Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.73 KB, 31 trang )

Mở đầu
Xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói
chung, văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong
phú và phức tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao
động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá
trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là
kênh thông tin quan trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao
dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân... Do đó, tăng cường quản lý nhà
nước (QLNN) về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm.
Hoạt động QLNN bằng pháp luật về xuất bản đã có những đổi mới
đáng kể, mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt là từ khi Luật xuất bản
1993 có hiệu lực thi hành và hiện nay là Luật xuất bản 2004. Tuy nhiên,
QLNN đối với xuất bản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ
chức và cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt
động xuất bản có những khó khăn, thách thức gay gắt, một số nhà xuất bản
chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính trị,
văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội dung không lành mạnh,
không phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, bị dư luận phê phán; một
bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, còn nặng về trông
chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, thị
trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất
bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có nguy
cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ IX - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: "Công tác quản
1


lý báo chí, truyền hình, Internet, xuất bản vẫn còn nhiều lơi lỏng, kém hiệu
lực".


Từ những hạn chế trên đòi hỏi chúng ta phải tăng cường QLNN đối
với xuất bản. Tăng cường QLNN đối với xuất bản được tiến hành trên nhiều
phương diện. Pháp luật xuất bản là công cụ quan trọng nhất trong QLNN về
xuất bản. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy: Bên cạnh những mặt ưu
điểm, tích cực, pháp luật xuất bản còn chung chung, mang tính nguyên tắc,
lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn hoạt động xuất bản hiện nay. Văn bản
pháp luật ban hành nhiều, nhưng một số quy định còn chồng chứo, khác biệt
nhau;... Chính vì vậy, tăng cường QLNN bằng pháp luật về xuất bản là một
đòi hỏi khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa mang ý nghĩa lâu dài. Từ
những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Quản lý nhà nước về haotj động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm"
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật về
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm
Khái niệm và đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn
tại và phát triển đều phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm
nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản
lý nào đó.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, có người
cho rằng quản lý là hoạt động nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc
thông qua sự nỗ lực của người khác. Có người cho quản lý là một hoạt
động thiết yếu bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục
đích của nhóm. Người khác lại cho rằng quản lý là sự điều hành, điều
2


khiển, chỉ huy;... Tuy nhiên, quan niệm do các nhà điều khiển học đưa ra là
quan niệm được nhiều giới công nhận: Quản lý là sự tác động có định

hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó
phát triển phù hợp với những quy luật nhất định.
Quản lý xã hội là một loại hình của quản lý nói chung. Theo quan
niệm này thì: Quản lý xã hội là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều
hành, hướng dẫn...) lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người làm cho chúng vận động và phát triển phù hợp với quy luật, đạt được
mục đích và theo ý chí của người quản lý.
QLNN có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước
nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động của tất
cả các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân các cấp) đều là hoạt động QLNN.
Theo nghĩa hẹp: QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người do các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan
quản lý Nhà nước) thực hiên để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội
và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhà nước.
Như vậy, QLNN là hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là tính
chính trị của QLNN và là quyền lợi chính trị của nhân dân.
Từ khái niệm QLNN như trên chúng ta hiểu rằng không phải quản
lý nào cũng là QLNN, và Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan QLNN điều chỉnh mọi khía cạnh
của đời sống xã hội, mà chỉ điều chỉnh các khía cạnh do luật định.
3


Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm là mở đường cho hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học để công bố dưới hình thức hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Nhu cầu về tự do, sáng
tạo ra các giá trị khoa học, văn học, nghệ thuật là nhu cầu tự nhiên. Các sản
phẩm sáng tạo có giá trị chỉ được thực hiện khi tư duy trong tình trạng
hưng phấn cao. Mọi sự gò bó và khống chế là ngăn chặn hoạt động sáng
tạo. Nhưng sự an toàn của tự do ngôn luận, của tự do tư duy sáng tạo, của
bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm phải được bảo đảm
bằng pháp luật. Đòi hỏi này bắt nguồn từ quyền con người, với tư cách là
chủ thể sáng tạo và chủ thể hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần. Nhà
nước khẳng định các giá trị xã hội của quyền con người, nên đã ghi nhận và
thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp
lý cho các quyền đó được thực hiện. Do được ghi nhận một cách chính thức
các giá trị về quyền tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu, sáng tác, bình đẳng
trong công bố và phổ biến tác phẩm, pháp luật trở thành phương tiện để các
tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, mọi sự tự do đều phải là tự do trong khuôn khổ pháp
luật. Nhà nước ta không chấp nhận thứ tự do hỗn loạn, đặc biệt là tự do
"loạn ngôn", "loạn khẩu". Công dân nói chung, văn nghệ sĩ, trí thức và
những người hoạt động trong lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm nói riêng, được giải phóng tư duy, hoàn toàn tự do sáng tạo khi điều
chỉnh được hành vi của mình trong khuôn khổ pháp luật.
4


