VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ QUYÊN
CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
ĐƠN THÂN NUÔI CON NHỎ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS LÊ THỊ HOÀI THU
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Lê Thị Hoài Thu
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Quyên
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Lê
Thị Hoài Thu là người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài này.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban Chủ nhiệm và tất cả các thầy, cô
trong Khoa Công tác xã hội- Học viện Khoa học xã hội Việt Nam đã trang bị kiến
thức và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn
tại Học viện.
Tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo huyện Quốc Oai, Phòng Lao động – Thương
binh và xã hội huyện Quốc Oai, Hội Phụ nữ huyện Quốc Oai, Ban chỉ đạo giảm
nghèo 21 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, đã giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành việc thu thập số liệu phục vụ luận văn
này.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình,
bạn bè đã luôn bên cạnh quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẨU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON NHỎ .........................................12
1.1. Lý luận về nghèo và phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ ...........................12
1.2. Công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ ............18
1.3. Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu đề tài ............................................21
1.4. Cơ sở pháp lý về hoạt động công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con nhỏ ..................................................................................................26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON NHỎ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUỐC
OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................31
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ...........................31
2.2. Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
nhỏ trên địa bàn huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội .........................................34
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con nhỏ trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội ..47
Chƣơng 3. ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VÀ
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI
CON NHỎ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..57
3.1. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong việc giảm nghèo bền vững
đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ ..........................................................57
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội nhóm đối với
phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành phố Hà
Nội.........................................................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC ...................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
BTXH
Bảo trợ xã hội
CLB
Câu lạc bộ
CTXH
Công tác xã hội
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
KHKT
Khoa học kỹ thuật
LHPN
Liên hiệp phụ nữ
LHQ
Liên Hợp Quốc
NVXH
Nhân viên xã hội
NVCTXH
Nhân viên Công tác xã hội
NXB
Nhà xuất bản
PNNĐT
Phụ nữ đơn thân
TP
Thành phố
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
XHH
Xã hội học
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU, HÌNH, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1. Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ của Huyện Quốc Oai- Hà Nội. .....32
Bảng 2.2. Kết quả thống kê mức độ tham gia của phụ nữ nghèo đơn thân vào các tổ
chức, Đoàn – Hội tại Huyện Quốc Oai, Hà Nội........................................................34
Bảng 2.3. Nội dung sinh hoạt nhóm đối với phụ nữ .................................................38
Bảng 2.4. Nhu cầu phụ nữ đơn thân và ưu tiên thực hiện .........................................39
Bảng 2.5. Hình thức tham vấn được phụ nữ đơn thân lựa chọn ...............................40
Bảng 2.6. Nội dung tham vấn nhóm mà phụ nữ nghèo đơn thân đã được tiếp cận ..41
Bảng 2.7. Mức độ hài lòng của hoạt động tham vấn tâm lý trong nhóm .................42
Bảng 2.8. Các yếu tố cần cải thiện để nâng cao hiệu quả tham vấn tâm lý ..............43
Bảng 2.9. Nội dung truyền thông, nâng cao nhận thức đã tổ chức cho phụ nữ nghèo
đơn thân nuôi con nhỏ năm 2017 tại huyện Quốc Oai ..............................................46
Bảng 2.10. Trình độ học vấn của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ ..................48
Bảng 2.11. Cơ cấu nghề nghiệp của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ ..............49
Bảng 3.1. Mô tả thành phần nhóm ............................................................................61
BIỂU
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động vay vốn từ các hình thức nhóm .......37
Biểu đồ 2.3. Số buổi truyền thông, nâng cao nhận thức cho phụ nữ đơn thân nghèo
nuôi con nhỏ qua các năm .........................................................................................45
Biểu đồ 2.4. Trình độ của cán bộ xã hội ...................................................................51
Biểu đồ 2.5. Đánh giá năng lực làm việc của nhân viên công tác xã hội .................52
HÌNH
Hình 1.1: Tháp nhu cầu của Maslow .......................................................................23
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Tương tác thành viên trong nhóm PNNĐT nuôi con nhỏ ..........................67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều hướng tới mục tiêu bình đẳng,
bác ái. Trong những mục tiêu đó, bình đẳng giới luôn là vấn đề được quan tâm
hàng đầu và được đầu tư nhiều mặt. Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng giới
đang diễn ra khá phổ biến ở hầu khắp các khu vực, các quốc gia và diễn ra ở tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nạn nhân của bất bình đẳng giới chủ yếu là
phụ nữ. Họ phải gánh chịu những quan niệm, định kiến bất công và bị phân biệt
đối xử trong đời sống xã hội.
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của nho giáo và chế độ
phong kiến, vì vậy, từ xa xưa tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu vào nếp nghĩ
của người Việt. Đảng và nhà nước ta đang nỗ lực đổi mới, hướng tới mục tiêu bình
đẳng giới bằng cách đưa ra những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện và
cơ hội bình đẳng cho phụ nữ trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động; hướng tới
giải phóng người phụ nữ; góp phần xây dựng một đất nước công bằng, văn minh.
Có thể thấy, trong những năm qua, phong trào phụ nữ và bình đẳng giới của nước ta
đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Phụ nữ Việt Nam đã có những bước trưởng
thành và phát triển mạnh mẽ, có những đóng góp to lớn trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hoá- xã hội, khoa học – công nghệ, xây dựng Đảng, Chính quyền và hợp tác
quốc tế. Nhận thức xã hội về bình đẳng giới được nâng lên. Phụ nữ được tôn trọng
và bình đẳng hơn, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được
cải thiện. Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hiệp quốc đánh giá là điểm sáng
trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình phụ
nữ và công tác phụ nữ còn nhiều mặt hạn chế, đồng thời lại có những vấn đề mới
đặt ra với nhiều thách thức. Phụ nữ bị hạn chế hơn nam giới về cơ hội có việc làm
và thu nhập do trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp còn thấp, phụ nữ thiếu
việc làm, di cư tự phát ra thành phố ngày càng tăng. Ở miền núi, vùng sâu, xa, tỷ lệ
phụ nữ mù chữ và phụ nữ nghèo còn cao.
