Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Quan hệ việt nam và anh quốc về các lĩnh vực văn hóa – xã hội, khoa học – kĩ thuật và an ninh quốc phòng trong những năm đầu thế kỉ 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.68 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................7
1. Khái quát chung về quan hệ giữa Việt Nam và Anh Quốc.....................7
2. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Văn hóa – Xã hội từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay..........................................................10
2.1. Các hoạt động chính..............................................................................10
2.2. Đánh giá các hoạt động.........................................................................16
2.3. Bài học kinh nghiệm.............................................................................19
3. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Khoa học – Kĩ thuật từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay..........................................................22
3.1. Các hoạt động chính..............................................................................22
3.2. Đánh giá các hoạt động.........................................................................27
3.3. Bài học kinh nghiệm.............................................................................29
4. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực An ninh Quốc phòng từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay..........................................................31
4.1. Các hoạt động chính..............................................................................31
4.2. Đánh giá các hoạt động.........................................................................35
4.3. Bài học kinh nghiệm.............................................................................36
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................41

1


PHÂN MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm chống lại thế lực thù địch
luôn sục sôi ý đồ xâm chiếm dân tộc ta. Do vậy, tổ tiên ta luôn chủ động trong
việc giữ nước. Ngoài sử dụng biện pháp đấu tranh quân sự, dân tộc ta cũng vô
cùng khéo léo trong việc kết hợp cả đấu tranh bằng phương pháp ngoại giao
tài tình. Nhờ những chính sách ngoại giao khéo léo đó của tổ tiên ta đã góp


phần quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước, cũng như để lại cho
thế hệ chúng ta nhiều bài học vô cùng quý giá.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại ra đời từ cuộc Cách mạng tháng Tám 1945,
khi nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công – nông đầu tiên
của Đông Nam Á được thành lập. Đó là nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh,
với tính dân tộc và cách mạng, kế thừa truyền thống ngoại giao của cha ông
ta, đồng thời mang dấu ấn đặc trưng của thời đại mới. Trải qua những chặng
đường lịch sử, ngoại giao Việt Nam từng bước được xây dựng, phát tiển và
trưởng thành vững chắc, trở thành một binh chủng hợp thành của Cách mạng
Việt Nam, một vũ khí sắc bén, tin cậy của Đảng và nhân dân ta. Trong điều
kiện giao lưu và hội nhập hiện nay, không một quốc gia nào tồn tại biệt lập lại
có thể phát triển được. Việt Nam đã chủ động tham gia hội nhập quốc tế, đã
tạo dựng cho mình một vị thế mới trên thế giới.
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đã có quan hệ ngoại
giao với hơn 187 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường
với tấc cả các nước lớn. Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao,
Việt Nam đã tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Vương Quốc
Liên Hiệp Anh và Bắc Ireland năm 2010. Tuy Việt Nam và Vương Quốc Anh
đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973 nhưng phải đến những năm giữa
thập kỷ 90 mối quan hệ mới chính thức có những biến đổi tích cực. Từ sau đó,
mối quan hệ giữa Việt Nam và Vương Quốc Anh đã có những cải thiện đáng
2


kể, các chính sách đối ngoại tăng cường hợp tác giữa hai bên được thiết lập
trên tất cả mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…
Với đề tài tìm hiểu về Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về các lĩnh vực
Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kĩ thuật và An ninh Quốc phòng trong những
năm đầu thế kỉ 21, là một trong những vấn đề thiết yếu trong thời đại hợp tác
quốc tế ngày nay, do vậy mà đây sẽ là một đề tài mang một tầm quan trọng

lớn.
Về lí do chọn đề tài
Thứ nhất, sau cuộc trưng cầu dân ý, hơn một nửa người dân Liên hiệp
Vương Quốc Anh và Bắc Ireland đã chọn rời khỏi khối Liên minh Châu Âu
sau 43 năm gắn bó. Sự kiện Brexit ngay lập tức gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế, chính trị và quân sự cho cả Anh, EU cũng như toàn thế giới.
Do vậy, EU sẽ có những trừng phạt riêng dành cho nước Anh. Trong đó, chắc
chắn sẽ có những trừng phạt như “cắt đứt” hoàn toàn mối quan hệ với Anh, sẽ
không có bất cứ một chính sách hợp tác nào cả. Cho nên, Anh sẽ tích cực
chuyển hướng hợp tác sang khu vực Châu Á – một khu vực được cho là năng
động nhất hiện nay, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này, sẽ
giúp có thêm cái nhìn tổng quát hơn về mối quan hệ giữa Việt Nam và Anh
Quốc từ ngay những ngày đầu thiết lập mối quan hệ cho đến ngày nay, đặc
biệt là trên các lĩnh vực Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kĩ thuật và An ninh
Quốc phòng.
Thứ hai, các lĩnh vực Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kĩ thuật và An ninh
Quốc phòng được nhắc ở trên là một trong những lĩnh vực rất quan trọng của
một quốc gia. Đặc biệt, trong quá trình giao lưu và hợp tác song phương, trên
các lĩnh vực này là những cách để cùng nhau phát triển và quan trọng hơn là
xây dựng mối quan hệ song phương toàn diện. Văn hóa – Xã hội của mỗi
quốc gia sẽ mang những nét đặc trưng riêng, do vậy, trao đổi và giao lưu văn
3


hóa các quốc gia với nhau sẽ giúp có thêm hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tình
cảm giữa các bên hơn và cũng sẽ học được thêm nhiều kiến thức bổ ich. Khoa
học – Kĩ thuật cũng là một trong lĩnh vực quan trọng. Việt Nam ta về những
thành tựu khoa học – kĩ thuật thì không gặt hái được nhiều, ngược lại, so với
Anh Quốc – một đất nước phát triển trên mọi phương diện, chúng ta sẽ rút ra
được nhiều bài học bổ ích phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước qua những

