Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả tổng kết trong tiếng Việt (qua ngữ liệu Hồ Chí Minh Tuyển tập)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.24 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------

VÕ THỊ HƯỜNG

NGHIÊN CỨU NHÓM TỪ, CỤM TỪ NỐI
THEO PHẠM TRÙ KẾT QUẢ - TỔNG KẾT TRONG TIẾNG VIỆT
(QUA NGỮ LIỆU HỒ CHÍ MINH TUYỂN TẬP)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS TS PHẠM VĂN TÌNH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, các kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kì một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Người viết luận văn

VÕ THỊ HƯỜNG



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học thạc sĩ tại Học viện Khoa học xã hội, tôi đã nhận
được sự dạy bảo và giúp đỡ tận tình của quý thầy cô giáo, sự động viên và
giúp đỡ tận tình của gia đình, đồng nghiệp và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến quý thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong
thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy PGS TS Phạm Văn Tình
đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong quá trình làm luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Người viết luận văn

VÕ THỊ HƯỜNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ..............................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................9
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ..................................................................................11
1.1. Văn bản và tính liên kết ..................................................................................11
1.1.1. Khái niệm văn bản ....................................................................................11
1.1.2. Liên kết trong văn bản ..............................................................................13
1.1.3. Các phép liên kết văn bản.........................................................................18
1.2. Phép nối ..........................................................................................................21

1.2.1. Khái niệm .....................................................................................................
1.2.2. Phân loại các từ, cụm từ nối theo phạm trù ngữ nghĩa .............................24
1.2.3. Phạm vi liên kết của các từ, cụm từ nối trong văn bản ............................26
1.3. Tiểu kết ...........................................................................................................28
Chương 2. LIÊN KẾT CẤU TRÚC CỦA NHÓM TỪ, CỤM TỪ NỐI THEO
PHẠM TRÙ KẾT QUẢ - TỔNG KẾT (QUA NGỮ LIỆU HỒ CHÍ MINH
TUYỂN TẬP) ..........................................................................................................29
2.1. Mở đầu ............................................................................................................29
2.2. Các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết trong Hồ Chí Minh tuyển tập .30
2.2.1. Vị trí của các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết.................30
2.2.2. Số lượng các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết .................32
2.2.3. Cách thức sử dụng các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết ..34
2.3. Giá trị liên kết về mặt cấu trúc của từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả tổng kết trong Hồ Chí Minh tuyển tập ...................................................................35


2.3.1. Những giá trị chung ..................................................................................35
2.3.2. Giá trị liên kết về mặt cấu trúc của từ, cụm từ nối cụ thể ........................36
2.4. Tiểu kết ...........................................................................................................46
Chương 3. LIÊN KẾT NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ, CỤM TỪ NỐI THEO
PHẠM TRÙ KẾT QUẢ - TỔNG KẾT (QUA NGỮ LIỆU HỒ CHÍ MINH
TUYỂN TẬP) ..........................................................................................................48
3.1. Mở đầu ............................................................................................................48
3.2. Phép nối với vấn đề liên kết ngữ nghĩa ..........................................................49
3.3. Giá trị liên kết về mặt ngữ nghĩa của các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả tổng kết trong Hồ Chí Minh tuyển tập .....................................................................51
3.3.1. Những giá trị chung ..................................................................................51
3.3.2. Giá trị liên kết về mặt ngữ nghĩa của một số từ, cụm từ nối cụ thể .........52
3.4. Tiểu kết ...........................................................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................69



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ học Văn bản (Textual Linguistics) là một bộ môn khoa học nghiên
cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp phát triển rầm rộ vào những năm 60 của
thế kỉ XX. Mặc dù xuất hiện muộn so với các bộ môn khoa học khác của ngôn
ngữ nhưng ngôn ngữ học văn bản đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong
lĩnh vực nghiên cứu của mình. Góp phần không nhỏ vào trào lưu chung đó, một
số nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đã công bố những công trình nghiên cứu tiêu
biểu trong lĩnh vực ngôn ngữ học văn bản nói chung. Đóng góp của các nhà Việt
ngữ học ở lĩnh vực này là họ đã xây dựng được hệ thống lí luận về ngôn ngữ học
văn bản, xác định đối tượng, mục đích cụ thể cho việc nghiên cứu.
Hiện tượng nhận được nhiều sự quan tâm của giới ngôn ngữ học văn bản
đó là việc văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần của các câu. Giữa
các câu trong văn bản có những sợi dây liên kết chặt chẽ. “Những sợi dây này
- K. Boost viết vào năm 1949 - kéo dài từ câu nọ sang câu kia nhiều đến nỗi
tạo nên một mạng lưới đặc biệt (…), trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt
chẽ với những câu còn lại [dẫn theo Moskal’skaja, 1981, tr.5].
Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu
mới chỉ là những phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn bản
còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối
quan hệ, liên hệ giữa nó với những câu xung quanh nói riêng và toàn văn bản
nói chung. Sự liên kết là mạng lưới cả những quan hệ và liên hệ ấy. Như vậy,
có thể kết luận rằng tính liên kết chính là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng
biến một chuỗi câu trở thành văn bản [Trần Ngọc Thêm, 2003].
Trong văn bản có rất nhiều phép liên kết như: phép lặp, phép thế, phép đối,
phép tỉnh lược, phép liên tưởng, phép tuyến tính, phép nối… Trong đó, phép
nối được đánh giá là một trong những phép liên kết được sử dụng khá phổ
biến trong nhiều văn bản khác nhau. Có thể nói, các từ, cụm từ nối là những
1