1
“Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng” là quy luật bao đời nay vẫn vậy, là
người phụ nữ, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình hạnh phúc, có một
người chồng để sẻ chia, để được nương tựa, được sống đúng nghĩa một người vợ,
người mẹ. Nhưng đâu phải ai cũng được hưởng sự viên mãn, tròn trịa ấy, có những
người đã có chồng nhưng lại ly hôn hoặc chồng mất sớm phải nuôi con một mình,
hay có những chị mang trên mình một khiếm khuyết nào đó, hoặc do “duyên phận
lỡ làng”, “quá lứa nhỡ thì”, họ chấp nhận không xây dựng gia đình nhưng lại khao
khát được thực hiện thiên chức của một người mẹ, vì vậy họ quyết định lựa chọn có
con với một người đàn ông “dấu mặt”. Những người phụ nữ này luôn phải chịu
những định kiến xã hội, bị coi là “hư hỏng”, “không chồng mà chửa”, phải chịu sự
soi mói, khinh thường và dị nghị của những người xung quanh,… Tất cả những phụ
nữ ấy đều là những phụ nữ đơn thân nuôi con, họ gặp vô vàn những khó khăn trong
cuộc sống. Trong hoàn cảnh “một vai hai gánh”, người phụ nữ đơn thân phải gồng
mình lên để bươn trải kiếm sống không chỉ để nuôi bản thân mình mà còn nuôi con.
Không chỉ là một người mẹ đơn thuần mà họ còn phải gánh vác cả trách nhiệm
của người chồng, người cha trong gia đình. Ngày nay, quan niệm về người phụ nữ
đơn thân không còn quá khắt khe như trước, song vẫn còn đó vô vàn những khó
khăn mà họ phải đối mặt. Đây là đối tượng rất cần sự quan tâm, trợ giúp của cộng
đồng, xã hội để có thể vượt lên khó khăn, vượt lên chính họ, hòa nhập cộng đồng.
Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về xã hội hay một tổ chức nào đó, mà nó đã trở
thành một trong những lĩnh vực mà ngành Công tác xã hội (CTXH) cần quan tâm
để có những giải pháp can thiệp, hỗ trợ hiệu quả nhất.
Huyện Quốc Oai, thành phố (TP) Hà Nội là một huyện ngoại thành, nông
nghiệp vẫn là nguồn nhập chủ yếu và còn mang nặng tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”. Theo thống kê của Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) huyện và phòng Lao động
– Thương binh và xã hội huyện, tính đến năm 2016, toàn huyện có hơn 400 phụ
nữ đơn thân nuôi con nhỏ, trong số đó có tới 121 phụ nữ thuộc diện hộ nghèo
{đối tượng phụ nữ nghèo đơn thân (PNNĐT) nuôi con nhỏ} [25], họ đang gặp vô
vàn những khó khăn và đây là một nhóm yếu thế trong xã hội rất cần được nhìn
nhận và quan tâm đúng mực, cần được nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học và
2
bài bản để từ đó có thể đưa ra các giải pháp, mô hình hỗ trợ hiệu quả và mang tính
bền vững.
Với vai trò là một công chức cấp xã phụ trách mảng Lao động – thương binh,
xã hội của địa phương tác giả nhận thấy bản thân cần có trách nhiệm với đối tượng
mình đang quản lý, sử dụng những kiến thức và kỹ năng chuyên môn đặc thù ngành
CTXH để hỗ trợ nhóm PNNĐT nuôi con nhỏ vượt qua khó khăn, vươn lên trong
cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Công tác xã hội
nhóm đối với phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ từ thực tiễn huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Công tác xã hội.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu đề tài
Trong các nhóm phụ nữ yếu thế ở Việt Nam hiện nay thì nhóm PNNĐT là
nhóm ít nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ phía cộng đồng, xã hội. Trong các nghiên
cứu khoa học xã hội thì vấn đề phụ nữ đơn thân nói chung và phụ nữ đơn thân nuôi
con cũng ít được bàn tới. Vấn đề này chỉ được đề cập đan xen trong các công trình
nghiên cứu về phụ nữ nông thôn, các nghiên cứu về ly hôn và các công trình nghiên
cứu về nhóm phụ nữ nghèo. Trong quá trình tìm kiếm tài liệu, tác giả nhận thấy
rằng tính đến thời điểm hiện nay những nghiên cứu riêng về phụ nữ đơn thân ở Việt
Nam chỉ có một vài nghiên cứu, ngoài ra chủ yếu là các bài viết trên các tạp chí và
các bài báo
2.1. Những nghiên cứu về quyền của phụ nữ
Phát biểu tại diễn đàn “Bình đẳng giới và giảm nghèo bền vững”, Chủ nhiệm
Ủy ban các vấn đề xã hội Trương Thị Mai nhấn mạnh: “Phụ nữ phải gánh chịu ảnh
hưởng của nghèo đói nhiều hơn nam giới và họ chính là những người nghèo nhất
trong số những người nghèo” (Ngày 02/6/2008, Diễn đàn Bình đẳng giới và giảm
nghèo bền vững tại Hà Nội, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội), chính vì vậy,
những nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong kinh tế hộ gia đình, xóa đói giảm