chính sách hợp tác về lĩnh vực này. Và đặc biệt là vấn đề An ninh Quốc phòng
cũng rất cần chú ý cho cả hai quôc gia. Đây là vấn đề không chỉ riêng của hai
quốc gia mà còn mang tính toàn cầu, các chính sách dựa trên lĩnh vực này còn
nhằm vào vấn đề an ninh của thế giới.
Thứ ba, như đã nhắc ở trên, nước Anh là một đất nước phát triển. Nước
Anh là nơi khai sinh cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ 18 đã làm thay
đổi lịch sử thế giới, đưa nước Anh trở thành một trung tâm kinh tế hàng đầu
thế giới. Cho đến ngày nay, nước Anh vẫn giữ cho mình một vị trí quan trọng
trong trường quốc tế. Do đó, hợp tác với Anh sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều
lợi ích lớn cũng như sẽ có thêm những kinh nghiệm hợp tác với quốc gia phát
triển. Tìm hiểu, nghiên vứu để tài này, giúp có thêm hiểu biết cũng như cái
nhìn tổng quan hơn về chính sách ngoại giao, hợp tác với Anh, góp phần thêm
hiểu biết để tạo khả năng hợp tác với nhiều quốc gia phát triển khác.
Thứ tư, hợp tác quốc tế là yếu tố then chốt để phát triển bền vững. Ngoài
ra, ngày nay, vấn đề hợp tác quốc tế cũng là vấn đề mà mỗi quốc gia đều coi
trọng. Hợp tác quốc tế đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, đây là vấn đề
mà đa phần sẽ không quốc gia nào có thể bỏ qua. Hợp tác là để phát triên, trên
tất cả các lĩnh vực đều có những chính sách hợp tác phù hợp cho cả đôi bên.
Do đó, đây là đề tài cấp thiết, tìm hiểu đề tài này là để phục vụ cho quá trình
hợp tác với Anh Quốc của Việt Nam ta trong tương lai, cũng như với các quốc
gia khác.

4


Về mục tiêu
Thứ nhất, nắm rõ được khái quát chung tình hình chính sách ngoại giao
giữa Việt Nam và Vương Quốc Anh đã có những chuyển biến từ lúc thiết lập
quan hệ ngoại giao.
Thứ hai, tìm hiểu cụ thể các hoạt động, các chính sách đối ngoại giữa hai

nước thể hiện trên các lĩnh vực: Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kỹ thuật, An
ninh – Quốc phòng những năm đầu thế kỷ 21.
Thứ ba, thông qua các hoạt động, chính sách giữa hai nước rút ra những
nhận xét chung về mối quan hệ giữa hai nước cũng như đưa ra một số kế luận
về kinh nghiệm từ các chính sách hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực này.
Thứ tư, có được cái nhìn cụ thể cũng như khách quan nhất về mối quan hệ
hợp tác giữa hai nước tại thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai, đặc biệt
là khi Vương Quốc Anh đã rời khỏi Khối Liên Minh Châu Âu.
Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam – Anh Quốc dựa trên các
lĩnh vực Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kỹ thuật và An ninh Quôc phòng
những năm đầu thế kỷ 21. Do vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối
quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Anh Quốc trên các lĩnh vực được nhắc
trên.
Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian, giới hạn đề tài từ những năm đầu thế kỷ 21 cho đến
nay.
Phạm vi nội dung, đề tài đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam –
Anh Quốc từ những năm đầu thế kỷ 21 cho đến nay trên các lĩnh vực cụ thể:
Văn hóa – Xã hội, Khoa học – Kỹ thuật và An ninh Quốc Phòng.
5


Về phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được xây dựng chủ yếu thông qua phương pháp lịch sử, phương
pháp nghiên cứu, tổng hợp, đánh gia và phân tích dựa vào các tài liệu đã thu
thập được từ các nguồn chính thống khác nhau, từ những kiến thức đã học
được từ môn “Chính sách Đối ngoại Việt Nam” và xin ý kiến của PGS,TS.
Nguyễn Thị Quế − Chịu trách nhiệm giảng dạy bộ môn.
Bố cục tiểu luận

Tiểu luận gồm ba phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong đó phần nội dung bao gồm những phần nhỏ sau:
1. Khái quát chung về quan hệ giữa Việt Nam và Anh Quốc
2. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Văn hóa – Xã hội từ những
năm đầu thế kỷ 21 đến nay
2.1. Các hoạt động chính
2.2. Đánh giá các hoạt động
2.3. Bài học kinh nghiệm
3. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Khoa học – Kĩ thuật từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay
3.1. Các hoạt động chính
3.2. Đánh giá các hoạt động
3.3. Bài học kinh nghiệm
4. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực An ninh Quốc phòng từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay
4.1. Các hoạt động chính
4.2. Đánh giá các hoạt động
4.3. Bài học kinh nghiệm