phương tiện cụ thể, có giá trị chỉ ra một cách tường minh mối liên hệ giữa các
phát ngôn trên văn bản.
Trong các phương thức thuộc hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, phép
nối là một phương thức liên kết đặc thù, có sự khác biệt so với các phép liên
kết khác. Trên thực tế, phép nối được sử dụng nhiều trong các thể loại văn
bản khác nhau. Phép nối làm cho quan hệ nghĩa giữa các mệnh đề, giữa các
phát ngôn được tường minh, giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận và nhanh
chóng hiểu được ý nghĩa của văn bản. Phép nối được các nhà ngôn ngữ học
văn bản trên thế giới nghiên cứu khá kĩ ở 2 phương diện lí thuyết và ứng
dụng. Ở Việt Nam, phép liên kết này cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Tuy nhiên, một số nhà Việt ngữ học khi nghiên cứu phép nối liên kết văn
bản vẫn quan niệm chúng thuộc về cấu trúc. Trong khi đó, ngôn ngữ học văn
bản đã chỉ ra việc nghiên cứu các phương tiện liên kết đòi hỏi sâu vào việc
khám phá, tìm hiểu bản chất của mối quan hệ nghĩa khi chúng đảm nhiệm
chức năng liên kết.
Hiện nay, ở nước ta vấn đề liên kết văn bản đã nhận được nhiều sự quan
tâm đặc biệt của các nhà ngôn ngữ học. Đầu tiên phải kể đến các công trình
nghiên cứu của các tác giả tiêu biểu như: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt
của Trần Ngọc Thêm, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt của Diệp Quang
Ban, Giao tiếp - văn bản - mạch lạc - liên kết - đoạn văn của Diệp Quang
Ban, Hệ thống liên kết lời nói của Nguyễn Thị Việt Thanh… Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát
các đặc điểm mang tính chất lí luận của vấn đề liên kết văn bản chứ chưa đi
vào phân tích, lí giải toàn diện tất cả vai trò, hoạt động của một phép liên kết
cụ thể. Do đó, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu một phép liên kết cụ thể trong
các tác phẩm văn thơ với mong muốn làm rõ cũng như cụ thể hóa các luận
điểm lí thuyết mà các tác giả trước đó đã đưa ra. Đây chính là lí do quan trọng
thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu nhóm từ, cụm từ nối theo

phạm trù kết quả - tổng kết trong tiếng Việt (qua ngữ liệu Hồ Chí Minh
2


Tuyển tập)” làm đề tài nghiên cứu. Với luận văn này, chúng tôi mong muốn
góp thêm một nghiên cứu nhỏ dưới góc nhìn mới về tính liên kết trong văn
bản nói chung. Đồng thời, luận văn sẽ góp phần mở rộng, bổ sung về mặt lí
luận của ngôn ngữ học văn bản và lí thuyết phân tích diễn ngôn.
2. Lịch sử nghiên cứu
Có thể nói, ngôn ngữ học văn bản là một trong những bộ môn khoa học
ra đời muộn so với các bộ môn khác trong ngôn ngữ học. Tuy đã được manh
nha từ những năm 40 của thế kỉ XX nhưng nó chỉ thực sự được biết đến một
cách rộng rãi từ khoảng những năm 70, sau thời kì trải nghiệm của ngữ pháp
văn bản. Sau khi ra đời, ngữ pháp văn bản tỏ ra có ứng dụng hết sức thuyết
thực trong việc đề ra các phương pháp xây dựng văn bản, phân tích văn bản,
tóm tắt văn bản… Nhờ vậy, ngữ pháp văn bản nhanh chóng được phổ biến
và phát triển mạnh. Ngôn ngữ học văn bản hình thành và được coi như bộ
môn ngôn ngữ độc lập vào khoảng 3 thập niên gần đây.
Trong thời gian gần đây, ngôn ngữ học văn bản đã nhận được nhiều sự
quan tâm của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm đến lĩnh vực
ngôn ngữ học văn bản từ khá sớm (khoảng cuối những năm 40 của thế kỉ
XX). Có học thể kể ra một số nhà ngôn ngữ học văn bản tiêu biểu như sau:
Năm 1947, A.I. Belichơ đã nhận thấy các chuỗi câu hoàn chỉnh có chung ý
nghĩa và là chỉnh thể cú pháp nhất định nằm trong cấu trúc văn bản. Nhận xét
này của A.I. Belichơ có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành khái niệm
ngôn ngữ học văn bản.
Tác giả Pospelov nhấn mạnh sự khác biệt về chức năng và logic ngữ nghĩa
của chỉnh thể cú pháp phức hợp so với câu. Theo ông, chỉnh thể của cú pháp
phức hợp có đặc trưng bởi “cấu trúc khép kín”, đó là một nhóm câu được hợp

nhất về mặt cú pháp bởi những phương tiện và phương pháp khác nhau kiểu
như các liên từ liên hợp trong chức năng nối kết, các liên hệ nối không liên từ,
3


những kết hợp khác nhau của 2 câu thành phần, sự tương ứng trong việc sử
dụng các hình thái của vị ngữ theo ý nghĩa thời của chúng… [O.I.
Moskal’skaja, 1996] (dẫn theo [57]).
Vào khoảng những năm cuối thập niên 60 đầu 70 của thế kỉ XX, ngôn ngữ
học văn bản phát triển khá mạnh mẽ và đã được thừa nhận là một bộ môn
khoa học độc lập. Từ đây, việc nghiên cứu văn bản như một sản phẩm lời nói
hoàn chỉnh đã có sự chuyển hướng mới đó là nghiên cứu mặt giao tiếp - chức
năng ngôn ngữ và lời nói. Cùng với sự chuyển hướng này, ngôn ngữ học càng
chú ý nhiều hơn tới những lĩnh vực khác nhau của ngôn ngữ học chức năng
như: lí thuyết hoạt động lời nói, ngữ nghĩa học, phong cách học chức năng…
Sản phẩm lời nói hoàn chỉnh - văn bản trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành ngôn ngữ mà trước hết là ngôn ngữ học văn bản.
Ngôn ngữ học văn bản ngày càng phát triển mạnh mẽ được minh chứng rõ
rệt bằng hàng loạt các bài báo và chuyên luận, hàng loạt các tạp chí chuyên đề
được xuất hiện ở các nước Tây Đức, Áo, Bỉ… Nhà nghiên cứu người Áo
Dressler cho xuất bản cuốn sách Dẫn luận ngôn ngữ học văn bản năm 1972.
Ngay sau đó, hàng loạt hội nghị khoa học chuyên đề về ngôn ngữ học văn bản
được diễn ra tại Moskva. Năm 1975, hội thảo khoa học do hai tổ chức ngôn
ngữ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức và Tiệp Khắc về ngữ pháp văn bản đã
được tổ chức ở Berlin - thủ đô nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Tiếp đó, năm
1981đã diễn ra hội nghị về ngôn ngữ học văn bản tại Trường Đại học Sư
phạm mang tên Hồ Chí Minh ở Inkursk thuộc Liên Xô cũ.
Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, O.I.
Moskal’skaja đã công bố công trình ngữ pháp văn bản năm 1981. Bà đã
khẳng định tiếng nói chung của trào lưu ngôn ngữ mới là không phải ở đơn vị

câu riêng lẻ mà là những chỉnh thể trên câu và toàn văn bản. Tác giả đã dẫn ra
hàng loạt những tuyên ngôn của nhiều nhà ngôn ngữ học: chúng ta thường nói
không phải bằng những từ ngữ riêng biệt mà bằng những câu của văn bản
4