nghèo bền vững trong những năm gần đây đã được thực hiện rất nhiều. [1]
“Quyền của phụ nữ” – khía cạnh được đề cập đến ở nhiều lĩnh vực khác nhau
như pháp luật, góc nhìn xã hôi, vấn đề an sinh và quyền con người. Về vấn đề này
3
có một số công trình nghiên cứu nổi bật như luận văn thạc sĩ “Quyền của phụ nữ
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Mai Hiên – khoa luật trường Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề về quyền của phụ
nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam. Phân tích thực trạng và thực tiễn
thi hành pháp luật về các quyền của phụ nữ Việt Nam trong một số lĩnh vực như
chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa, thông
tin, thể thao, y tế….Đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quyền của phụ nữ và những giải pháp này nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. [3]
Cũng đề cập đến vấn đề quyền của phụ nữ, Thông tấn xã Việt Nam có bài
viết “LHQ kêu gọi gia tăng quyền cho phụ nữ vùng nông thôn” (Đăng tải ngày
16/12/2012) đã phát động thông điệp khẳng định việc không ngừng mở rộng
quyền và khả năng của phụ nữ nông thôn. Ngoài ra thông điệp của ông Bankimoon – Tổng thư kí LHQ cũng đã khẳng định: “Trách nhiệm giải quyết tình
trạng phân biệt đối xử đang thuộc về mọi quốc gia, mọi dân tộc, sắc tộc và tôn
giáo, phải làm sao để phụ nữ có được tối đa quyền phát triển”, việc này có ý
nghĩa đặc biệt to lớn trong việc xóa bỏ nghèo đói bần cùng và tình trạng phân
biệt đối xử với phụ nữ, bất bình đẳng giới và nó cũng rất có ý nghĩa khi mà hầu
hết những người phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ ở những vùng nông thôn đều
phải chịu sự phân biệt đối xử này. [15]
Quyền của phụ nữ được đề cập đến trong “Hiến pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”, bên cạnh những điều khoản thể hiện quyền và lợi ích của
công dân nói chung, hiến pháp cũng có những quy định cụ thể về việc đảm bảo
quyền và lợi ích cho đối tượng phụ nữ. Đây là căn cứ để chúng ta có thể trợ giúp
cho những đối tượng là phụ nữ đơn thân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
cũng như việc bảo vệ các lợi ích chính đáng của họ. Cụ thể, trong điều 40 của hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định “Nhà nước, xã hội và mọi công dân có
trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc cho bà mẹ và trẻ em”; trong điều 52, chương 5 – Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật”. Hay tại điều 63 của chương này cũng khẳn định: “Công dân nữ và nam có
4
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ
có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công
ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo
quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình
độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển
các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ
gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh,
nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ”. [27]
2.2. Nghiên cứu về chính sách đối với phụ nữ
Chính sách xã hội được coi như hành lang pháp lý trong việc trợ giúp cho
phụ nữ đơn thân. Cuốn sách “Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn – Quá
trình xây dựng và thực hiện” của tác giả Lê Thi, NXB khoa học xã hội, năm 1998
đã phân tích, lý giải và chỉ ra yêu cầu cần phải có những chính sách xã hội dành cho
đối tượng là phụ nữ nông thôn. Trong đó, tác giả chỉ ra những điều kiện thiệt thòi
của phụ nữ đơn thân và khuyến nghị với các nhà hoạch định chính sách cần phải lưu
ý đến các vấn đề như: Chế độ ưu đãi đối với những nữ thanh niên xung phong đang
sống cô đơn; chính sách ưu tiên, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho phụ nữ góa (chồng
đã từng tham gia phục vụ kháng chiến); kiểm tra, thực thi các điều luật về Hôn nhân
gia đình để đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ sau ly hôn, ly thân. [12]
2.3. Những nghiên cứu về phụ nữ đơn thân
Phụ nữ đơn thân có rất nhiều loại hình: Đơn thân do chồng mất, đơn thân do
ly hôn, ly thân, đơn thân do bị chồng ruồng bỏ…. Đối với mỗi một loại hình. người
phụ nữ đơn thân lại có những hoàn cảnh và vấp phải những khó khăn khác nhau.
Trong cuốn sách “Ly hôn – nghiên cứu trường hợp Hà Nội” của Trung tâm nghiên
cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ, NXB Khoa học xã hội, năm 2002 đã chỉ ra
hậu quả mà ly hôn để lại phần nhiều ảnh hưởng đến phụ nữ và con cái của họ.