Nhà nước quản lý hoạt động của tư duy sáng tạo trong hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm bằng pháp luật, là khuyến khích tài năng

sáng tạo và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa học, về nghệ thuật.
Chính từ cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi đánh giá công
minh các tác phẩm. ở đó, công chúng với tư cách là người tiêu dùng sẽ là
thước đo về năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
QLNN bằng pháp luật về văn hóa nói chung, hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm nói riêng là sự bác bỏ công khai và chính thức các
"ông quan văn nghệ". Văn nghệ chân chính đòi hỏi sự nhìn nhận, và đánh
giá tác phẩm ở thực tế khách quan của nó, không thừa nhận việc "nâng
quan điểm", "nâng lập trường" bởi ý chí cá nhân. Các vi phạm pháp luật
được quy kết, phải thể hiện ở tác phẩm, có viện dẫn chính xác các điều
khoản của luật pháp. Như vậy, mới là tự do của pháp luật, mới khuyến
khích tự do ngôn luận, tự do sáng tạo trong hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm.
Hơn bất kỳ phương tiện nào, pháp luật là phương tiện chứa đựng
trong mình nó sự kết hợp giữa năng động sáng tạo và kỷ cương kỷ luật,
giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ. Chính vì vậy, nó
tạo ra sự ổn định cho tự do sáng tạo, bảo vệ, kiểm soát các hoạt động tự do
sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những hành vi xâm hại tới quyền tự do sáng
tạo, đồng thời ngăn chặn những hành vi xâm hại tới quyền tự do sáng tạo.
Thứ hai, QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm là bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn;
tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ và tiến bộ về khoa học - công nghệ của
nhân loại.
Văn minh của loài người được nhân loại đánh giá ở các nền văn hóa
có bản sắc, ở các cuộc cách mạng khoa học đã diễn ra trong lịch sử. Mỗi
5


dân tộc có cội nguồn, có truyền thống riêng, được phản chiếu lên tấm
gương văn hóa. Nó là gia sản quá khứ, tạo nên dòng chảy cho hiện tại và

tương lai dân tộc. Đảng và Nhà nước ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần, là
động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, việc bảo tồn, kế thừa,
phát triển những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc là quốc sách, được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992.
Nhà nước khuyến khích và bồi dưỡng tài năng nghiên cứu, sáng tạo
ra các giá trị tinh thần mới, làm giàu vốn văn hóa dân tộc. Đồng thời, trao
vào tay họ các quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc trong hoạt động
văn hóa nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nói riêng. Và
cũng vì vậy, QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm đã đưa ra các chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi truyền bá
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm có nội dung trái với thuần
phong mỹ tục, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của
nhân loại là nhu cầu của bản thân nền văn hóa dân tộc. Mặt khác, trong thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay, với sự phát triển nhảy vọt của Internet, của
khoa học và công nghệ, thì việc nhận thức và ứng dụng các tiến bộ mới của
khoa học là đòi hỏi bức thiết. Mỗi dân tộc phải biết làm giàu bởi trí thức
của nhân loại. Điều đó chỉ được thực hiện khi nhà nước trao cho các chủ
thể được xác định các quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ quốc tế về hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Thứ ba, QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm là quản lý thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, đồng thời là hoạt
động sản xuất kinh doanh.

6


Với thuộc tính là hoạt động văn hóa - tư tưởng, hoạt động sản xuất
kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chịu sự tác động

đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển văn hóa và hệ thống các quy
luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy, nên yêu cầu quản lý nhà nước
bằng pháp luật được đặt ra bức thiết hơn. QLNN bằng pháp luật phải mở
đường cho tự do sáng tạo, đồng thời phải ngăn chặn những độc hại, tiêu
cực do hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm gây ra đối với văn hóa, tư
tưởng; phải định hướng cho hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phát
triển theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của cơ
chế thị trường. Trong QLNN bằng pháp luật, nếu chúng ta coi hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm như các tổ chức kinh tế đơn thuần sẽ dẫn
đến tình trạng hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm bị
thương mại hóa, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh; ngược lại, nếu chúng
ta chỉ đề cao vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở phương
diện văn hóa, tư tưởng sẽ dẫn đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như
vậy, hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm sẽ phá sản trong
điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm là quản lý hoạt động kinh tế trong văn hóa, tư tưởng, đồng thời
quản lý hoạt động văn hóa, tư tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt
của một số vấn đề phải được quản lý một cách hài hòa, đảm bảo cho hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm hoạt động đúng quy luật, phát triển
theo trật tự của pháp luật.
2. Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay

7


Những thành tựu đạt được trong hoạt động quản lý nhà nước
bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam
trong những năm qua