(…) [O.I. Moskal’skaja, 1996] (dẫn theo [57]). Điều đó cho thấy sự cần thiết
phải nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản mà nhiệm vụ trung tâm là nghiên cứu
“tính liên kết” bởi vì mạng lưới liên kết, các phương tiện liên kết ràng buộc
các đơn vị phát ngôn theo nội dụng, chủ đề định sẵn trong văn bản.
Năm 1993, David Nunan đã công bố công trình nghiên cứu của mình về
ngôn ngữ học văn bản đó là Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (Hồ Mỹ Huyền và
Trúc Thanh dịch từ tiếng Anh, 1998). Trong cuốn sách này, Nunan quan tâm
tới bốn vấn đề lớn của phân tích diễn ngôn gồm: phân tích diễn ngôn là gì,
yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn, tìm hiểu diễn ngôn về mặt nghĩa và phát
triển năng lực diễn ngôn. Trong bốn vấn đề này, Nunan chú ý nhiều hơn đến
việc phân tích các yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn mà cụ thể là tìm hiểu diễn
ngôn về mặt nghĩa. Ông đã đi sâu vào phân tích những đơn vị trong diễn ngôn
như tin “đã cho” và “tin mới”, phần đề, phần thuyết, mạch lạc diễn ngôn,
hành động ngôn ngữ… Trong phép nối, Nunan còn phân loại các kiểu quan
hệ như: quan hệ nghịch đối, quan hệ bổ sung, quan hệ thời gian và quan hệ
nguyên nhân.
Ngoài những tác giả vừa nêu trên còn phải kể đến một số tên tuổi nổi tiếng
khác như: K. Boost, Z.S. Haris, Halliday, Hasan… Với các công trình nghiên cứu
tiêu biểu trong lĩnh vực ngôn ngữ văn bản họ đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng.
Ở Việt Nam, bàn về vấn liên kết văn bản ở Việt Nam không phải là vấn
đề mới. Ngôn ngữ học văn bản đã được các nhà Việt ngữ học đề cập đến từ
khoảng những năm 70 của thế kỉ XX. Năm 1973, với bài viết có nhan đề
“Góp thêm một số ý kiến về hệ thống các đơn vị ngữ pháp” đăng trên tạp chí
Ngôn ngữ, số 2, Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Stankevich đã đưa ra những quan

điểm của mình về hướng nghiên cứu mới về ngữ pháp văn bản.
Trong tạp chí Ngôn ngữ, số 1 năm 1985, tác giả Nguyễn Đức Dân và Lê
Đông có bài viết “Phương thức liên kết của từ nối”. Những phương thức liên
kết được đề cập trong bài viết là phương thức liên kết hiển ngôn và hàm ngôn,
5


phương thức liên kết hai hàm ngôn, phương thức liên kết hiển ngôn với tiền
giả định. Các tác giả bài viết này cũng đã chỉ ra các yếu tố từ hư như: và, vì,
tuy, dù, hay, hoặc… đều có thể trở thành các phương tiện nối kết giữa các
mệnh đề, câu - phát ngôn trong văn bản và chúng còn chịu sự tác động của rất
nhiều yếu tố khác nhau của ngữ cảnh, trong hệ thống ngữ nghĩa.
Đi tiên phong trong việc nghiên cứu về ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam
không thể không kể đến tác giả Trần Ngọc Thêm. Kế thừa và phát huy những
thành tựu của những người đi trước, năm 1985 Trần Ngọc Thêm đã công bố
công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học văn bản Hệ thống liên kết văn bản
tiếng Việt. Đây là công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học văn bản được đánh
giá là tương đối hoàn chỉnh về luận điểm, luận cứ và hệ thống các phương
tiện liên kết văn bản tiếng Việt.
Năm 1994, Đỗ Hữu Châu cũng đã công bố các công trình nghiên cứu có
liên quan đến phép liên kết văn bản. Tác giả nghiên cứu phép nối ở hai
bình diện chức năng và ngữ dụng. Như vậy, việc nghiên cứu này vừa tiếp
thu được ngôn ngữ truyền thống lại vừa tiếp cận với ngôn ngữ văn bản hiện
đại, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới là hướng hoạt động của phép
nối về mặt nghĩa.
Năm 1994, Nguyễn Thị Việt Thanh công bố cuốn “Hệ thống liên kết lời
nói tiếng Việt” đã đề cập tới các phép liên kết văn bản trong tiếng Việt. Tác
giả đã đặt ra mục đích nghiên cứu cụ thể và phân loại, xác định hệ thống các
phương tiện liên kết thuộc lời nói. Trong đó, phương thức nối được tác giả
phân tích khá kĩ lưỡng, đồng thời chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của nó không

thể thiếu vắng trong quá trình giao tiếp bằng lời nói.
Một trong những tác giả có đóng góp quan trọng vào những thành tựu của
ngôn ngữ học văn bản phải kể đến là Diệp Quang Ban. Ông đã có rất nhiều
bài báo, chuyên luận viết về lĩnh vực này. Cụ thể như sau: “Đọc sách Hệ
thống lên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm”, đăng trên tạp chí
6