Nghiên cứu đã mô tả thực trạng cuộc sống cũng như tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng
của phụ nữ đơn thân nuôi con sau ly hôn qua một số trường hợp điển cứu. [20]
5
Nghiên cứu tiếp theo mà tác giả muốn đề cập đến là cuốn sách “Cuộc sống
của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam” của Trung tâm nghiên cứu Khoa
học về Gia đình và Phụ nữ. Cuốn sách là công trình nghiên cứu GS Lê Thi về phụ
nữ đơn thân ở Việt Nam. Tác giả công trình đã tập trung làm rõ các vấn đề như: Phụ
nữ đơn thân - họ là ai; những quan niệm, định kiến xung quanh phụ nữ đơn thân,
thực trạng cuộc sống của họ, những khó khăn mà những người phụ nữ đơn thân
phải đương đầu. Nghiên cứu cũng chỉ ra tâm lý và nhu cầu của người phụ nữ đơn
thân. Đặc biệt, nghiên cứu đã dành riêng một phần để tìm hiểu và đánh giá về vai
trò của gia đình, cộng đồng và xã hội trong việc hỗ trợ những đối tượng này. [13]
Cuộc sống của những gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng ở nông thôn miền
Bắc Việt Nam trong bối cảnh đất nước những năm 80, đầu 90 cũng được trình bày
khá chi tiết trong cuốn sách “Gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng” của Trung tâm
nghiên cứu Gia đình và Phụ nữ (xuất bản năm 1996). Đây là kết quả nghiên cứu của
dự án Nghiên cứu những gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng, bắt đầu tiến hành từ
năm 1989, dưới sự tài trợ của tổ chức SAREC của Thụy Điển. Các tác giả đã đi sâu
phân tích từng loại hộ gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng đó phụ nữ góa bụa, ly hôn,
ly thân, bị chồng ruồng bỏ, không có chồng nhưng có con…, điều kiện sinh sống,
hiện trạng kinh tế và đời sống tình cảm của họ, những khó khăn mà họ gặp phải,
bên cạnh đó có sự so sánh với các gia đình đầy đủ cả vợ và chồng. Theo các tác giả,
ở khu vực nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam, phần lớn số người được hỏi cho
rằng vấn đề khó khăn về kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống gia đình, nhất là
trong việc chăm sóc, nuôi dậy con cái. [19]
2.4. Những nghiên cứu về phát triển kinh tế đối với phụ nữ, phụ nữ đơn
thân
Một nghiên cứu khác thuộc nhóm này là “Vai trò của phụ nữ nông thôn
trong phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Hồng” do trung tâm nghiên cứu khoa học
về Phụ nữ và Gia đình cũng đã tiến hành năm 2006. Đề tài tập trung nghiên cứu cứu
cụ thể: Đặc điểm của khu vực nghiên cứu (đồng bằng sông Hồng) và vai trò của phụ
nữ trong phát triển kinh vấn đề vai trò của phụ nữ nông thôn trong đổi mới kinh tế.
Các nội dung nghiên tế nông thôn và cụ thể trong phát triển kinh tế hộ gia đình ;
6
Những khó khăn và thuận lợi đối với phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế gia
đình; Đánh giá tiềm năng của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn và một số
khuyến nghị cho hoạch định chính sách đối với phụ nữ khu vực nông thôn. [21]
Luận văn thạc sỹ xã hội học của tác giả Hà Thị Thu Hòa về: “Hoạt động
giảm nghèo đối với phụ nữ nghèo tại ngoại thành Hà Nội” (Nghiên cứu trường hợp
hai xã Cổ Nhuế và Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội) năm 2008, đã đi sâu tìm
hiểu về thực trạng nghèo đói của các hộ gia đình ở hai xã Cổ Nhuế và Xuân
Phương. Luận văn đã làm rõ được hoạt động của các đoàn thể với công tác xóa đói
giảm nghèo đặc biết là Hội Liên hiệp phụ nữ của hai xã. Đồng thời, luận văn đã đưa
ra được một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động của các tổ chức quần chúng
trính chị - xã hội trong hoạt động xóa đói giảm nghèo tại địa bàn xã Xuân Phương
và xã Cổ Nhuế. [4]
Luận văn thạc sĩ xã hội học của tác giả Võ Thị Cẩm Ly với đề tài: “Phụ nữ
nghèo ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An: thực trạng, nguyên nhân và chiến lược thoát
nghèo” (năm 2010) đã phân tích thực trạng đời sống của phụ nữ nghèo ở thành phố
Vinh, thu thập các nguồn dữ liệu định tính và định lượng cần thiết liên quan và tìm hiểu
các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng nghèo của phụ nứ nghèo.
Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra được các chiến lược mà họ đã và đang sử dụng để nỗ
lực đưa bản thân và gia đình thoát nghèo. Luận văn đã dự báo được các xu hướng hành
vi tìm cơ hội thoát nghèo của phụ nữ nghèo trong hiện tại và tương lai. [7]
Đối với đề tài phụ nữ đơn thân nghèo, có thể kể đến đề tài “Thực trạng công tác
hỗ trợ phụ nữ đơn thân phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Bá Xuyên, thị xã Sông
Công, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Chu Thị Thu Trang, trường Đại học Khoa học –
Đại học Thái Nguyên trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ.
Qua khảo sát, tìm hiểu cuộc sống của phụ nữ đơn thân tại xã Bá
Xuyên, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên cho thấy PNĐT là một trong những
nhóm phụ nữ yếu thế, gặp rất nhiều vấn đề khó khăn. Vấn đề nổi bật mà các hộ gia
đình phụ nữ đơn thân
ở đây gặp phải là những khó khăn về kinh tế. Mặc dù chính
quyền địa phương đã có rất nhiều nỗ lực trong hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế cho
phụ nữ nói chung và phụ nữ đơn thân trên địa bàn xã nói riêng, nhưng tỷ lệ nghèo và
7
cận nghèo trong nhóm phụ nữ đơn thân
năm 2012 vẫn chiếm trên 40%. Để
giúp họ thoát khỏi tình trạng nghèo đói, đòi hỏi phải có sự chung tay giúp sức của cả
cộng đồng, xã hội. Các nguồn lực hỗ trợ từ phía cộng đồng sẽ tạo cơ hội và điều kiện
để họ nâng cao năng lực phát triển kinh tế, phát huy vai trò của mình trong việc xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc dù đó là một gia đình khuyết thiếu. [18]
Như vậy, tất cả các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ đơn thân gặp phải rất
nhiều khó khăn trong cuộc sống và họ nghèo về nhiều mặt: nghèo về tinh thần, nghèo
cả về vật chất. Có rất nhiều dạng rất nhiều loại hình: Đơn thân do chồng mất, đơn thân
do ly hôn, ly thân, đơn thân do bị chồng ruồng bỏ, tất cả đều vô cùng khó khăn và họ
có mặc cảm, tự ti với cuộc sống hiện tại. Các nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp
giúp phụ nữ đơn thân phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, khẳng định quyền làm
chủ cuộc sống của họ. Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu đi sâu vào khai thác nhóm
phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những lý luận và thực trạng về CTXH nhóm đối với phụ nữ nghèo
đơn thân nuôi con nhỏ các yếu tố ảnh hưởng; từ đó ứng dụng phương pháp CTXH nhóm
và đề xuất biện pháp CTXH góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với nhóm
phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ từ thực tiễn huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đề tài hướng vào giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ,
CTXH, CTXH nhóm, CTXH nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ, lý thuyết
ứng dụng CTXH nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ: xác định các yếu tố
ảnh hưởng đến việc can thiệp với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ trên địa bàn
nghiên cứu.