Về tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu, ban hành pháp luật hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
Để tăng cường QLNN, phát huy vai trò của hoạt động hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, năm 1993, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm đầu tiên của nước ta. Theo Luật hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm 1993: Hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng, hoạt động hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nhằm mục đích phổ biến những tác phẩm về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ
thuật, giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới,
nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở
rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đồng thời, hoạt động hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm phải đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi
làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại đạo đức, nhân cách và lối sống tốt
đẹp của người Việt Nam. Tuy nhiên, trước tình hình đổi mới hiện nay, Luật
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 1993 và các văn bản cụ thể hóa
của nó đã trở nên bất cập, hạn chế. Do đó, Luật hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm 1993 đã bị thay đổi.
Những nỗ lực lớn trong tổ chức hoạt động xây dựng pháp luật hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được thể hiện rõ từ sau khi có Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm 1993 ra đời. Hơn 10 năm qua có gần 40 văn bản quy định pháp
8


luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm được ban hành ở cấp
Trung ương. Đó là những con số chứng tỏ sự nỗ lực, cố gắng của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này.

Với tổng số những văn bản kể trên, pháp luật hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm đã đạt được những thành tựu rất cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đã
xóa bỏ được sự lúng túng, bỡ ngỡ, buông lỏng quản lý của Nhà nước trong
những năm đầu chuyển đổi cơ chế.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta xóa bỏ bao cấp,
nhưng lại không kịp thời ban hành các chính sách kinh tế phù hợp đã đẩy
các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm vào tình thế bị động, tự
xoay xở, xa rời chức năng, nhiệm vụ. Trước tình hình thiếu sự quản lý của
Nhà nước, các tư nhân tham gia vào hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm, in, phát hành đã cho ra đời nhiều loại "sách đen", sách "đầu
nậu", làm phá vỡ cơ cấu đề tài hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Thực trạng này bị các nhà quản lý phê phán gay gắt và nhận thấy rằng cần
thiết phải có một hệ thống các chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh các quan
hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Kể từ khi Luật hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm 1993 ra đời đến nay, hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm đã có hành lang pháp lý rất thuận lợi, phát triển mạnh mẽ cả
về số lượng và chất lượng, đạt được những tiến bộ rất đáng khích lệ, không
còn sự lúng túng, bỡ ngỡ, hoạt động QLNN được tiến hành thường xuyên
hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, hệ thống pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm đã ghi nhận và cụ thể hóa những chủ trương, đường lối của Đảng
trong hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động QLNN bằng pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
9


bản phẩm thực hiện các vai trò của nó. Theo quan điểm của Đảng ta: Hoạt
động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm là hoạt động thuộc lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những hoạt động xuất

nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm đến nhiều người, không phải là hoạt động
đơn thuần kinh doanh. Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm trong cả nước. Công dân, tổ chức có quyền
phổ biến tác phẩm của mình và được Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, đồng
thời họ có quyền hưởng thụ những giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa học,
công nghệ của dân tộc và thế giới. Đó là những chủ trương rất tiến bộ của
Đảng ta trong sự nghiệp phát triển văn hóa nói chung, hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm nói riêng.
Thứ ba, pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đã tăng
thêm quyền cho nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, tạo điều
kiện để nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chủ động hơn trong
việc thực hiện công việc của mình.
Thứ tư, pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đã tạo
lập một hành lang pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế.
Trong những năm gần đây, nhu cầu hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm, in và phát hành hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm
của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng. Để phù hợp
với tiến trình hội nhập, hợp tác khu vực và quốc tế, đồng thời chuẩn bị điều
kiện để Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Lần đầu
tiên, Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 2004 có những quy
định cho phép nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nước ngoài
được mở văn phòng đại diện tại Việt Nam để giới thiệu về nhà hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, sản phẩm của nhà hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm, giao dịch về bản quyền và hoạt động xuất nhập khẩu
10


xuất bản phẩm phẩm. Bên cạnh đó, Điều 41 Luật hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm 2004 có quy định nhằm giảm bớt những thủ tục hành chính
khi các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm xuất khẩu các hoạt

động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm ra nước ngoài.
Về tổ chức thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay: Sau khi Luật
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm được Chủ tịch nước ký lệnh công
bố, Bộ Văn hóa -Thông tin đã chỉ đạo các cơ quan báo chí đăng toàn văn
Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nhằm phổ biến rộng rãi đến
các tầng lớp nhân dân. Cục hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm - Bộ
Văn hóa - Thông tin đã hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm cuốn
"Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm và các văn bản hướng dẫn"
với số lượng lớn để làm tài liệu cho các Hội nghị; mở các lớp tập huấn cho
cán bộ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm của các bộ, ngành
ở Trung ương và Sở Văn hóa - Thông tin các tỉnh, thành phố, cán bộ lãnh
đạo và biên tập viên của các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm,
các cán bộ lãnh đạo các cơ sở in và phát hành trong cả nước để phổ biến,
giới thiệu Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Các cơ quan chủ
quản của các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, các Sở Văn hóa
- Thông tin đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, mời báo cáo viên giới
thiệu những nội dung cơ bản của Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm cho các cán bộ quản lý, biên tập viên, cán bộ lãnh đạo nhà hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, cơ sở in và phát hành, giúp cho những
người hoạt động trong lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm,
in, phát hành nắm vững các quy định của Luật, tạo điều kiện cho họ thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện pháp luật trong QLNN được tốt hơn.
11