Ngôn ngữ, số 3, 1986; “Bàn góp về mối quan hệ chủ vị và quan hệ phần đề phần thuyết”, tạp chí Ngôn ngữ, số 4, 1992; “Về mạch lạc trong văn bản”, tạp
chí Ngôn ngữ, số 1, 1998; Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1998; “Ứng dụng cách nhìn dụng học vào việc giải thích một số
yếu tố có mặt trong câu - phát ngôn”, tạp chí Ngôn ngữ, số 6, 2001; “Giao tiếp
- văn bản - mạch lạc - liên kết - đoạn văn”, 2002.
Năm 1998, phương thức nối được Phan Văn Hòa tiếp tục nghiên cứu trong
luận án Tiến sĩ Ngữ văn “Phương tiện liên kết phát ngôn đối chiếu ngữ liệu
Anh - Việt”. Trong luận án này, tác giả tập trung phân tích, miêu tả nghĩa của
các mệnh đề, câu, liên câu, liên đoạn văn do phép nối liên kết trên cứ liệu
tiếng Anh và tiếng Việt.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu của tác giả Lê Xuân Thại
(1998), Phạm Văn Tình (2002), Lương Đình Dũng (2005), Lương Đình
Khánh (2006), Bùi Văn Nam (2010)… cũng đi theo hướng này nhưng nghiên
cứu ở phạm vi và mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, có một số luận văn thạc sĩ
cũng đã nghiên cứu về vấn đề liên kết trong văn bản như: Phạm Thu Trang
(2001), Dương Thị Bích Hạnh (2003), Thái Thị Như Quỳnh (2013), Nguyễn
Thị Thu (2014), Lê Thị Thùy Linh (2014)… Các luận văn này đề cập tới phép
nối hoặc phép liên kết từ vựng trên những nguồn tư liệu khác nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng tới những mục đích cơ bản sau:
- Nghiên cứu nhằm bước đầu nhận diện được các từ, cụm từ nối theo phạm
trù kết quả - tổng kết từ góc độ ngôn ngữ học văn bản cũng như làm rõ những

đặc trưng cơ bản của phạm trù kết quả - tổng kết, đóng góp thêm những ý
kiến và những nghiên cứu của phạm trù kết quả - tổng kết về mặt lí luận.
- Trên cơ sở những yêu cầu và đặc trưng cơ bản của phạm trù kết quả - tổng
kết đưa ra cách thức thực hiện phạm trù kết quả - tổng kết các văn bản khoa
học một cách hiệu quả từ góc độ ngôn ngữ học văn bản.
7


- Thông qua việc khảo sát, thống kê nhóm từ, cụm từ nối thuộc phạm trù
kết quả - tổng kết luận văn sẽ đi sâu phân tích, biện giải và chỉ ra giá trị liên
kết của từ, cụm từ nối trong một số tác phẩm thơ văn của Hồ Chí Minh.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ tiến hành giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Tìm hiểu, tập hợp có lựa chọn các cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
nghiên cứu của luận văn và tổng hợp một số quan điểm cũng như các
vấn đề liên quan đến đối tượng khảo sát.
- Xác định cơ sở lí thuyết về phép liên kết nói chung và phép nối nói riêng.
- Khảo sát các nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết
trong một số tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hồ Chí Minh, từ đó chỉ ra
cấu trúc liên kết và ngữ nghĩa liên kết giữa các phát ngôn có liên quan.
- Xác định cách thức sử dụng và vai trò liên kết ngữ nghĩa của nhóm từ,
cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết, từ đó chỉ ra giá trị, ý nghĩa
của nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết trong việc thể
hiện tư tưởng tác phẩm và phong cách tác giả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn này là nhóm các từ, cụm từ
nối theo phạm trù kết quả - tổng kết gồm: do đó, rốt cuộc, kết quả là, tựu
trung là, nói chung, chung quy (là), nhìn chung, tóm lại, nói cho cùng, thành
thử, đại thể (là)… của các tác phẩm trong Hồ Chí Minh Tuyển tập.
Phạm vi nghiên cứa của đề tài, chúng tôi lựa chọn một số tác phẩm có

chứa nhóm từ, cụm từ theo phạm trù kết quả - tổng kết trong Hồ Chí Minh
Tuyển tập làm tư liệu nghiên cứu. Mặc dù các tác phẩm trong Hồ Chí Minh
Tuyển tập sử dụng khá nhiều phương tiện nối khác nhau nhưng do dung
lượng của luận văn không cho phép khảo sát toàn bộ các phương tiện nối, do
vậy chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết
quả - tổng để phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
8


5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phương pháp thống kê phân loại: sử dụng phương pháp này để thực hiện
việc khảo sát, thu thập các câu, đoạn văn có chứa các từ, cụm từ nối theo
phạm trù kết quả - tổng kết. Từ đó, chỉ ra quy luật xuất hiện của các từ, cụm
từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết.
- Phương pháp phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn: phương pháp này
được sử dụng với mục đích nhằm phân tích các chiết đoạn văn bản, mệnh đề,
câu, đoạn văn.
- Phương pháp mô tả, phân tích cú pháp: chúng tôi sử dụng phương pháp
mô tả và phân tích để thấy được sự liên kết về mặt cấu trúc và liên kết về mặt
ngữ nghĩa của văn bản có các từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết.
6. Đóng góp của luận văn
- Ý nghĩa lí luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm các luận điểm lí thuyết trước đây mới
chỉ đặt ra được vấn đề gợi mở mà chưa có nhiều luận cứ thuyết phục. Đồng
thời, đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu hệ thống các phương thức
liên kết trong văn bản.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp ích rất nhiều cho việc

phân tích văn bản trong các ngữ cảnh có từ, cụm từ nối.
Thứ hai, luận văn cũng góp thêm một tiếng nói trong xu hướng nghiên cứu
phong cách văn bản nói chung.
Thứ ba, từ các kết quả nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ khẳng định thêm tài
năng và đóng góp của Hồ Chí Minh về phương diện nội dung cũng như nghệ
thuật. Luận văn sẽ là tư liệu bổ ích phục vụ cho việc đọc hiểu các tác phẩm văn
chương của Hồ Chí Minh ở các bậc học khác nhau từ bình diện ngôn ngữ.
9