- Khảo sát, phân tích thực trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con nhỏ.
8
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con nhỏ.
- Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong can thiệp, trợ giúp phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con nhỏ.
- Đề xuất biện pháp góp phần thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với
phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ trong địa bàn nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
CTXH nhóm đối với phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ từ thực tiễn huyện Quốc
Oai, TP Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên các hoạt động công
tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ là chủ đạo, bao gồm: hoạt
động tham gia vào các tổ chức Đoàn – Hội, hoạt động tham vấn tâm lý, hoạt động trợ
giúp nuôi dạy con cái.
Phạm vi về khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ
thuộc hộ nghèo trên địa bàn huyện Quốc Oai, TP Hà Nội (gọi tắt là phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con nhỏ. Số lượng PNNĐT được nghiên cứu là 121 người. Đây là nhóm đối
tượng chính mà đề tài hướng tới. Ngoài ra, khách thể nghiên cứu còn có lãnh đạo Hội
Phụ nữ cấp xã, cấp huyện, các lãnh đạo xã, thị trấn tại huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.
Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu 21 xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử cùng hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
can thiệp, hỗ trợ PNNĐT nuôi con nhỏ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
9
- Đọc, nghiên cứu các tài liệu, sách báo, các đề tài luận văn thạc sỹ, tiến sỹ… về
công tác xã hội nhóm, về nhu cầu, đặc điểm của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
nhỏ… để khái quát những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
- Các báo cáo: Báo cáo tổng kết hàng năm của Hội phụ nữ về công tác xã hội,
về chính sách giảm nghèo cho phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ nhằm bổ sung cho
thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Các chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho cho phụ nữ nghèo đơn thân nuôi
con nhỏ.
5.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Tác giả xây dựng bảng hỏi với câu hỏi đóng và câu hỏi mở soạn sẵn, người điều
tra bảng hỏi, hướng dẫn cách trả lời, người được hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu
bản. Mục đích nhằm thu thập thông tin khảo sát từ phía người được hỏi bằng bộ câu
hỏi đã được thiết kế sẵn.
+ Cỡ mẫu: 121
+ Cách thức chọn mẫu: chọn toàn bộ 121 phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ thuộc
hộ nghèo trên địa bàn huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.
+ Địa bàn khảo sát: 21 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu với nhóm, là những cuộc đối thoại được lặp
đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin cá nhân của những phụ nữ
nghèo đơn thân khác nhau để so sánh kết quả bổ trợ thêm cho các kết quả nghiên cứu
từ điều tra viết.
Thực hiện phỏng vấn sâu với 30 đối tượng gồm: 21 phụ nữ nghèo đơn thân nuôi
con nhỏ, 03 thành viên Ban chỉ đạo giảm nghèo cấp huyện, 03 trưởng Ban chỉ đạo
giảm nghèo cấp xã, 03 Chủ tịch Hội Phụ nữ cấp xã.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Dưới góc độ tiếp cận của lý thuyết xã hội học, lý thuyết công tác xã hội đặc biệt
là CTXHN cùng với việc sử dụng các kỹ năng và các phương pháp thu thập, phân tích
10
thông tin, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm nguồn lý luận phong
phú cho việc ứng dụng các lý thuyết và các phương pháp này trong thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích ứng dụng tiến trình CTXHN với
phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ dựa trên khảo sát chính nhu cầu của họ. Việc ứng
dụng tốt tiến trình này sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho họ bởi thông qua đó họ
có cơ hội bày tỏ, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống, những tâm tư nguyện vọng
cũng như những đường hướng để vươn lên XĐGN, ổn định cuộc sống.
Nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho địa phương vận dụng, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
công tác giảm nghèo cho phụ nữ. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng giúp ích cho các
tổ chức hoạt động vì cộng đồng trong việc định hướng can thiệp giảm nghèo cho các
nhóm yếu thế trong xã hội đặc biệt là nhóm phụ nữ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về công tác xã hội với phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con nhỏ.
Chương 2. Thực trạng Công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con nhỏ trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Ứng dụng phương pháp Công tác xã hội nhóm và đề xuất biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả Công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con nhỏ từ thực tiện huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON NHỎ
1.1. Lý luận về nghèo và phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ
1.1.1. Lý luận về nghèo
Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau.
Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu Á -Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau:
"Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của địa phương”.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith cũng quan niệm: "Con người bị coi là nghèo
khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ
rệt dưới mức thu nhập cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong
cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mực".
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa
định nghĩa về nghèo: "Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới
một đô la mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm cần thiết để tồn tại."
Nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình "Xoá
đói giảm nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa: "Nghèo là tình trạng
thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào
lĩnh vực kinh tế".