Về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
Khiếu nại, tố cáo là quyền quan trọng của công dân. Trong những

năm vừa qua, hoạt động khiếu nại, tố cáo trong hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm chủ yếu xảy ra trong các trường hợp:
+ Trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm.
+ Giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu.
+ Tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho các
hành vi vi phạm pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm...
Có thể nói, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm những năm vừa qua đạt được một
số kết quả đáng khích lệ. Các tranh chấp về quyền sở hữu được giải quyết
thỏa đáng; những cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho các
hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm khắc.
Để bảo đảm phát hiện và xử lý kịp thời, chính xác những hành vi vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, Luật hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 2004 quy định: cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền yêu cầu nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, cơ
quan, tổ chức được phép hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, tác giả
cải chính trên báo chí, bồi thường thiệt hại, khởi kiện về dân sự hoặc yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố về hình sự khi hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm có nội dung sai sự thật, vu khống, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm hoặc làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.

12


Những hạn chế yếu kém trong quản lý nhà nước bằng pháp luật
về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam trong những
năm qua

Về hoạt động xây dựng pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm ở Việt Nam
Thứ nhất, nhìn chung Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
đã ra đời kịp thời, nhưng một số văn bản hướng dẫn thi hành một số vấn đề
có tính quan trọng của nó lại chậm được ban hành, chậm sửa đổi. Nghị định
79/CP phải mất 4 tháng, Thông tư 38/VHTT là 10 tháng sau khi công bố
Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm mới được ban hành. Tính
hiệu lực của các văn bản hướng dẫn luật thấp. Nghị định 79/CP phải sửa
chữa lại theo yêu cầu của ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng của Quốc hội, vì đã hướng dẫn, giải thích sai và xa rời Luật
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, trong các vấn đề: kiểm duyệt tác
phẩm trước khi hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm; thẩm định nội
dung đối với các tác phẩm trước cách mạng tháng Tám, trong vùng bị tạm
chiếm cũ và sách dịch của nước ngoài.
Thứ hai, một số điều của Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm 1993 mới dừng lại ở việc định tính, chưa lượng hóa và cụ thể hóa.
Trong khi đó, các văn bản dưới luật lại không giải thích, hướng dẫn, quy
định gì thêm. Vì vậy, khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm
vi của vấn đề đặt ra rất bị hạn chế. Tình trạng tùy tiện, kể cả khả năng lợi
dụng trong quá trình thi hành của các chủ thể từ tổ chức và cá nhân tham
gia hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, đến các công chức
quản lý điều hành nhà nước, công chức hoạt động tư pháp rất dễ xảy ra. Ví
dụ: Điều 22 ghi nội dung cấm; điều 1 ghi tính chất của hoạt động hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Một số điều khoản được quy định rõ ràng,
13


nhưng khả năng thực thi rất thấp. Ngay việc dự thảo các văn bản hướng dẫn
thi hành đã lúng túng, khó xử lý, việc áp dụng, thực hiện càng khó hơn. Đó
là quy định việc thẩm định đối với các tác phẩm trước cách mạng tháng

Tám, trong vùng bị tạm chiếm cũ và sách dịch của nước ngoài tại Điều 17 Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 1993, Điều 6 - Nghị định
79/CP.
Về tổ chức thực hiện pháp luật
Thứ nhất, về kế hoạch hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Theo báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm 1993 thì: khâu đăng ký kế hoạch hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm hàng năm của các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm tương đối tốt. Tuy nhiên, việc đăng ký kế hoạch vẫn còn có
những hạn chế sau:
+ Một số nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm bổ sung kế
hoạch hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nhiều lần trong năm, hiện
tượng đăng ký "xếp chỗ" quá nhiều đề tài diễn ra phổ biến. Thực tế này làm
cho cơ quan QLNN rơi vào tình trạng quá tải khi xem xét, chấp nhận kế
hoạch hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, gây lãng phí về thời gian
và công sức.
+ Tình trạng "đội mũ" đề tài, chuyển từ đề tài sách thành dạng
chuyên đề, tạp chí in xong mới xin bổ sung kế hoạch hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm vẫn xảy ra nhiều.
+ Việc xem xét và chấp nhận đăng ký kế hoạch hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm còn thiếu cơ sở và điều kiện cần thiết, vì những nội
dung đòi hỏi đăng ký theo quy định của luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm quá sơ sài, không đủ thông tin kiểm soát đầu vào, để có những
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm lành mạnh ở đầu ra.
14