7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn được bố cục gồm 3 chương như sau:
Chương 1 - Cơ sở lí luận
Chương 2 - Liên kết cấu trúc của nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết
quả - tổng kết (qua ngữ liệu Hồ Chí Minh tuyển tập)
Chương 3 - Liên kết ngữ nghĩa của nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù
kết quả - tổng kết (qua ngữ liệu Hồ Chí Minh tuyển tập)

10


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Văn bản và tính liên kết
1.1.1. Khái niệm văn bản
Trên thực tế, kể từ khi bộ môn ngôn ngữ văn bản ra đời các nhà ngôn
ngữ học đã đưa ra khá nhiều khái niệm khác nhau về văn bản. Có thể kể ra
một số khái niệm văn bản của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới và ở Việt
Nam như sau:

Halliday và Hasan cho rằng: “Văn bản là bất kì một đoạn văn nào, viết
hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể thống nhất hoàn chỉnh”, “Văn bản
là một đơn vị ngôn ngữ hành chức. Nó không phải là đơn vị ngữ pháp như
mệnh đề hoặc câu” . Và tốt nhất nên nhìn nhận văn bản là một đơn vị ngữ
nghĩa: một đơn vị không phải thuộc hình thức mà thuộc ý nghĩa…” [dẫn theo
45, tr.23]. Nhận định như vậy rõ ràng đã vạch ra sự khác biệt về bản chất giữa
văn bản với những đơn vị ngữ pháp nhất là đối với câu. Và như vậy câu
không phải là đơn vị dưới bậc cùng hệ thống của văn bản mà câu có chức
năng thể hiện văn bản hoặc qua đó mà văn bản thực hiện quá trình lập ngôn.
Một số nhà ngôn ngữ học như W. Koch, L.M. Loseva, Crystal… lại cho
rằng, văn bản là sản phẩm hoàn chỉnh của hành vi hay phát ngôn, mang một
nội dung giao tiếp cụ thể được thể hiện dưới dạng nói và viết tức là giao tiếp.
W. Koch: “Văn bản được hiểu ở bậc hiển thể là phát ngôn bất kì có kết
thúc và có liên kết, có tính chất độc lập và đúng về ngữ pháp” [W. Koch,
1966] (dẫn theo [8], tr.15-16).
L.M. Loseva (1980) cho rằng: Văn bản có thể định nghĩa là điều thông
báo viết có đặc trưng là tính hoàn chỉnh về ý nghĩa và cấu trúc và thái độ nhất
định của các tác giả đối với điều được thông báo […]. Về phương diện cú
pháp, văn bản là một hợp thể nhiều câu (ít khi là một câu) liên kết với nhau
bởi ý và bằng các phương tiện từ vựng - ngữ pháp”.
11


Crystal: “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự
nhiên dưới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng về mục
đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể ngôn ngữ với chức năng giao tiếp
có thể xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ áp phích…” [D.
Crystal, 1992].
Trong Bách khoa ngôn ngữ và ngôn ngữ học, tác giả R.E. Asher (chủ
biên), Pergamon Press, tập 10, tr. 5180, đã đưa ra định nghĩa về văn bản có

tính khái quát cao như sau: Văn bản 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn
hoặc nhỏ, mà do đề tài - chủ đề, v.v… của nó, hình thành nên một đơn vị, loại
như một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường, v.v…; 2.
Văn học. Trước hết được coi như tài liệu viết, thường đồng nghĩa với sách
(…). Trong phân tích diễn ngôn, đôi khi được đánh đồng với ngôn ngữ viết,
còn diễn ngôn thì được dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn được dùng
bao gồm cả văn bản [dẫn theo 10, tr.57).
Gal’perin đưa ra định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản là sản phẩm của
quá trình tạo lời mang tính hoàn chỉnh, được thể hiện dưới dạng tài liệu viết
trau chuốt văn chương theo loại hình ấy” [34].
Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn sách Văn bản và liên kết trong tiếng
Việt cũng đã đề cập đến định nghĩa của Barthes như sau: “Chúng ta sẽ gọi các
khách thể của xuyên ngôn ngữ học (translin guistique) là diễn ngôn (discours)
tương tự với văn bản (text) do ngôn ngữ học nghiên cứu và chúng ta sẽ định
nghĩa nó như là một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể thống nhất
xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với mục đích giao tiếp thứ
cấp và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại đoạn lời
này gắn bó với những nhân tố khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến
bản thân ngôn ngữ (langue)” [Barthes, 1970] (dẫn theo [8], tr. 15-16).
Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn sách Hệ thống liên kết văn bản
tiếng Việt (1985, 1999, 2003) cũng đã đưa ra khái niệm văn bản như sau: “Nói
12


một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu chỉ là
các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc.
Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu với nhiều mối quan hệ, liên hệ
của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự
liên kết là mạng lưới những quan hệ và liên hệ ấy (71, tr.19).
Như vậy, có thể thấy do xuất phát từ góc nhìn cũng như quan điểm riêng

nên mỗi nhà ngôn ngữ học đã đưa ra các khái niệm khác nhau về văn bản. Tuy
nhiên, một điều dễ nhận thấy đó là các nhà ngôn ngữ học đều nêu những điểm
chung thống nhất về văn bản như sau: Thứ nhất, văn bản có thể là ở dạng nói
hoặc viết; thứ hai, cấu trúc của văn bản bao gồm cả cấu trúc hình thức lẫn cấu
trúc ngữ nghĩa; thứ 3, văn bản có thể dài cũng có thể ngắn; và một điểm quan
trọng nữa là hầu hết văn bản đều có chủ đề hoặc đề tài nhất định.
1.1.2. Liên kết trong văn bản
1.1.2.1. Khái niệm liên kết
Trong ngôn ngữ học văn bản, hiện tượng được nhiều nhà nghiên cứu đặc
biệt quan tâm đó là tính liên kết của văn bản. Các nhà nghiên cứu đều thống
nhất cho rằng, văn bản không phải là phép cộng đơn thuần của các câu mà
giữa các câu có những sợi dây liên kết chặt chẽ, thống nhất.
Tính liên kết trong văn bản được xem là một phát hiện mới trong nghiên
cứu ngôn ngữ học văn bản. Đây được xem là một sự đột phá quan trọng trong
việc nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản vì đã phá bỏ được giới hạn nghiên cứu
câu là đơn vị cuối cùng của ngôn ngữ. Liên kết thuộc tính đặc thù chỉ có cấp
độ trên câu.
Liên kết văn bản là hiện tượng dễ nhận biết, nhưng cách hiểu về liên kết
cũng không hoàn toàn giống nhau giữa các nhà nghiên cứu. Trên thực tế, cho
đến nay vẫn tồn tại các quan niệm khác nhau về liên kết. Quan niệm thứ nhất
thịnh hành ở giai đoạn đầu ngữ pháp văn bản coi văn bản thuộc mặt cấu trúc
của hệ thống ngôn ngữ, và liên kết được khai thác ở cả phương diện hình thức
13