6


PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát chung mối quan hệ giữa Việt Nam và Anh Quốc
Việt Nam và Anh thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 11/9/1973.
Tuy nhiên, quan hệ hai nước chỉ thực sự phát triển thực chất từ giữa thập kỷ
90.
Từ năm 1973 đến năm 1990, quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh nhìn
chung chưa thực sự trở thành đối tác của nhau, chỉ với mức độ dè dặt cẩn
trọng và thường hợp tác trên lĩnh vực mang tính hỗ trợ nhân đạo nhằm thăm

dò thị trường. Điểm nổi bật trong quan hệ của Việt Nam với Vương quốc Anh
giai đoạn trước năm 1975 gắn với diễn biến của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Nhìn chung, cho
tới năm 1975, trong chính sách của mình, cả Việt Nam lẫn Vương quốc Anh
với tư cách là một thực thể kinh tế - chính trị đều chưa coi nhau là đối tác, và
vì thế mức độ quan hệ hầu như không có, hoặc nếu có thì cũng hết sức hạn
chế.
Giai đoạn cuối năm 1970 – 1980, quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc
Anh bị tác động tiêu cực bởi sự kiện Campuchia. Năm 1986, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra chính sách đổi mới, chuyển hướng nền
kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường và
thực hiện chính sách mở cửa, “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính
sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả
năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Năm 1987, Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài, tạo nên những điều
kiện và tiền đề quan trọng cho quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành
viên EU nói chung và với Vương quốc Anh nói riêng. Các nhà đầu tư của
Vương quốc Anh có mặt tại Việt Nam ngay từ năm đầu ban hành luật đầu tư

7


nước ngoài tại Việt Nam (1988) dưới hình thức các hợp đồng phân chia sản
phẩm dầu khí (PSC).
Qua mấy năm thực hiện chính sách đổi mới (1986 – 1990), Việt Nam đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, bước đầu mở cửa và hội nhập với cộng
đồng quốc tế, làm cho bộ mặt đất nước thay đổi nhanh chóng. Quan hệ giữa
Việt Nam với Vương quốc Anh cũng được mở rộng đáng kể.

Vào cuối thập kỷ 80, khi Việt Nam giành được những thành tựu quan
trọng bước đầu trong việc thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa hội nhập
với cộng đồng quốc tế, trong điều kiện mới, với những chuyển biến tích cực
từ phía Việt Nam cũng như sự tác động từ bên ngoài, Vương quốc Anh ngày
càng chú ý quan tâm hơn tới Việt Nam và coi việc thúc đẩy quan hệ với Việt
Nam là một ưu tiên trong đường lối đối ngoại ở Châu Á. Những lợi thế của
Việt Nam như vị trí địa – chiến lược quan trọng, nguồn lao động trẻ, dồi dào,
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú… là mặt mạnh của Việt Nam trong
hợp tác với Vương quốc Anh. Cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở Vương
quốc Anh có khả năng đóng vai trò quan trọng là “cầu nối” tăng cường quan
hệ. Mở rộng và tăng cường quan hệ với Vương quốc Anh giúp Việt Nam khai
thác được nguồn vốn, công nghệ, thị trường và phương pháp quản lý hiện đại
từ Vương quốc Anh, những lĩnh vực mà Vương quốc Anh có nhiều kinh
nghiệm quý báu và tiềm năng to lớn là chuyển giao công nghệ hiện đại, đầu tư
sản xuất công nghiệp, phát triển nông nghiệp, nông thôn, văn hoá – giáo dục,
y tế, đào tạo nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, hội
nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Việt Nam nhìn thấy ở Vương quốc Anh những
điều kiện thuận lợi như vậy và Vương quốc Anh cũng tìm thấy ở Việt Nam
một thị trường rộng lớn, một môi trường đầu tư hấp dẫn. Đó là những nhân tố
góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh ngày càng tăng
cường và mở rộng trên mọi lĩnh vực.

8


Đối với Vương quốc Anh, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ toàn diện với
Vương quốc Anh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, lẫn văn hoá, xã hội, giáo
dục đào tạo và khoa học kỹ thuật, để có nhiều điều kiện trong việc tranh thủ
nguồn vốn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của Vương
quốc Anh. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn nhằm khắc phục khó khăn,

từng bước gạt bỏ mọi trở ngại để cho mối quan hệ giữa hai bên ngày càng có
hiệu quả cao.
Trong giai đoạn đầu thế kỷ 21, mối quan hệ này càng có thêm những
chuyển biến tích cực hơn nữa, trên nhiều các lĩnh vực đa dạng, đặc biệt là Văn
hóa – Xã hội, Khoa học – Kĩ thuật, An ninh Quốc phòng.

9


2. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Văn hóa – Xã hội từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay
2.1. Các hoạt động chính
Tăng cường hợp tác hiểu biết về văn hoá sẽ giúp hai bên xích lại gần
nhau hơn trong thời kỳ toàn cầu hoá. Hiểu biết về văn hoá sẽ giúp thắt chặt
hơn quan hệ về chính trị và thuận lợi hơn trong công việc kinh doanh. Do đó
sự hợp tác trong lĩnh vực văn hoá – giáo dục có ý nghĩa lớn trong quan hệ
giữa Việt Nam – EU nói chung và Việt Nam – Vương quốc Anh nói riêng.
Về văn hoá, trong thời quan qua, hợp tác giữa Việt Nam – Vương quốc
Anh trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo phát triển tích cực. Hàng năm, Vương
quốc Anh dành từ 25 – 30 suất học bổng cho học sinh Việt Nam, 40 trường
đại học và cao đẳng Anh nhận cấp học bổng cho Việt Nam, số người Việt
Nam nhận học bổng của chính phủ Anh là trên 600, có khoảng 20 chương
trình liên kết đại học Việt Nam – Vương quốc Anh, đại học East Anglia đã
được cấp giấy phép mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, đại học Webminster
liên kết với đại học Bách Khoa Hà Nội đang xin mở văn phòng đại diện.
Đặc biệt hơn, Hội đồng Anh đã có mặt tại Việt Nam từ cuối năm 1993,
có trụ sở ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một tổ chức văn hoá –
giáo dục quốc tế của Vương quốc Anh, sau hơn 10 năm hoạt động tại Việt
Nam, Hội đồng Anh đã góp một phần đáng kể vào quá trình phát triển của
Việt Nam thông qua các hoạt động giảng dạy tiếng Anh, hợp tác giáo dục, mở