Xác định giàu nghèo là một việc khó vì nó gắn với từng thời điểm, từng quốc
gia, và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa
chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, gồm 2 tiêu chí là thu nhập và mức độ thiếu
hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. [17]
12
Tiêu chí về thu nhập, chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000 đồng/
người/ tháng; khu vực thành thị 900.000 đồng/ người/ tháng. Chuẩn cận nghèo khu
vực nông thôn là 1.000.000 đồng/ người/ tháng; khu vực thành thị 1.300.000 đồng/
người/ tháng.
Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm 5 dịch vụ:
y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Chỉ số đo lường mức độ thiếu
hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: Tiếp cận các dịch vụ y tế; BHYT;
trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện
tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/ nhà tiêu hợp vệ sinh;
sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Tiếp cận theo hướng đa chiều, những người ở nông thôn có thu nhập từ
700.000 đồng trở xuống, hoặc thu nhập từ 700.000 đồng đến 1 triệu đồng nhưng
thiếu 3 chỉ số tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản sẽ được coi là nghèo; đối với dân cư
sống tại thành thị cũng tương tự, người nghèo là người có thu nhập từ dưới 900.000
đồng, hoặc thu nhập từ 900.000 đồng đến 1,3 triệu đồng nhưng thiếu hụt 3 chỉ số
tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Mức chuẩn nghèo trên là căn cứ để đo lường và giám sát mức độ thiếu hụt về
thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; là cơ sở xác định đối
tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội; hoạch định các
chính sách kinh tế-xã hội khác trong giai đoạn 2016-2020.
1.1.2. Lý luận về phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ
1.1.2.1. Một số khái niệm
Khái niệm Phụ nữ
Đề tài sử dụng khái niệm phụ nữ như sau: “Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất
cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho
thấy một cái nhìn trung lập, hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía
người sử dụng. Nó đề cập đến, hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất
là không xấu đến những giá trị, đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ những nữ
giới này”. [18]
Khái niệm Phụ nữ đơn thân - Phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ
13
Khi nói đến khái niệm phụ nữ đơn thân ai cũng nghĩ rằng đó là một khái niệm
dễ hiểu, bởi bản thân cụm từ “đơn thân” dường như đã phản ánh bản chất của khái
niệm này. Tuy nhiên, khi đi vào phân tích để đưa ra được một khái niệm cụ thể, chi
tiết thì đó lại là điều không dễ.
Cũng trong một cuốn sách khác của GS. Lê Thi, cuốn sách mang tên “Single
women in Viet Nam” (Cuộc sống của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam),
bà đã đưa ra một định nghĩa khá cụ thể về khái niệm phụ nữ đơn thân: “Họ là
những phụ nữ chưa kết hôn hoặc đã từng kết hôn nhưng vợ chồng họ sống xa cách
với nhiều lý do khác nhau”. [13]
Tác giả Lê Thi chia phụ nữ đơn thân thành hai nhóm chính:
- Phụ nữ đã kết hôn: Bao gồm những người phụ nữ rơi vào tình trạng góa bụa,
ly hôn, ly thân hoặc thiếu vắng chồng trong một thời gian dài.
- Phụ nữ chưa kết hôn: Những người phụ nữ không lấy chồng hay không bao
giờ lấy chồng. Những người phụ nữ này lại được chia thành hai nhóm, đó là: Những
người phụ nữ không lấy chồng nhưng lại có con ngoài giá thú hoặc nhận con nuôi
và những người phụ nữ sống độc thân, không xây dựng gia đình.
Nếu theo cách hiểu này thì chúng ta lại đặt ra một câu hỏi: Tại sao một số
người phụ nữ chưa có chồng lại xếp vào nhóm phụ nữ đơn thân? Điều này được lý
giải như sau: Ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, những người phụ nữ
ngoài 30 tuổi sẽ rất khó khăn trong việc kết hôn, xây dựng gia đình bởi ở độ tuổi
này người phụ nữ bị coi là già, bị gọi là những người phụ nữ “quá lứa nhỡ thì” hay
còn cách gọi khác là “gái già”. Những người phụ nữ này họ cô đơn về mặt tình
cảm, họ phải tự trang trải cho cuộc sống của bản thân. Vì vậy, họ cũng được xếp
vào nhóm phụ nữ đơn thân.
Dựa vào hai khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu phụ nữ đơn thân: Là những
người phụ nữ chưa lấy chồng hoặc không muốn lấy chồng, những người phụ nữ góa
bụa, ly hôn, ly thân hoặc bị chồng ruồng bỏ. Họ có thể có con (hay con nuôi) hoặc
không có con. Họ có thể sống một mình hay sống cùng con cái, gia đình, họ hàng.
Tuy nhiên, đề tài chỉ đề cập đến những phụ nữ đơn thân đang nuôi con dưới 18 tuổi,
14
vì vậy những người phụ nữ đơn thân không có con hoặc có con nhưng con của họ
đã ở độ tuổi trưởng thành thì không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ là một đối tượng hưởng trợ cấp Bảo trợ
xã hội ở nước ta, theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP, họ được xếp vào nhóm đối
tượng Người đơn thân nuôi con nhỏ thuộc hộ nghèo. [16]
Theo khoản 4 Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-CPcó quy định: “Người đơn
thân nghèo đang nuôi con nhỏ là người thuộc hộ nghèo không có chồng hoặc không
có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy định của pháp
luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng
người con đó đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học văn bằng thứ nhất”. [16]
Theo điểm g, h Khoản 1 Điều 6 Nghị định 136/2013/NĐ-CP áp dụng cho
phụ nữ nghèo đơn thân đang nuôi con nhỏ: Người thuộc hộ nghèo không có chồng;
có chồng đã chết; có chồng mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con
dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng người con đó đang
học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ
nhất sẽ được hưởng trợ cấp hang tháng ở mức: Hệ số 1,0 đối với người đang nuôi 1
con (tương đương với 270.000đ/tháng); Hệ số 2,0 đối với người đang nuôi 02 con
trở lên (tương đương với 540.000đ/tháng. [16]
Riêng đối với thành phố Hà Nội, mức hỗ trợ cao hơn so với mức trung bình
của cả nước được quy định tại NĐ 136 là hệ số 1,0 là 350.000đ/tháng, hệ số 2,0 là
700.000đ/tháng.