+ Nhu cầu về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nhất thời
luôn phát sinh, nhưng lại bị hạn chế trong việc cấp giấy phép, trong khi đó
kế hoạch của các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chỉ được bổ
sung vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và năm hoạt động xuất nhập khẩu xuất

bản phẩm.
+ Bộ Văn hóa - Thông tin vừa là cơ quan chủ quản, vừa là cơ quan
quản lý một số nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Cục hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm là cơ quan tham mưu và có một số
quyền cụ thể về QLNN do Bộ Văn hóa - Thông tin giao. Như vậy, việc xem
xét, chấp nhận đăng ký kế hoạch hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
của các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm thuộc Bộ Văn hóa Thông tin không thể giống như các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm ngoài bộ. Tình trạng Cục hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
xem xét lại, không chấp nhận quyết định của lãnh đạo Bộ, kể cả quyết định
của Thứ trưởng phụ trách ngành hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
trong việc phê duyệt kế hoạch đề tài của nhà hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm thuộc Bộ là trái với cơ chế QLNN.
Thứ hai, về lưu chiểu và kiểm tra lưu chiểu hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm phẩm.
- Lưu chiểu là một khâu quan trọng trong QLNN. Tuy nhiên việc
nộp lưu chiểu của một số nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
thực hiện chưa đầy đủ và đúng thời gian quy định (7 ngày trước khi phát
hành), đặc biệt là sách hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm nhất thời
của các địa phương hầu như không nộp lưu chiểu về Cục hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm Bộ Văn hóa - Thông tin. Nhiều cuốn sách phát
hành rồi mới nộp lưu chiểu, nên khi bị phát hiện có sai phạm, phải thu hồi
thì sách đã bán hết hoặc thu được số lượng rất hạn chế.
15


- Trong những năm qua, công tác lưu chiểu còn nhiều bất cập, có
thể nói rằng, khâu yếu nhất của công tác lưu chiểu là đọc lưu chiểu của cơ
quan QLNN về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Thực tiễn hơn 10
năm thi hành Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm cho thấy nhiều
sai phạm về nội dung của các hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm

phẩm lưu hành trên thị trường là do độc giả phát hiện, trong khi đó nhiệm
vụ quan trọng nhất của cơ quan QLNN về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm là không được để các tác phẩm có nội dung xấu xuất hiện trên thị
trường.
- Việc xử lý các tác phẩm có nội dung xấu, không có lợi cho xã hội
như: Chiều chiều; Những đứa con của đất; Đêm thánh nhân; Thơ linh...
hoặc hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm không có giấy phép, không
đúng với kế hoạch đăng ký vẫn chưa kịp thời, chưa dứt khoát nên đã phát
hành ra ngoài nhiều, gây ra sự bất bình trong dư luận, tình trạng công văn
"tạm ngừng phát hành" nhưng không có công văn giải tỏa còn khá phổ
biến.
Thứ ba, về tổ chức.
Hoạt động tổ chức của nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm đã bộc lộ một số hạn chế.
- Chưa xác lập được định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển lực
lượng trong cả nước. Các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Trong 11 nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm địa phương đang tồn tại, có tới 7 nhà hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm thuộc các tỉnh phía Nam, trong khi ở một số vùng văn hóa,
khuvực lại không có nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, như:
Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long...
16


- Việc sắp xếp lại hệ thống hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm, in, phát hành trên quy mô cả nước và trong từng ngành, từng địa
phương vẫn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bất hợp, vừa thừa, vừa thiếu
vẫn xảy ra, sự chồng chéo, "lấn sân" giữa các nhà hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm về tôn chỉ mục đích, chức năng, nhiệm vụ vẫn còn phổ

biến. Một số bộ, ngành đã có nhiều nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm, nhưng vẫn tiếp tục đề nghị thành lập nhà hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm mới. Hiện tại, số lượng cơ sở in và phát hành sách quá lớn,
một số cơ sở hoạt động kém hiệu quả, rất khó quản lý và dễ xảy ra sai
phạm; trong khi đó công tác QLNN chưa mang tính chủ động, toàn cục, mà
còn chạy theo thực tiễn để giải quyết những vụ việc cụ thể xảy ra.
- Do hoạt động theo các mô hình khác nhau, việc cấp vốn lưu động,
việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước cũng khác nhau, mặt khác, theo luật
định vai trò của cơ quan chủ quản là vô cùng quan trọng trong hoạt động
của nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, nhưng hầu hết gần như
khoán trắng cho nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm từ nội dung
đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Do vậy, để tồn tại trong cơ chế thị trường các
nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phải tự bươn chải, việc chạy
theo thị hiếu để có thu nhập và duy trì sự hoạt động cũng như hoàn thành
nghĩa vụ với nhà nước là điều không thể tránh khỏi.
Về xử lý vi phạm pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm
Trước thực trạng trên, hoạt động QLNN chưa có một biện pháp đủ
mạnh để ngăn chặn, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm còn nhiều hạn chế:
+ Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật chưa được tổ chức kịp thời,
chưa đưa ra được các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả tối ưu. Vì vậy,
17