các dự án hỗ trợ quản lý nhà nước bằng tiếng Anh, trao đổi thông tin và nghệ
thuật. Ước tính đã có hàng ngàn học sinh, sinh viên, giáo viên đã tham dự các
khoá đào tạo của Hội đồng Anh, trong đó có nhiều sinh viên xuất sắc đã được
hỗ trợ học bổng và sang học tập tại nước Anh.
Ngoài ra, Hội đồng Anh còn tổ chức các lớp bổ túc tiếng Anh miễn phí
cho trên 1.000 cán bộ của ta, trong đó có hơn 40 cán bộ cấp Thứ trưởng và
tương đương. Chính phủ Anh cũng đã có kế hoạch hỗ trợ cho Việt Nam một
10


số dự án giáo dục như: Giáo dục tiểu học (PTP) với mức vốn 15 triệu bảng
Anh, thực hiện trong 9 năm và đang trong giai đoạn chuẩn bị dự án đào tạo
giáo viên cấp tiểu học thông qua Ngân hàng Thế giới, chính phủ Việt Nam đã
phê duyệt Chương trình PTP vào quý 3 năm 2001; chương trình giáo dục cho
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, DFID dự kiến tài trợ 25 triệu bảng
Anh cho chương trình này trong thời gian 5 năm, bắt đầu từ năm 2002,
nhằm cải thiện các dịch vụ giáo dục cho các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn;
dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA) đã được triển khai thực hiện về đào tạo giáo viên
tiếng Anh giảng dạy ở bậc phổ thông trung học cơ sổ (ELTTP) trong giai đoạn
1998 – 2002 ở 23 tỉnh với kinh phí tài trợ 2,75 triệu bảng Anh, DFID quyết
định bổ sung thêm cho dự án này 875.000 bảng Anh, nâng tổng mức kinh phí
dự án lên 3.625.000 bảng Anh và dự kiến dự án này sẽ kết thúc vào tháng
8/2003.
Hơn nữa, thông qua Hội đồng Anh, chính phủ Anh cũng đã đóng góp tích
cực trong công tác đào tạo tiếng Anh cho đội ngũ cán bộ công chức của Việt
Nam với mức kinh phí 400.000 bảng Anh. Và hàng năm, chính phủ Anh đã
cung cấp các học bổng ngắn hạn tại Vương quốc Anh cho các viên chức chính
phủ Việt Nam, kinh phí khoảng 500.000 bảng Anh/năm.
Thêm vào đó, tháng 3/2008, Việt Nam đã ký với Anh Hiệp định cấp chính
phủ về hợp tác giáo dục – đào tạo, hai bên nhất trí sẽ thiết lập từ 40 đến 60

liên kết trường học cấp (phổ thông, trung cấp, đại học) trong 3 năm và cam
kết cho phép thành lập trường Apollo tại Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy tiếng anh.
Trong năm 2012, dự án “Giáo dục biến đổi khí hậu” đã được thực hiện
bởi Hội Đồng Anh tại 25 trường trung học cơ sở trong mạng lưới Kết nối Lớp
học tại Hà nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

11


Đến cuối năm 2012, dự án tiếp tục được mở rộng đến 300 trường tiểu học tại
tỉnh Hòa Bình với sự hợp tác chặt chẽ của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trong năm học 2013 – 2014, với sự ủng hộ và hợp tác của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, dự án sẽ được nhân rộng tới các trường tiểu học và trung học cơ
sở của ba tỉnh. Chương trình và nội dung đào tạo sau đó sẽ được chia sẻ như
là một phần trong khung đào tạo về ứng phó với biến đổi khí hậu của các
trường học ở mọi cấp trên toàn quốc.
Ngoài ra, trong buổi Đối thoại chiến lược Việt Nam – Anh lần thứ 5
(07/03/2016) tại London – Vương Quốc Anh, hai bên nhấn mạnh tầm quan
trọng của hợp tác giáo dục – đào tạo, lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ Đối tác
chiến lược với nền tảng hợp tác tốt đẹp trong thời gian qua. Hai bên nhất trí
tiếp tục phối hợp chặt chẽ để nâng cao hiệu quả hợp tác trong lĩnh vực này
thông qua các hoạt động như: triển khai hiệu quả dự án giai đoạn I của trường
Đại học Việt – Anh tại Đà Nẵng là Viện nghiên cứu giáo dục đào tạo Việt –
Anh; thúc đẩy thành lập Trung tâm khảo thí tiếng Anh; ký kết “Thỏa thuận
hợp tác về phát triển kỹ năng nghề và xây dựng hệ thống đảm bảo chất
lượng nghề”; và triển khai chương trình Newton. Hai bên cũng ghi nhận