1.1.2.2. Những khó khăn của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ
Một phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ gặp vô vàn khó khăn trong cuộc sống,
cả trong đời sống vật chất cũng như tinh thần. Họ phải gánh lấy trách nhiệm và vai trò
của cả người cha lẫn người mẹ, phải chu toàn cùng lúc công việc ngoài xã hội cũng
như trong gia đình và phải gánh chịu những luồng dư luận hà khắc trong xã hội. [13]
Khó khăn về kinh tế
Phụ nữ đơn thân phải làm việc nhiều hơn, điều đó khiếnhộ gặp nhiều sức ép
tâm lý, cũng như ảnh hưởng đến sức khoẻ. Đồng thời cũng lấy của họ nhiều thời
15
gian mà đáng lẽ ra đó là thời gian họ dành cho con cái và bản thân mình. Nỗi lo
“cơm áo gạo tiền” gây cho phụ nữ đơn thân rất nhiều áp lực và đôi khi khiến họ có
cư xử hay tác động tiêu cực đến con cái. Đối với những người phụ nữ đơn thân
nghèo nuôi con nhỏ, họ dựa chủ yếu vào nguồn trợ cấp Bảo trợ xã hội ít ỏi của nhà
nước, họ không tự quyết định được cuộc sống của mình và rất khó để thay đổi được
cuộc đời.
Quá bận rộn với công việc
Là phụ nữ đơn thân, họ phải một mình lo mọi việc và không tránh khỏi bị
quá tải công việc. Họ phải tìm cách để xoay sở cho cuộc sống của mình, không chỉ
làm việc cật lực, họ còn lo nhiều việc khác, đặc biệt là chăm con, một mình họ
ghồng gánh, chèo lái gia đình. Đây là những áp lực không nhỏ khiến cho những phụ
nữ đơn thân có nhiều suy nghĩ tiêu cực.
Thiếu thốn tình cảm
Đây là điều có lẽ những người phụ nữ đơn thân luôn gặp phải, không tránh
khỏi những lúc họ có cảm giác cô đơn chỉ có một mình, nhất là vào mỗi đêm hoặc
khi chứng kiến những gia đình hạnh phúc, có vợ có chồng. Dù họ có muốn hay
không muốn đến với mối quan hệ mới và luôn có con ở bên cảm giác cô đơn vẫn
không mất đi trong họ. Hơn bao giờ hết họ vẫn muốn được chia sẻ nỗi niềm của
mình và tâm sự giấu kín trong lòng, khi một mình phải lo toan tất cả mọi thứ, họ
gần như không có thời gian tụ tập với bạn bè, không có sự chia sẻ đây là điều càng
khiến họ luôn cảm thấy cô đơn. Họ khát khao có một mái ấm trọn vẹn, và hơn ai
hết, họ mong cho những đứa con của mình có một người cha như bao đứa trẻ khác.
Gặp khó khăn trong việc giáo dục con cái
Những đứa con của các phụ nữ đơn thân luôn gặp nhiều khó khăn khi là
không có một người cha bên cạnh, trong khi những người phụ nữ ấy luôn cố gắng
dành những điều tốt đẹp nhất cho con, để con thoải mái, an toàn và được yêu
thương thì có những khoảnh khắc những đứa trẻ ấy thấy như bị bỏ rơi và thiếu sự
quan tâm, chăm sóc. Có thể chúng sẽ tỏ ra cáu giận, chán nản thậm chí là nổi loạn,
những tình huống như vậy khiến những người phụ nữ đơn thân gặp khó khăn trong
việc đặt ra các quy định cho con của mình. Hoặc họ quá nuông chiều con để bù đắp
16
cho sự thiếu thốn tình cảm của người cha thì vô tình, họ đã làm hư con cái và khó
có thể dạy dỗ chúng theo ý của họ.
Khó khăn từ định kiến xã hội
Có thể nói, cuộc sống của những người phụ nữ đơn thân khó có niềm vui
trọn vẹn, vì từ điều kiện cuộc sống, những ứng xử, đối xử trong gia đình, cộng đồng
làng xóm dễ ảnh hưởng đến tâm trạng, tình cảm, mặc cảm riêng tư của chị em.
Những người phụ nữ góa chồng khác với những phụ nữ không lấy chồng mà vẫn có
con hoặc phụ nữ ly hôn. Những từ ngữ “ế chồng, không chồng mà chửa, chửa
hoang,….” Đã vô hình chung khiến cho phụ nữ đơn thân rơi vào tình trạng mặc cảm
nặng nề, thiếu tự tin. Những quan niệm lạc hậu trong xã hội khiến cho phụ nữ đơn
thân phải chịu đựng cảnh “nước mắt chảy vào trong”.
1.1.2.3. Những nhu cầu của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ
Cũng giống như những người phụ nữ khác, PNNĐT nuôi con nhỏ có nhu cầu
của một người phụ nữ bình thường, nhưng những nhu cầu đó ở mức cao hơn, cần
thiết và cần được hỗ trợ để thỏa mãn. Theo tác giả Lê Thi, có thể chia nhu cầu của
PNNĐT thành ba nhóm sau: [13]
Nhu cầu nâng cao đời sống vật chất
Hơn ai hết, những người phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ mong muốn
một cuộc sống đủ đầy về vật chất, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu hàng ngày.