lẫn ý nghĩa. Do việc chú trọng đến mặt ý nghĩa của văn bản nên liên kết được
hiển thị như là yếu tố có vai trò quyết định làm cho một sản phẩm ngôn ngữ
có được các phẩm chất như là “một văn bản” (being a text). Như vậy, có thể
thấy ở giai đoạn đầu ngữ pháp văn bản, liên kết được hiểu hạn chế ở những
biểu hiện về mặt hình thức.

Quan niệm thứ hai thịnh hành vào những năm 70 của thế kỉ XX và
ngày càng được phổ biến rộng rãi. Theo quan niệm này thì liên kết với tư cách
một khái niệm chuyên môn không thuộc về cấu trúc của ngôn ngữ, mặc dù
bản thân các yếu tố cấu trúc trong ngôn ngữ là thuộc tính liên kết. Các nhà
ngôn ngữ đại diện cho quan niệm này như M.M.K. Halliday và R. Hasan cho
rằng, liên kết không thuộc về cấu trúc mà thuộc về ý nghĩa, và chỉ các phương
tiện hình thức của ngôn ngữ thực hiện chức năng đó mới là liên kết.
Tác giả Halliday và Hasan quan niệm, liên kết không nằm trong bình
diện cấu trúc. Liên kết là hệ thống quan hệ được biểu hiện qua các yếu tố ngữ
nghĩa của văn bản. Liên kết có chức năng làm xúc tác làm cho hệ thống ngữ
nghĩa của văn bản hoạt động hữu hiệu. Như vậy, có thể thấy cả Halliday và
Hasan đều cho rằng liên kết và mạch lạc là hai phạm trù có những điểm
không hoàn toàn giống nhau. Ở những mức độ khác nhau, mạch lạc lại như có
sự phân biệt với liên kết lại vừa cũng thuộc về liên kết.
Trong nhiều công trình nghiên cứu của mình, Halliday và Hasan khẳng
định: “Liên kết là hệ thống những quan hệ có ý nghĩa mà hệ thống này phổ
quát đến tất cả các loại văn bản với phi văn bản và nó tạo ra quan hệ tương tác
giữa các ý nghĩa cơ bản với nhau. Liên kết không quan tâm đến chỗ văn bản
có ý nghĩa gì mà quan tâm đến chỗ văn bản đó được kết cấu như thế nào với
cương vị là một thực thể có ý nghĩa [dẫn theo 45, tr.31].
Ở Việt Nam, khái niệm liên kết văn bản cũng đã nhận được sự quan tâm
của nhiều nhà ngôn ngữ học văn bản như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Thị Việt Thanh…
14


Trần Ngọc Thêm trong nhiều công trình nghiên cứu của mình đã nhấn
mạnh đến mối liên hệ, quan hệ của các câu trong văn bản tạo ra tính liên kết:
“Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu chỉ là phần tử. Ngoài các câu phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra
vị trí mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những quan hệ, liên

hệ ấy”. Từ sự lí giải đó, ông rút ra kết luận: “Có thể kết luận rằng liên kết
chính là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng biến một chuỗi câu thành một
văn bản [71, tr.19]. Theo Trần Ngọc Thêm, liên kết nội dung bao gồm liên kết
chủ đề và liên kết logic. Trong đó, liên kết chủ đề làm nhiệm vụ tổ chức mạng
lưới chủ đề của các phát ngôn, các đoạn văn để tạo nên chủ đề của văn bản.
Còn liên kết logic có nhiệm vụ tổ chức mạng lưới thuật đề của các phát ngôn,
các đoạn văn để tạo nên thuật đề của văn bản.
Bàn về khái niệm liên kết văn bản không thể không nhắc đến tác giả
Diệp Quang Ban. Diệp Quang Ban đưa ra định nghĩa liên kết văn bản như
sau: “Liên kết là thứ quan hệ giữa hai yếu tố ngôn ngữ nằm trong hai câu hoặc
nằm trong hai vế của một câu ghép theo kiểu giải thích nghĩa cho nhau. Chi
tiết hơn thì liên kết là thứ quan hệ giữa hai yếu tố ngôn ngữ mà muốn hiểu
nghĩa cụ thể của yếu tố này thì phải tham khảo ý nghĩa của yếu tố kia, và trên
cơ sở đó hai câu chứa chúng liên kết được với nhau” [4, tr. 352].
Như vậy, có thể thấy hiện có nhiều quan niệm khác nhau về tính liên kết
văn bản nhưng một điều dễ nhận thấy là hầu hết các nhà nghiên cứu đều
thống nhất cho rằng tính liên kết chính là yếu tố quan trọng nối các câu thành
một văn bản hoàn chỉnh, thống nhất. Liên kết chính là hình thức góp phần làm
tường minh hóa các kiểu quan hệ giữa các phát ngôn.
Liên kết của văn bản có hai mặt là liên kết hình thức và liên kết nội
dung. Hai liên kết này có mối quan hệ chặt chẽ, liên kết nội dung được thể
hiện bằng một hệ thống các phương tiện liên kết hình thức và liên kết hình
thức chủ yếu là dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung.
15