12



những đóng góp của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục đến từ Vương quốc
Anh tại Việt Nam, trong đó có Hội đồng Anh, và nhất trí cần hướng tới xây
dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho hoạt động của các tổ chức này.
Về xã hội, các nhà đầu tư Anh cũng đã đóng góp một phần đáng kể vào sự
đóng góp chung của Liên minh Châu Âu đối với phát triển xã hội của Việt
Nam, trong đó, Vương Quốc Anh đầu tư 802 triệu USD với nhiều dự án, tạo
việc làm cho 2023 lao động trực tiếp và hàng trăm lao động gián tiếp. Trong
đó, dự án đầu tư thành công nhất của Vương quốc Anh là công ty bảo hiểm
nhân thọ Prudential. Công ty này có mặt tại Việt Nam từ năm 1994, thuê trên
5000 lao động, bán bảo hiểm nhân thọ trên 200.000 người, dẫn đầu các công
ty bảo hiểm nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam, doanh thu trên 1000 tỷ
VNĐ năm 2001.
Hơn nữa, Đại diện của UNICEF tại Hà Nội và đại diện của chính phủ Anh
đã ký biên bản ghi nhớ việc chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại 2,8 triệu
bảng Anh thông qua UNICEF để hỗ trợ chương trình cấp nước nông thôn cho
14 tỉnh thuộc miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên của Việt Nam
trong hai năm 1999 – 2001.
Cùng với đó, Vương quốc Anh cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt
Nam 29,4 triệu USD để hỗ trợ một phần vốn thực hiện dự án giao thông giai
đoạn II nhằm xây dựng mới và nâng cấp hệ thống đường sá, cầu cống ở khu
vực nông thôn, nhất là các tuyến đường liên huyện, liên xã.
Vương quốc Anh đã tăng đáng kể mức tài trợ cho Việt Nam: giai đoạn
2002 – 2004, viện trợ của Vương quốc Anh tăng từ 20 triệu bảng Anh (2002)
(tương đương 35 triệu USD) lên tới 40,5 triệu bảng Anh (2004) (tương đương
60 triệu USD). Viện trợ của Anh thường tập trung vào lĩnh vực xó đói giảm

13



nghèo. Hoạt động này của Vương quốc Anh góp phần giúp Việt Nam hoàn
thành công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Ngày 06/10/2016, Hội hữu nghị Việt Nam – Anh và Mạng lưới Việt –
Anh vừa ký kết Thỏa thuận hợp tác giai đoạn 2016 – 2019 nhằm góp
phần tích cực vào việc thắt chặt tình thân giữa hai đất nước. Những năm
qua, Hội hữu nghị Việt – Anh luôn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ làm cầu nối
phát triển cho mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân hai nước. Hội
đã tổ chức được nhiều hoạt động thường niên như: mít-tinh kỷ niệm nhân các
ngày lễ lớn của hai nước, tọa đàm – hội thảo về các chủ đề: hợp tác giáo dục,
viện trợ phi chính phủ Anh tại Việt Nam, tổ chức nhiều hoạt động kêu gọi sự
ủng hộ và giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam...
Việc ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa Hội hữu nghị Việt Nam – Anh và
Mạng lưới Việt – Anh giai đoạn 2016 – 2019 là mốc son mở ra một trang mới
cho mối quan hệ hợp tác. Từ đây, hai Hội sẽ tiếp tục củng cố và phát triển tình
hữu nghị, đoàn kết và hợp tác song phương giữa nhân dân Việt Nam và nhân
dân Anh, thúc đẩy giao lưu và hiểu biết chung giữa nhân dân hai nước trong
bối cảnh quan hệ Việt – Anh ngày càng phát triển tốt đẹp.

14


Và trong vấn đề bảo vệ động vật hoang dã, Việt Nam và Anh luôn cùng
nhau hợp tác, hỗ trợ và đặc biệt rất coi trọng vấn đề này. Vụ Trưởng phụ trách
các chương trình quốc tế, Bộ Môi trường, Thực phẩm và các vấn đề Nông
thôn của Anh Jeremy Eppel cho rằng việc Việt Nam sẵn sàng tổ chức hội nghị
quốc tế lần thứ ba về chống buôn bán động vật hoang dã đã gửi một thông
điệp mạnh mẽ tới quốc tế rằng Việt Nam cương quyết loại bỏ việc buôn bán
động vật hoang dã bất hợp pháp. "Nước Anh hoàn toàn ủng hộ những nỗ lực
này”, ông Jeremy Eppel nói. Đại diện phía Việt Nam ông Nguyễn Bá Ngãi,

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam bày tỏ tự hào về những nỗ lực của Việt Nam trong việc
bảo vệ động vật hoang dã và chống lại việc buôn bán động vật hoang dã trong
thời gian qua. Ông đánh giá cao sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là
nước Anh trong việc hỗ trợ Việt Nam giải quyết vấn đề này và mong rằng sự
hợp tác giữa hai nước sẽ càng được đẩy mạnh trong thời gian tới.

15


Ngày 29/03/2017, Việt Nam và Anh nỗ lực phòng chống tệ nạn buôn
người, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm trong việc điều tra và truy tìm tội phạm
của nạn nô lệ thời đại mới thông qua Hội nghị diễn ra tại Đà Nẵng. Hội nghị
được phối hợp tổ chức bởi Đại sứ quán Anh ở Việt Nam và một chương trình
hành động của Liên Hiệp Quốc về hợp tác chống nạn buôn người UN ACT.
Nhìn chung, sự hợp tác của Việt Nam và Vương Quốc Anh trên lĩnh vực
văn hóa – giáo dục luôn có những chuyển biến tích cực và mới mẻ. Các chính
sách hợp tác đa dạng và mang lại lợi ích chung cho cả hai nước.

16


2.2.

