Các giải pháp
Một chính sách ĐTBD được đánh giá là tốt, là phù hợp và có tính khả thi
cao khi hội tụ đầy đủ các yếu tố sau: Đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, số
lượng học viên và nguồn kinh phí. Trong 4 nhân tố trên thì kinh phí được coi là
yếu tố cuối cùng quyết định đến việc triển khai áp dụng chương trình đào tạo.
Điều 23 - Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của chính phủ ngày 05 tháng 3
năm 2010 quy định về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức quy
định: “Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm: ngân sách nhà nước,
kinh phí của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cử công chức, của công chức và
tài trợ của tổ chức, cá nhân nước ngoài”[8]. Cụ thể:
- Đầu tư kinh phí xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2009), Kết luận số 37-KL/TW ngày
02 tháng 02 năm 2009 của Hội nghị lần thứ 9 (Khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 cũng đã chỉ rõ: “Đổi mới
phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực
thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong
hoạt động của các cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu
của nhân dân, doanh nghiệp…”[1,Tr5]
18
Đầu tư kinh phí xây dựng chương trình ĐTBD CBCC cần phải được
thiết kế phù hợp với nhu cầu người học là các cán bộ, công chức; nội dung
phải sát thực đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực làm việc, nhất là chú trọng
việc bồi dưỡng những kỹ năng cụ thể cho mỗi loại đối tượng cán bộ, công
chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng; thời gian cho mỗi khóa ĐTBD phải hợp lý,
không quá dài gây ảnh hưởng đến thời gian cho công việc của CBCC.
- Đầu tư kinh phí xây dựng đội ngũ giáo viên làm công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Đối với đội ngũ giáo viên, cần xác định quy định về những tiêu chuẩn
cụ thể, giáo viên kiêm chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Tăng cường biên chế, đảm bảo chất lượng biên chế cho các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức; xây dựng bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính
sách, đầu tư kinh phí hợp lý đối với đội ngũ giáo viên, tạo ra cơ chế thu hút
những người có trình độ, năng lực, nhiệt tình bổ sung cho đội ngũ giảng dạy
trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Trên cơ sở giáo viên hiện có cần tiến hành đánh giá phân loại để có kế
hoạch đào tạo phát triển đảm bảo cơ cấu ngành nghề, khuyến khích thu hút
người có học vấn cao có khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo. Đào tạo nghiệp
vụ sư phạm và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề để bổ sung giáo viên cho
các trung tâm chưa đủ giáo viên và cơ cấu.
- Đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất ĐTBD CBCC
Cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy là những công cụ cơ bản có ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Nó bao gồm các
yếu tố như: Diện tích mặt bằng, ánh sáng, hội trường, phòng học, phòng thư
viện, ký túc xá, phòng làm việc, và các khu sinh hoạt khác phục vụ cho hoạt
động học tập và giảng dạy.
Trong xu thế đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
19
người ta quan tâm nhiều hơn đến việc trang bị các phương tiện giảng dạy hiện
đại, các phương tiện nghe nhìn, trang bị phục vụ như máy chiếu, máy quay
video, bàn ghế, các thiết bị âm thanh phục vụ cho việc thực hành giáo án điện
tử cũng như áp dụng các phương pháp sư phạm hành chính khác như thảo
luận nhóm, thuyết trình.
Chính vì vậy, việc đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cũng là biện
pháp góp phần không nhỏ đến việc thực thi có hiệu quả chinh sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta. Việc đầu tư kinh phí sẽ làm
tăng nhanh hiệu quả đào tạo khi điều kiện về cơ sở vật chất được đảm bảo thì
việc đào tạo sẽ được rút ngắn, tâm lý giảng viên, học viên thoải mái, yên tâm
tập chung chuyên môn.
* Công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
+ Công cụ dựa vào quyền lực
Nâng cao hiệu quả, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về
việc xây dựng, thực hiện chính sách ĐTBD CBCC.
+ Công cụ dựa vào tổ chức
Thực hiện việc ĐTBD CBCC đảm bảo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được giao và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách ĐTBD CBCC để phù
hợp với thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước giai đoạn hiện nay.
+ Công cụ dựa vào tài chính
Cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp đối với CBCC. Tăng cường bố trí,
đảm bảo ngân sách cho công tác ĐTBD CBCC.
+ Công cụ dựa vào thông tin, tuyên truyền
Các cơ quan truyền thông có tránh nhiệm phổ biến tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với công tác ĐTBD CBCC để
đông đảo quần chúng nhân dân biết và hiểu rõ hơn về chính sách này.
20