Liên kết hình thức là hệ thống các phương thức liên kết, và những cái
được liên kết với nhau trong văn bản là các câu (phát ngôn). Cách phân loại
các phát ngôn trong văn bản có liên quan đến nhiệm vụ mô tả liên kết hình
thức vì vậy mà trở nên cần thiết. Phương diện liên quan trực tiếp đến liên kết

hình thức giữa câu với câu là phương diện nghĩa. Về phương diện này các câu
được phân loại thành câu tự nghĩa và câu hợp nghĩa, nghĩa trực thuộc (hay là
câu dưới bậc - Diệp Quang Ban).
Liên kết nội dung cũng giống như liên kết hình thức. Tuy nhiên, liên kết
nội dung không chỉ giới hạn trong phạm vi các phát ngôn mà nó còn thể hiện
ở các góc độ khác nhau (giữa các đoạn văn, giữa các vế của phát ngôn, giữa
các từ…). Ở liên kết nội dung tất cả các câu trong văn bản đều được kết hợp
với nhau một cách nhịp nhàng, hài hòa, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện
một nội dung. Trong liên kết nội dung có hai bình diện là liên kết chủ đề và
liên kết logic. Liên kết chủ đề theo Trần Ngọc Thêm là bình diện quan trọng
nhất của liên kết nội dung “Liên kết chủ đề của văn bản chính là sự tổ chức
các chủ đề và phần nêu của các phát ngôn” [71, tr. 239].
Liên kết logic là một bình diện sâu hơn liên kết nội dung, nó mang tính
ngữ nghĩa nhiều hơn. Liên kết logic giống như sợi dây nối sự vật, sự việc với
đặc trưng của chúng trong một câu, nối giữa đặc trưng này với đặc trưng
kia… Liên kết logic được thể hiện bằng phép tuyến tính, phép nối lỏng, phép
nối chặt.
Tóm lại, tính liên kết của văn bản có hai mặt là liên kết hình thức và liên
kết nội dung. Hai liên kết này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Liên kết nội
dung được thể hiện bằng hệ thống các phương tiện hình thức và liên kết hình
thức chủ yếu dùng để diễn đạt liên kết nội dung. Vì vậy bất kì văn bản nào
cũng phải đảm bảo đầy đủ hai mặt liên kết này thì mới được coi là văn bản
thực thụ. Ngược lại, nếu thiếu một trong hai mặt liên kết này thì đó sẽ là “phi
văn bản”, có nghĩa chuỗi phát ngôn hỗn độn.
16


1.1.2.2. Phương tiện liên kết và phương thức liên kết văn bản
Phương tiện liên kết là các yếu tố hình thức cụ thể của ngôn ngữ tham gia
vào việc tạo sự kết nối giữa hai câu với nhau trong văn bản.

Phương thức liên kết là những yếu tố ngôn ngữ cụ thể được dùng trong
việc nối liên kết giữa mệnh đề với mệnh đề trong một câu, giữa các phát ngôn
hay các đoạn văn trong một văn bản. Liên kết trong văn bản là hiện tượng
chung cho một hay nhiều ngôn ngữ, nhưng các phương tiện ngôn ngữ cụ thể
dùng vào liên kết có thể khác nhau trong ngôn ngữ khác nhau. Sự liên kết có
thể diễn ra giữa câu này với câu kia hoặc giữa phần văn bản này với phần văn
bản khác ở trong cùng một văn bản.
Phương thức liên kết văn bản là cách sử dụng các phương tiện liên kết có
đặc tính chung vào việc liên kết trong văn bản. Người ta đã có thể phân loại
phương thức liên kết theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục đích
nghiên cứu, vào cơ sở phân chia các phương tiện và phương thức đó. Khi
khảo sát các phương thức liên kết trong từng ngôn ngữ cụ thể, hiển nhiên phải
chú ý đến tính chất đặc thù của các phương tiện ngôn ngữ tạo ra phát ngôn.
Mặt khác, việc định danh các phương thức liên kết còn tùy thuộc vào đặc
điểm của từng loại hình ngôn ngữ.
Các phương tiện dùng trong một phương thức liên kết đều có một điểm
chung để tập hợp lại với nhau trong một hệ thống con, nhưng giữa chúng có thể
có những nét riêng phân biệt với nhau để sử dụng trong những ngữ cảnh nhất
định. Chẳng hạn, cùng là những từ thay thế nhưng từ thay thế cho danh từ chỉ sự
vật khác với từ thay thế cho động từ, tính từ chỉ sự việc, cách thức, tính chất.
Tính chất chung của những từ này là “khả năng thay thế”, cho nên chúng thuộc
về phương thức liên kết thế. Phương thức liên kết còn được gọi là phép liên kết.
Trên thực tế, việc phân loại các phương tiện liên kết và phương thức liên
kết cũng khá phức tạp. Một số nhà ngôn ngữ như: I.A. Figurovskij, T.I.
Silman, M.A.K. Halliday… phân loại dựa vào sự phân chia truyền thống của
17


ngôn ngữ học, tức là so sánh với các quan hệ và các thành phần chức năng
trong câu. Lại có những cách phân loại dựa trên sự đối lập những phương tiện

liên kết đặc thù như của tác giả I.R. Gal’perin, L.M. Loseva…
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của những người đi trước,
Trần Ngọc Thêm (71, tr. 338-339) đã đưa ra một hướng phân loại tổng hợp
các phương thức liên kết gồm:
a) Phân loại theo quan hệ liên kết nội dung (thành liên kết hình thức thuần
túy và liên kết thể hiện nội dung). Liên kết thể hiện nội dung lại chia
thành liên kết chủ đề và liên kết logic.
b) Phân loại theo đơn vị liên kết. Lấy phát ngôn làm đơn vị liên kết văn bản,
dựa trên các tiêu chí hình thức, cấu trúc, nội dung, các phát ngôn được
phân loại thành các câu tự nghĩa, câu hợp nghĩa và ngữ trực thuộc.
c) Phân loại theo quan hệ liên kết. Ở cấp độ khái quát nhất, liên kết có hai
quan hệ: quan hệ đẳng lập (liên hợp) và quan hệ phụ thuộc (chính phụ).
Mỗi loại quan hệ này lại bao gồm một số phương thức liên kết cụ thể.
Trong văn bản có các phương thức liên kết chủ yếu sau: phương thức lặp
(gồm lặp từ vựng, lặp ngữ âm và lặp ngữ pháp), phương thức thế (gồm thế
đồng nghĩa, thế đại từ), phương thức tỉnh lược (gồm tỉnh lược mạnh và tỉnh
lược yếu), phương thức đối, phương thức liên tưởng, phương thức nối (gồm
nối lỏng và nối chặt), phương thức tuyến tính…
1.1.3. Các phép liên kết văn bản
Trong tiếng Việt có khá nhiều phép liên kết văn bản gồm: phép lặp, phép
đối, phép nối, phép thế, phép liên tưởng, phép tuyến tính, phép tỉnh lược…
Các phép liên kết này có vai trò quan trọng trong việc giúp cho văn bản hoàn
chỉnh về nội dung lẫn hình thức.
Phép lặp: là phép liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những yếu
tố đã có ở chủ ngôn. Phép lặp chia thành ba dạng thức đó là lặp từ vựng, lặp
ngữ pháp và lặp ngữ âm.
18