Đánh giá các hoạt động
Các hoạt động được liệt kê ở trên là những hoạt động nổi bật nhất trong

chính sách đối ngoại giữa Việt Nam và Anh trên lĩnh vực Văn hóa – Giáo dục.
Các chính sách hoạt động đó không những thúc đẩy phát triển nền văn hóa –
giáo dục giữa hai nước mà còn tăng cường mối quan hệ, hiểu biết thêm về

nhau.
Trước hết, có thể thấy các chính sách rất đa dạng và bao quát được hầu
hết mọi đối tượng trong xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục, các chính sách hoạt
động đề ra luôn có những đổi mới, ngoài việc cung cấp các suất học bổng
ngắn hạn hay dài hạn, hai bên còn tích cực hơn trong việc thiết kế riêng môi
trường học thuật để tìm hiểu nhau hơn. Việc xây dựng những môi trường học
tập sẽ cải thiện rõ rệt hơn tình hình giáo dục của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh
đó, các chính sách cũng rất rộng mở, hướng đến nhiều đối tượng, tầng lớp
người Việt Nam. Các chính sách giáo dục luôn được xoay quanh từ đối tượng
trẻ em mẫu giáo cho đến học sinh tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông và cả sinh viên học đại học, sau đại học. Các chính sách luôn nhằm đến
việc phát triển tri thức con người, mang lại lợi ích cho chính con người thông
qua việc cải thiện nền giáo dục. Hay trong xã hội, những hoạt động hay chính
sách hợp tác đều là dựa trên những vẫn đề xã hội nóng bỏng mà cả hai cùng
thực sự quan tâm. Nhờ vậy mà giải quyết các vấn đề nan giải đó sẽ càng trở
nên nhanh chóng, do có sự nỗ lực hợp tác chung tay giải quyết từ hai bên.
Và đặc bệt, có thể thấy, trong lĩnh vực giáo dục thì Hội Đồng Anh đã thực
sự phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc cải thiện rõ rệt nền giáo
dục Việt Nam.

17


Từ lúc thành lập cho đến nay, Hội Đồng Anh đã mang lại nhiều thay đổi
cho nền giáo dục Việt Nam. Cụ thể là cá chính sách thì luôn hướng đến sự
sáng tạo mới mẻ trong việc học tập của học sinh, sinh viên Việt Nam. Tạo ra
nhiều cơ hội chủ động, sáng tạo hơn trong học tập và đặc biệt là luôn chú
trọng đến việc học ngôn ngữ tiếng anh. Có thể nói, Hội Đồng Anh là một
trong những chính sách thành công nhất của Anh tại Việt Nam. Bởi tổ chức
này đã hoàn thành một sách xuất sắc trong lĩnh vực giáo dục – văn hóa. Các

hoạt động của tổ chức luôn dựa trên những vấn đề đáng quan tâm nhất của xã
hội, tạo ra một môi trường học tập giúp con người Việt Nam chủ động hơn và
nhất là tầng lớp học sinh, sinh viên sẽ có thêm trách nhiệm hơn trong giải
quyết những vấn đề xã hội như vệ sinh môi trường, thay đổi khí hậu toàn cầu.
Vương Quốc Anh là một quốc gia mà luôn đi đầu trong lĩnh vực giáo dục,
do vậy mà khi Việt Nam hợp tác với Anh trên các lĩnh vực này sẽ được phát
triển một cách toàn diện và tình hình giáo dục cũng như các vấn đề xã hội sẽ
được giải quyết một cách trọn vẹn và cải thiện hơn.
Bên cạnh đấy, về các vấn đề xã hội, các chính sách tài trợ trong lĩnh vực
luôn hướng đến những đối tượng cụ thể khó khăn nhất chứ không phải là tài
trợ một cách không chủ đích. Khi hợp tác với Việt Nam để hỗ trợ nhau trong
18


vấn đề xã hội, Anh đã nắm rõ được tình hình các đối tượng mà được coi là
khó khăn nhất của Việt Nam để dành những tài trợ một cách thiết thực nhất.
Rõ ràng thông qua đó, ta có thể thấy được, Việt Nam đang nhận được sự quan
tâm không nhỏ từ Anh. Các chính sách tài trợ đó không những hỗ trợ Việt
Nam giải quyết các vấn đề an sinh xã hội mà thêm vào đó còn tăng cường mối
liên kết giữa hai nước với nhau.
Hơn nữa, Anh còn cải thiện cho vấn đề thiếu việc làm trầm trọng của Việt
Nam một cách tích cực. Trong gần 20 năm hợp tác của thế kỷ 21 đã giải quyết
việc làm cho rất nhiều người dân Việt Nam. Đậy là một sự hỗ trợ, giúp đỡ
mang lại nhiều ý nghĩa nhất trong lĩnh vực xã hội: cải thiện được tình trạng
việc làm tại Việt Nam, do đó mà sẽ giảm tỉ lệ tội phạm hơn, các gia đình sẽ
cải thiện được đời sống,…
Và nhìn chung, trong suốt quá trình hợp tác phát triển của Việt Nam và
Anh từ những năm đầu thế kỷ 21 cho đến nay, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp
tác văn hóa – xã hội, các chính sách hoạt động luôn được “cập nhật” và có
những sáng tạo, đổi mới linh hoạt mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên hơn.