các hành vi vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng, việc xử lý vi phạm trở
nên quá nặng.
+ Kết quả xử lý vi phạm pháp luật chưa phản ánh đúng thực trạng
yếu kém trong quản lý hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Việc xem xét, xử lý hành vi vi phạm pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu

xuất bản phẩm còn chưa nghiêm minh, kịp thời, vẫn còn tình trạng nể nang,
nương nhẹ, ngại đụng chạm hoặc đùn đẩy trách nhiệm.
+ "Rác, phế thải văn hóa" là những ổ dịch bệnh đã được các đại
biểu Quốc hội nhắc đến nhiều lần, dư luận xã hội phê phán mạnh mẽ, trong
khi đó, các quy phạm pháp luật đã được ban hành, nhưng các hành vi vi
phạm pháp luật vẫn diễn ra, có trường hợp các đương sự đã bị bắt nhưng lại
không được đưa ra xét xử, một số vụ án đã khởi tố, nhưng kéo dài.
+ Việc phạt hành chính, phạt tồn tại là phổ biến, nhưng mức xử phạt
đối với những hành vi này hiện nay còn quá nhẹ, hoàn toàn không đủ mức
răn đe trước những món lợi nhuận quá lớn. Một trường hợp in lậu và tái vi
phạm nhiều lần là vụ Nguyễn Hữu Chiến in lậu hàng chục đầu sách giáo
khoa tại cơ sở in đường Bắc Sơn năm 1995. Sau khi bị xử lý hành chính,
Nguyễn Hữu Chiến lại tiếp tục thực hiện công việc này tại Hà Nam vào
năm 1998 và bị bắt quả tang khi tang vật đang được trở về Hà Nội đóng
xén. Bị xử phạt một năm tù, nhưng sau khi ra tù việc in lậu sách vẫn được
Nguyễn Hữu Chiến duy trì bởi những món lợi không nhỏ; đầu năm 2005,
tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ kiểm tra một địa chỉ đã phát hiện việc in
lậu và tiêu thụ sách giáo dục, thu trên 20 tấn sách các loại, trong đó có 13
đầu sách tham khảo, tương đương với 22.844 cuốn. Tháng 4-2005, lực
lượng công an páht hiện tại một số quầy sách bán cuốn: Những điều cần
biết về tuyển sinh THCN 2005 của Nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm Giáo dục nhưng không được dán tem chống in lậu. Điều tra về tình
18


trạng này, lực lượng công an phát hiện xưởng in Nhà hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm Thống kê đã không dán 2000 tem chống in lậu của
Nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm và 2000 tem này vẫn được
lưu giữ tại xưởng. Vụ việc này được đánh giá là không loại trừ khả năng in
nối bản hay lợi dụng việc thiếu kiểm soát của nhà hoạt động xuất nhập

khẩu xuất bản phẩm để tuồn tem chống in lậu ra ngoài thị trường.
+ Việc thực hiện thẩm quyền kiểm tra, giám sát, bảo vệ pháp luật
của các cơ quan thuộc khối nội chính: công an, kiểm sát, tòa án, thuế; hải
quan... và sự tôn trọng quyền chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các cơ quan hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm là quan hệ
cần thể hiện sự rạch ròi và công minh của pháp luật.
3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
Ngành văn hóa thông tin luôn xác định hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm phẩm là loại hàng hóa đặc biệt, giá trị sử dụng của nó tác
động sâu sắc đến đạo đức, tình cảm lối sống của con người trong cộng
đồng xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy, phải được quản lý
chặt chẽ. Thị trường hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm hiện
nay cho thấy cần quản lý một cách cương quyết hơn, bởi nếu chúng ta
buông lỏng quản lý thì thực chất là chấp nhận sự thách thức của thị trường
đối với Nhà nước và pháp luật, tạo cơ hội cho các hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm phẩm có nội dung độc hại trà trộn, lén lút lưu hành, rồi
đến lúc chúng sẽ lưu hành công khai gây tác hại khôn lường cho nền kinh
tế, văn hóa, xã hội nước ta. Vì vậy, các cấp, các ngành từ Trung ương đến
địa phương phải nghiêm túc xem xét lại cơ chế, chính sách, biện pháp quản
lý để từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm. Từ đây, cần thực hiện các giải pháp sau:
19


Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm
Thứ nhất, về quyền hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm của
các tác giả có tác phẩm.
Từ năm 1957, tại Điều 14 - sắc luật 003/SLt đã ghi nhận quyền "tự

hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm lấy tác phẩm của mình" [38, tr.5].
Có thể nói, đây là một ý tưởng nhân văn sâu sắc về quyền tự do hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong
Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 1993 và hiện nay là Luật
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 2004 vẫn chưa kế thừa được quan
điểm tiến bộ này. Tại Điều 5 - Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm 2004 quy định tác giả có quyền phổ biến tác phẩm của mình dưới
hình thức hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm thông qua nhà
hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Điều đó có nghĩa tác giả không
được phép đứng ra hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm tác phẩm của
mình.
Để kế thừa những ý tưởng nhânv ăn của Sắc luật 003/SLt, đồng thời
dưới ánh sáng của quan điểm đổi mới, Nhà nước nên có chế độ riêng đối
với những trường hợp tác giả muốnt tự hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm tác phẩm của mình. Thực hiện vấn đề này, chúng ta sẽ đạt được
những kết quả sau:
- Khuyến khích những công dân bằng lao động của mình đã sáng
tạo ra các phẩm chất văn học, nghệ thuật, khoa học có giá trị. Đảm bảo
được các quyền lợi vật chất và tinh thần của tác giả phát sinh từ việc công
bố và phổ biến các tác phẩm của mình dưới hình thức hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm phẩm.

20


- Lao động sáng tạo của các tác giả sẽ được bù đắp thỏa đáng, khắc
phục được tình trạng phổ biến hiện nay là các tác giả được trả nhuận bút
quá ít ỏi so với lợi nhuận có được từ việc hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm các tác phẩm của họ.
- Trao quyền hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm cho các tác

giả sẽ đề cao được trách nhiệm của người cầm bút trước công chúng, dân
tộc và thời đại.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có quy định này, cũng cần có biện pháp
ngăn chặn việc lợi dụng pháp luật để trao quyền hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm cho người khác, cũng như các cá nhân lợi dụng tác giả để
nhận quyền hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm kiếm lời. Những tác
giả nào thực sự muốn tự hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm lấy tác
phẩm của mình thì các cơ quan QLNN có thẩm quyền mới xem xét cấp
giấy phép hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Khi phát hiện tác giả
trao quyền hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm cho người khác, cơ
quan QLNN có thẩm quyền thu hồi giấy phép hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm và xử phạt tùy theo tính chất và mức độ vi phạm.
Thứ hai, về chế độ kiểm tra lưu chiểu.
ở Việt Nam, hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
không bị kiểm duyệt. Đó là quyền tự do ngôn luận của công dân được ghi
nhận tại Điều 69 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa bằng chế độ "không kiểm
duyệt tác phẩm trước khi hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm" tạiĐiều
5 - Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm 2004. Tuy nhiên, từ quy
định này thì khâu hậu kiểm có vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo cho
hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phát triển đúng định
hướng. Vì vậy, Điều 28 - luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
2004 quy định về việc kiểm tra lưu chiểu.
21


Trong trường hợp phát hiện hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm phẩm vi phạm quy định của Luật này thì Bộ Văn hóa - Thông tin, ủy
ban ndjc ấp tỉnh có văn bản yêu cầu nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm, cơ quan, tổ chức được phép hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm tổ chức thẩm định nội dung và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy

định của pháp luật.
Thứ ba, về việc thành lập, ngừng hoạt động và đóng cửa nhà hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Để đạt được mục đích trên, pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm phải được bổ sung hoàn thiện, tạo một hành lang pháp lý để hình
thành các loại hình, quy mô tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm theo hướng sau:
- Thành lập các nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
chuyên sản xuất các chương trình đĩa âm thanh, đĩa hình, nhà hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chuyên sản xuất các loại sách điện tử thuộc
loại hình hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm ghi tại Điều 4 Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
- Về hình thức tổ chức nhà hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
có thể là Công ty đối với hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm của các hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phẩm bằng âm
thanh, hình ảnh, sách điện tử. Cũng có thể là nhà hoạt động xuất nhập khẩu
xuất bản phẩm có nhiều thành viên trực thuộc gồm hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm và các tạp chí chuyên ngành, cơ sở in, dịch vụ về vật
tư, kỹ thuật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, in, phát hành.
Thứ tư, về chính sách phát triển sự nghiệp hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm.