+ Lặp từ vựng là một dạng thức của phép lặp mà ở đó chủ tố và lặp tố là

những yếu tố từ vựng (từ thực, cụm từ). Đây là một dạng thức liên kết phổ
biến nhất trong văn bản. Hơn thế nữa, độ phổ biến của lặp từ vựng không chỉ
trải dài trên văn bản mà còn thể hiện ở cả sự lặp phức. Trong nhiều trường
hợp, tính hợp nghĩa hay tính trực thuộc của phát ngôn chính là hậu quả của
việc tránh lặp từ vựng phức này.
+ Lặp ngữ pháp là một dạng thức của phép lặp thể hiện ở việc lặp lại trong
kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lặp lại cả một số hư từ mà chủ ngôn
đã sử dụng. Nói khác đi, đó là dạng thức lặp mà chủ tố và lặp tố là mô hình
cấu trúc của phát ngôn và các hư từ.
+ Lặp ngữ âm là một dạng thức của phép lặp thể hiện ở việc lặp lại trong
kết ngôn những yếu tố ngữ âm (như âm tiết, số lượng âm tiết, khuôn vần, phụ
âm đầu, thanh điệu,… đã có ở chủ ngôn. Nói khác đi, đó là dạng thức lặp mà
chủ tố và lặp tố là những yếu tố ngữ âm.
Phép đối: là phép liên kết thể hiện ở việc sử dụng trong kết ngôn một ngữ
đoạn (từ hoặc cụm từ) có ý nghĩa đối lập với một ngữ đoạn nào đó có ở chủ
ngôn. Phép đối có cả hai yếu tố liên kết: yếu tố đối lập với chủ tố chứa trong
kết ngôn gọi là đối tố.
Căn cứ vào đặc điểm của các phương tiện dùng làm chủ tố và đối tố, có
thể phân loại phép đối thành bốn kiểu: đối bằng từ trái nghĩa, đối bằng từ
không trái nghĩa (đối lâm thời), đối bằng dạng phủ định và đối bằng dạng
miêu tả. Căn cứ theo độ phức tạp của các phương tiện, có thể chia phép đối
thành hai nhóm: nhóm có cả hai yếu tố liên kết là từ và nhóm có ít nhất một
trong hai yếu tố liên kết là cụm từ. Căn cứ vào tính ổn định của quan hệ đối
lập do các phương tiện trên tạo ra, lại có thể chia phép đối thành hai nhóm
khác nhau: nhóm đối ổn định (quan hệ đối lập được xác định rõ ràng, chính
xác) và nhóm đối không ổn định (quan hệ đối lập mờ nhạt, khó xác định).
19


Phép nối: là cách dùng những từ ngữ sẵn mang ý nghĩa chỉ quan hệ (kể cả

những từ chỉ quan hệ cú pháp bên trong câu), và chỉ các quan hệ cú pháp khác
trong câu, vào mục đích liên kết các phần trong văn bản lại với nhau. Phép
nối có thể dùng các phương tiện như: kết từ, kết ngữ, trợ từ, phụ từ, tính từ.
Phép nối gồm phép nối lỏng và phép nối chặt.
+ Phép nối lỏng là phương thức liên kết thể hiện ở sự có mặt trong kết
ngôn những phương tiện từ vựng (từ, cụm từ) không làm biến đổi cấu trúc của
nó và diễn đạt một quan hệ ngữ nghĩa hai ngôi mà “ngôi” còn lại là chủ ngôn.
+ Phép nối chặt là phương thức liên kết của ngữ trực thuộc định danh thể
hiện bằng sự có mặt của từ nối (liên từ, giới từ) ở chỗ bắt đầu (liên kết hồi
quy) hoặc chỗ kết thúc (liên kết dự báo) của nó, tạo thành một quan hệ ngữ
nghĩa hai ngôi giữa ngữ trực thuộc với chủ ngôn.
Phép tỉnh lược: là một dạng tỉnh lược xảy ra giữa các phát ngôn, là sự lược
bỏ các yếu tố mà người đọc có thể hiểu được nhờ mối liên hệ giữa các phát
ngôn trong phạm vi một ngữ cảnh nhất định. Phép tỉnh lược được chia làm hai
cấp độ gồm phép tỉnh lược mạnh và phép tỉnh lược yếu.
+ Phép tỉnh lược mạnh là phương thức liên kết của ngữ trực thuộc thể hiện
ở sự lược bỏ trong kết ngôn những yếu tố làm thành phần nòng cốt, dựa vào
sự có mặt của chúng trong chủ ngôn.
+ Phép tỉnh lược yếu là phương thức liên kết thể hiện ở sự lược bỏ trong
kết ngôn những yếu tố có mặt ở chủ ngôn, và sự vắng mặt này phá vỡ sự hoàn
chỉnh nội dung của kết ngôn mà không ảnh hưởng gì đến cấu trúc nòng cốt
của nó.
Phép thế: là cách thay những từ ngữ nhất định bằng những từ ngữ có ý
nghĩa tương đương (cùng chỉ sự vật ban đầu, còn gọi là có tính chất đồng
chiếu) nhằm tạo tính liên kết giữa các phần văn bản chứa chúng. Có hai loại
phương tiện dùng trong phép thế là thay thế bằng từ ngữ đồng nghĩa và thế
bằng đại từ.
20



×