Thêm nữa là các chính sách hợp tác thì trải dài đều trong suốt từ những năm
đầu thế kỷ 21 và không có những khoảng thời gian nào bị “chững” lại. Do vậy
mà có thể khẳng định, Việt Nam và Anh luôn coi trọng hợp tác phát triển lĩnh
vực Văn hóa – Giáo dục – Xã hội. Cả hai nước đều đã có chung những quan
điểm về tầm quan trọng của lĩnh vực này, do đó chính sách hợp tác giữa hai
bên sẽ luôn được phát triển và tăng cường hơn nữa.
Tuy nhiên, với mỗi chính sách hoạt động sẽ không khó tránh khỏi những
thiếu sót hay những bất cập do hai nước là hai thể chế chính trị khác nhau. Do
đó mà sẽ có lúc không cùng quan điểm, tuy nhiên, xét chung, đây là các chính
sách hợp tác phát triển nên cả hai bên sẽ có những cách giải quyết tích cực
nhất trong trường hợp chưa tìm được tiếng nói chung. Nhưng có thể nói, Việt
Nam và Anh đã thực sự thành công trong hợp tác lĩnh vực văn hóa – xã hội

19


này, bởi nhìn từ kết quả mà hai bên đã được, sẽ chẳng thấy được chút khó
khăn nào mà hai bên đã hoặc đang gặp phải.
2.3. Bài học kinh nghiệm
Từ những đánh giá các hoạt động nổi bật trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
trên, ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm để sau có thể cải thiện
các chính sách đối ngoại với các quốc gia khác. Rút bài học từ những quốc
gia phát triển như Anh sẽ là cách để Việt Nam có thể làm chủ trong các chích
sách hợp tác khác với các quốc gia đang hoặc chưa phát triển.
Trước hết, chủ thể quan trọng nhất của các chính sách chính là con người.
Rút ra từ quá trình hợp tác với Anh, có thể thấy rằng, Anh luôn chú trọng đến
con người trong mỗi chính sách. Các chính sách đề ra đều trực tiếp nhắm đến
lợi ích của người dân. Việt Nam là một đất nước luôn đặt dân làm gốc, nhân
dân chính là chủ nhân của đất nước. Mà những hoạt động hợp tác của Anh
đều là với mục đích cải thiện tình hình văn hóa – xã hội cho người dân Việt

Nam. Rõ ràng thông qua các hoạt động này, Anh sẽ có một vị trí quan trọng
trong các chính sách hợp tác của Việt Nam, sẽ trở thành quốc gia nhận được
nhiều sự biết ơn của người dân Việt Nam, từ đó sẽ có thêm nhiều các chính
sách hợp tác cởi mở hơn nữa giữa hai bên. Vương Quốc Anh chính là đã nắm
được tình hình cụ thể của Việt Nam, biết được những đối tượng có vai trò
quan trọng để có được những chính sách hợp tác mang lại lợi ích cho cả hai
quốc gia. Việt Nam thì sẽ cải thiện được tình hình văn hóa – xã hội còn Anh
thì sẽ có tầm ảnh hưởng không nhỏ tại Việt Nam.
Thứ hai, nhấn mạnh thêm lần nữa, muốn có những chính sách hợp tác
phát triển hoàn hảo một cách toàn diện, phải nắm bắt được cụ thể thực trạng
quốc gia đối phương. Ví dụ như cá chính sách hợp tác của Anh đã cải thiện
không nhỏ tới vấn đề tạo công ăn việc làm cho bộ phận người dân Việt Nam.
Có thể nói, trước khi cùng nhau đi đến những chính sách đối ngoại hợp tác
đôi bên, Anh sẽ phải tiếp cận tới Việt Nam ở mọi lĩnh vực. Và khi nhận thấy
Việt Nam là môi trường có lượng lao động dồi dào, phát triển, Anh sẽ đưa ra
các chính sách như xây dựng các nhà máy hay mở công ty liên kết Việt – Anh
20


để không những tạo được nhiều việc làm cho người dân Việt Nam mà bản
thân Anh cũng thu lại những lợi ích đáng kể.
Thứ ba, có thể học hỏi được Anh từ tổ chức Hội Đồng Anh trong việc hợp
tác, giúp đỡ đôi bên. Hội Đồng Anh thực sự là một môi trường học tập bổ ích.
Đây là một tổ chức văn hóa – xã hội có nhiều hoạt động mà có thể rút ra được
bài học. Như các chính sách hay các chương trình văn hóa – xã hội luôn sáng
tạo, hướng đến những lợi ích cao cả cho xã hội. Hội Đồng Anh là nơi mà giúp
cho nền văn hóa – xã hội của các quốc gia được biến đổi tich cực, đặc biệt là
Việt Nam. Với kết cấu tổ chức chặt chẽ, Hội Đồng Anh luôn kết hợp cùng với
Bộ giáo dục Việt Nam để mang lại những thay đổi tích cực, mới mẻ cho nền
giáo dục. Thông qua Hội Đồng Anh, Việt Nam đã có cơ hội được tiếp cận với

một nền giáo dục tiên tiến nhất. Chúng ta có thể rút ra những bài học từ Hội
Đồng Anh, về việc thành lập một tổ chức có kết cấu vững chắc, có nhiều hoạt
động sáng tạo, mới mẻ đổi mới nền giáo dục chứ không phải những quy củ gò
bó. Chúng ta sẽ học được về cách giải quyết các vấn đề của xã hội chính là
giáo dục cho mọi đối tượng về vấn đề đó đề đi đến hướng giải quyết cuối
cùng, điều đó sẽ khiến cho ai cũng sẽ trở nên có trách nhiệm hơn đối với xã
hội chúng ta đang sinh sống.
Thứ tư, biết được thế mạnh của mình là gì để mở rộng các chính sách hợp
tác, phát triển. Nền giáo dục của Anh được xếp vào hạng những quốc gia có
nền giáo dục tiên tiến nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, Anh cũng là quốc gia
mà vấn đề xã hội luôn được ổn định. Do vậy mà khi hợp tác với Việt Nam
trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, đã có những chuyển biến tốt đẹp. Nói chung,
phải biết được thế mạnh của mình là gì thì mới có thể đưa ra những chính
sách đối ngoại hợp tác thành công được.
Đặc biệt, cần tăng cường hơn nữa giao lưu văn hoá làm cầu nối phát triển
quan hệ đôi bên, tranh thủ thêm nhiều suất học bổng, đa dạng hoá các loại
hình đào tạo ở Vương quốc Anh, tăng cường công tác thông tin đối ngoại, cần
có chính sách ưu đãi, hỗ trợ hơn nữa cho cộng đồng người Việt Nam ở Vương

21


quốc Anh, sử dụng họ làm cầu nối thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh ngày càng phát triển.
Nước Anh và tiếng Anh có một sức hút to lớn đối với thế hệ trẻ Việt Nam,
ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam mong muốn sang học tập tại Vương
quốc Anh. Do vậy, hai bên nên sớm xây dựng một hiệp định hợp tác văn hoá
giáo dục để đưa lĩnh vực hợp tác đầy triển vọng này vào khuôn khổ.