22


Tại khoản 3 - Điều 6 Luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
2004 quy định:
"Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng
thời điểm hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chưa thích hợp hoặc
đối tượng sử dụng hạn chế".
Tuy nhiên, điều luật này chưa thể hiện được tính minh bạch, rõ

ràng. Cụ thể như sau:
Một là, tác phẩm có giá trị là tác phẩm đạt những tiêu chuẩn như thế
nào? Có thể nó có giá trị với người này, nhưng lại không có giá trị đối với
người khác.
Hai là, thời điểm hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm chưa
thích hợp. Vậy thời điểm thích hợp là thời điểm nào, bao lâu sau khi mua
bản thảo đó.
Ba là, đối tượng sử dụng hạn chế. Khái niệm đối tượng sử dụng hạn
chế là bao nhiêu người, một người hay nhiều người, một nhóm người hay
một tầng lớp người trong xã hội.
Có thể nói, ba nội dung đề cập trong chính sách mua bản thảo đều
thiếu tính rõ ràng dễ có sự vận dụng khác nhau trong quá trình thực thi.
Nên chăng quy định việc mở rộng chính sách phát triển sự nghiệp hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm là mở rộng việc mua các loại bản thảo
và có chính sách xây dựng một ngân hàng bản thảo ở các cơ quan quản lý
và khi có điều kiện sẽ có hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm để có
thể điều chỉnh định hướng về mặt chính trị tư tưởng của thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm
Qua nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng pháp luật hoạt động
xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, chúng ta thấy vẫn còn nhiều bất cập, hạn
23


chế, cần phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện. Sự đổi mới, hoàn thiện cần chú
trọng vào những nội dung sau:
Thứ nhất, thực sự nhận thức được vị trí, vai trò to lớn của hoạt động
xây dựng pháp luật trong QLNN về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản
phẩm. Không chỉ đơn giản coi sự đổi mới, hoàn thiện đó chỉ là một chủ
trương, biện pháp trong cải cách hành chính nhà nước nói chung, mà phải

coi đó là một giải pháp hết sức cơ bản trong tăng cường QLNN bằng pháp
luật về hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, góp phần to lớn thúc đẩy
phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Từ nhận thức trên, cần có sự đầu tư thỏa đáng vào việc
phát triển đội ngũ cán bộ, đổi mới tổ chức và hoạt động xây dựng các văn
bản pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế xây dựng các văn bản pháp luật hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm theo các quy định của Luật ban hành
văn bản quy định pháp luật, trong đó tập trung vào một số hướng cơ bản:
+ Có sự phân công chặt chẽ giữa các cơ quan ban hành; cơ quan chủ
trì soạn thảo; cơ quan, tổ chức tham gia soạn thảo, thẩm tra; cơ quan, tổ
chức tham gia góp ý...
+ Coi trọng sự tham gia góp ý của các tầng lớp nhân dân với tinh
thần người thực hiện pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
phải là người xây dựng pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm,
họ phải được tham gia ngay từ đầu vào quá trình soạn thảo, thông qua các
văn bản đó.
+ Bộ Văn hóa - Thông tin cần tổ chức mời các chuyên gia giỏi về
xây dựng pháp luật đến giúp đỡ công việc xây dựng pháp luật.
Thứ ba, trong quá trình xây dựng pháp luật hoạt động xuất nhập
khẩu xuất bản phẩm, các cơ quan có thẩm quyền phải coi trọng và tuân thủ
24


các nguyên tắc và kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật một cách nghiêm
túc, thường xuyên tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp
luật nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm bảo đảm giải quyết tốt tất cả những vấn đề phát sinh thuộc lĩnh
vực này.
Thứ tư, trên cơ sở Luật ban hành văn bản quy định pháp luật làm rõ

phạm vi lập pháp của Quốc hội, phạm vi lập quy của Chính phủ, cán bộ
ngành, các cấp chính quyền địa phương. Trong xây dựng pháp luật hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm phải theo hướng: tập trung quyền lập
pháp vào Quốc hội, quyền lập quy vào Chính phủ, Luật hoạt động xuất
nhập khẩu xuất bản phẩm được ban hành phải bao hàm được những nội
dung cụ thể trong hoạt động hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, hạn
chế tối đa những nội dung cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với
những vấn đề cần văn bản hướng dẫn thi hành, phải được ban hành kịp
thời, thường xuyên sửa đổi, bổ sung để đáp ứng tốt nhu cầu QLNN về hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan QLNN về hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan QLNN về hoạt
động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, cũng như cải cách hành chính nói
chung, được tiến hành trên tất cả các phương diện. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về thể chế: Trên cơ sở hình thành về cơ bản và vận hành
thông suốt, có hiệu quả thể chế thị trường định hướng XHCN, cần nhanh
chóng đổi mới thể chế và cải cách thủ tục hành chính một cách căn bản.
Trước hết cần hạn chế đến mức tối đa căn bệnh quan liêu, giấy tờ, cửa
quyền, gây phiền hà của cơ quan QLNN về hoạt động xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm đối với các chủ thể hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm.
25


×