Trong đó có thể kể đến những nhu cầu cơ bản như: hỗ trợ vay vốn, học nghề, giới
thiệu việc làm, hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở, ….
Nhu cầu tham vấn, tư vấn
Là một nhóm yếu thế trong xã hội và vô cùng nhạy cảm, tự ti, PNNĐT nuôi
con nhỏ có những nhu cầu tinh thần rất lớn, mạnh mẽ. Họ luôn khát khao một cuộc
sống hạnh phúc, trọn vẹn, luôn mong muốn có một mái ấm, một chỗ dựa vững chắc
cho họ và con của họ. Những người PNNĐT rất cần được sẻ chia, được tư vấn tâm
lý, sức khỏe, cũng như cách thức nuôi dạy con cái. Họ mong muốn xã hội nhìn nhận
họ với con mắt cảm thông chứ không phải dò xét, dèm pha. Hơn ai hết, họ luôn
muốn hòa nhập cộng đồng, muốn được tham gia các hoạt động xã hội như những
người phụ nữ khác.
17
Nhu cầu hỗ trợ trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái
Đối với PNNĐT nuôi con nhỏ, con cái là tất cả những gì họ có được, là điều
quý giá nhất của cuộc đời họ, họ có thể hy sinh tất cả để dành cho con những điều
tốt đẹp nhất. Họ luôn muốn bù đắp những thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm của người
cha cho con họ. Tuy nhiên, chính vì sự chiều chuộng một cách thái quá đôi khi đã
làm cho những người PNNĐT ấy làm lệch lạc đi những chuẩn mực trong nuôi dạy
con cái. Với hai vai phải gánh vác, họ rất cần có được những kiến thức, kỹ năng,
phương pháp nuôi dạy con cái một cách hợp lý và hiệu quả nhất, để con cái của họ
trở thành một công dân tốt, và là chỗ dựa cho họ khi về già.
1.2. Công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ
1.2.1. Một số khái niệm
Khái niệm Công tác xã hội
Năm 1970, Hiệp hội Quốc gia các CTXH – NASW(Hoa Kỳ) định nghĩa:
Công tác xã hội là hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân,
các nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện chức năng
xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu
ấy.
Định nghĩa Công tác xã hội của Philippin: Công tác xã hội là một nghề
chuyên môn, thông qua các dịch vụ xã hội nhằm phục hồi, tăng cường mối quan hệ
qua lại giữa cá nhân và môi trường vì nền an sinh của cá nhân và toàn xã hội.
Theo Từ điển bách khoa ngành công tác xã hội: Công tác xã hội là một khoa
học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người tạo ra những
chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội.
Từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của CTXH trên cả
phương diện lý thuyết và thực hành, khoa học và nghề nghiệp chuyên môn, tiếp thu
các giá trị, phân tích các định nghĩa, các quan niệm của các học giả, các tổ chức, các
hiệp hội chuyên ngành ở trong và ngoài nước, có thể đưa ra một định nghĩa chung,
khái quát về CTXH như sau: “CTXH là một nghề nghiệp chuyên môn, một ngành
khoa học nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng) giải
18
quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập xã hội theo hướng
tích cực, bền vững”.
Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) là những người có trình độ chuyên
môn, được trang bị kiến thức, kỹ năng về CTXH chuyên nghiệp và sử dụng kiến
thức, kỹ năng đó trong quá trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình,
nhóm, cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc
sống. [22]
Khái niệm Công tác xã hội nhóm
Theo tác giả Nguyễn Thị Thái Lan: CTXH nhóm là một phương pháp
CTXH nhằm tạo dựng và phát huy sự tương tác, chia sẻ nguồn lực, kinh
nghiệm giữa các thành viên, giúp củng cố tăng cường các chức năng xã hội và
khả năng giải quyết các vấn đề, thỏa mãn nhu cầu của nhóm. Thông qua sinh
hoạt nhóm, mỗi cá nhân hòa nhập, phát huy tiềm năng, thay đổi thái độ, hành
vi và khả năng đương đầu với vấn đề của cuộc sống, tự lực và hợp tác giải
quyết vấn đề đặt ra vì mục tiêu cải thiện hoàn cảnh một cách tích cực. [6]
CTXH nhóm là một phương pháp trợ giúp các cá nhân thông qua hoạt động
nhóm. Khi tham gia vào nhóm đó, các thành viên đều là những người có cùng vấn
đề, nhu cầu, mục đích và đặc biệt họ có sự phân chia vai trò và có sự tương tác qua
lại với nhau cùng với sự hỗ trợ của các CTXH, từ đó các thành viên trong nhóm có
thể vượt qua khó khăn và tự vươn lên phát triển, tạo nên sự phát triển bền vững cho
con người. [6]
Từ những khái niệm trên, tác giả đã rút ra khái niệm về CTXH nhóm đối với
PNNĐT nuôi con nhỏ là là một phương pháp trợ giúp những PNNĐT nuôi con nhỏ
thông qua hoạt động nhóm. Khi tham gia vào nhóm đó, các chị em có cùng vấn đề,
nhu cầu, mục đích và đặc biệt họ có sự phân chia vai trò và có sự tương tác qua lại
với nhau cùng với sự hỗ trợ của các CTXH, từ đó các chị em phụ nữ trong nhóm có
thể vượt qua khó khăn và tự vươn lên phát triển, tạo nên sự phát triển bền vững cho
chính họ.
19