22



3. Quan hệ Việt Nam và Anh Quốc về lĩnh vực Khoa học – Kĩ thuật từ
những năm đầu thế kỷ 21 đến nay
3.1. Các hoạt động chính
Vương quốc Anh là một trong những cái nôi của nền khoa học kỹ thuật
của nhân loại, nền công nghiệp phát triển rất sớm. Chính vì lý do đó mà các
nhà đầu tư Anh thường chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn
lớn, khoa học công nghệ cao như dầu khí, xây dựng, viễn thông, công nghiệp
chế biến…. Đó là thuận lợi lớn cho Việt Nam vì trong khi các nhà đầu tư
nước khác tập trung vào khai thác các ngành công nghiệp nhẹ, dịch vụ, du
lịch, khách sạn… thì các nhà đầu tư Anh lại chú ý giúp xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn theo chiều hướng lâu dài.
Điển hình là dự án hợp doanh khai thác mạng viễn thông nội hạt với
Cable và Wireless có vốn đầu tư 289 triệu USD.
Có thể nói, trong suốt quá trình từ đầu những năm thế kỷ 21, Vương Quốc
Anh đã hỗ trợ cho chúng ta không nhỏ trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật.
Các thành tựu khoa học kỹ thuật của đất nước phát triển này được chia sẻ đến
Việt Nam thông qua nhiều các khác nhau như áp dụng các máy móc, thiết bị
hiện đại của Anh vào sản xuất, vận dụng các nghiên cứu khoa học đã được
chứng nhận, trao đổi các nhà khoa học để củng cố, học hỏi thêm kiến thức từ
Anh.
Năm 2010, Chính phủ hai nước Việt Nam và Vương quốc Anh đã ký
Tuyên bố chung về Quan hệ Đối tác chiến lược, trong đó khoa học và công
nghệ là một trong những lĩnh vực ưu tiên hợp tác giữa hai quốc gia.
Năm 2012, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Nhóm
đối tác khoa học Anh quốc – Đông Nam Á và Đại sứ quán Anh tại Việt Nam,
tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy hợp tác về năng lượng hạt nhân giữa Việt Nam và
Vương quốc Anh". Hội thảo là cơ hội để các nhà nghiên cứu khoa học của
Việt Nam và Anh trao đổi, thảo luận về các vấn đề liên quan đến phát triển và

ứng dụng năng lượng hạt nhân tại Việt Nam và Anh; góp phần thúc đẩy hợp
23


tác hiệu quả trong lĩnh vực này giữa hai quốc gia. Tại hội thảo, các chuyên gia
Việt Nam và Anh đã chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề như
xây dựng khuôn khổ pháp quy hạt nhân, chuẩn bị địa điểm xây dựng nhà máy,
lựa chọn công nghệ, xây dựng năng lực nghiên cứu, triển khai và hỗ trợ kỹ
thuật cho chương trình điện hạt nhân, phát triển nguồn nhân lực hạt nhân,
quản lý rủi ro trong quá trình xây dựng, lắp đặt và đưa vào khai thác vận hành
nhà máy điện hạt nhân, vai trò của tư vấn cho chủ đầu tư.

Theo Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam Antony Stokes, năng lượng hạt
nhân đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng của nhân loại, góp phần giải
quyết nhu cầu năng lượng ở Anh và nhiều quốc gia khác. Đại sứ Antony
Stokes nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác về năng lượng hạt nhân giữa
Việt Nam và Vương quốc Anh; mong muốn được tiếp tục hợp tác với Việt
Nam nhân rộng sáng kiến nhằm phát triển an toàn năng lượng hạt nhân...

24


Ngoài ra, trong buổi ký kết Hợp tác sử dụng năng lượng vì mục đích
hòa bình, ngày 28/11/2013, bên cạnh việc hai bên tăng cường công tác quản
lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng bao gồm dịch vụ hợp tác
kỹ thuật về chu trình nhiên liệu hạt nhân, an ninh hạt nhân và không phổ biến
vũ khí hạt nhân, còn có các hình thức hợp tác khác do các bên tham gia cùng
quyết định như cơ hội thương mại liên quan đến cơ sở hạ tầng và các dịch vụ
tư vấn tài chính, thông tin – truyền thông công chúng và ứng phó sự cố hạt
nhân... Hai bên sẽ hợp tác theo các hình thức như trao đổi thông tin, tài liệu

khoa học và kỹ thuật; trao đổi và đào tạo cán bộ (thực tập, nghiên cứu sinh,
sinh viên đại học và sau đại học...); tổ chức hội nghị và hội thảo; cung cấp các
dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật có liên quan; xây dựng các dự án nghiên cứu
chung; các hình thức hợp tác khác có thể do các bên tham gia đồng thuận
cùng quyết định.

Năm 2014, Ngài Antony Stokes, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam
bày tỏ mong muốn Hợp tác khoa học và công nghệ sẽ là trung tâm trong hợp

25


×