Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Ảnh hưởng của biến đổi môi trường sông Năng đến sinh kế người Tày, Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.02 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lý Cẩm Tú

ẢNH HƢỞNG CỦA BIẾN ĐỔI MÔI TRƢỜNG SÔNG NĂNG
ĐẾN SINH KẾ NGƢỜI TÀY, DAO Ở XÃ BÀNH TRẠCH,
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 31 03 10

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội (Hà Nội)
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Bích Lan

Phản biện 1: TS. PGS. Trần Hồng Hạnh, Viện Dân tộc học, Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam.
Phản biện 2: TS. Nguyễn Trường Giang, Khoa Nhân học, trường Đại
học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại:
Học viện Khoa học xã hội 8 giờ 30 phút, ngày 17 tháng 10 năm 2017

Có thể tìm đọc luận văn tại: Thư viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam - một đất nước được ưu ái hệ thống sông dồi dào, với trên
2.360 con sông và 16 lưu vực lớn, cung cấp hơn 1.167.000 km2 diện tích
đất cho cư dân toàn quốc. Tuy nhiên, sông ngòi ở nước ta lại đang bị ô
nhiễm, tàn phá nghiêm trọng bởi nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt, công
nghiệp ngày một gia tăng, cộng thêm rác thải và các hoạt động khai
khoáng, thuỷ điện, phá rừng... không được kiểm soát. Là khu vực chậm
phát triển so với cả nước, miền núi phía Bắc Việt Nam đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề về môi trường trong đó có biến đổi các hệ sinh thái
sông. Đây cũng là nơi cư trú của nhiều cộng đồng, tộc người với bản sắc
văn hóa riêng biệt, gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Vậy, biến đổi môi
trường sông ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của họ? Họ đang làm
gì để thích nghi?
Với lý do trên, tôi chọn: “Ảnh hưởng của biến đổi môi trường sông
Năng đến sinh kế người Tày, Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình. Kết quả nghiên
cứu góp phần đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của biến đổi hệ sinh thái sông
Năng đến sinh kế người Tày và Dao, từ đó cung cấp cơ sở khoa học cho
việc hoạch định chính sách, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Môi trường sông là đối tượng nghiên cứu được quan tâm trên thế
giới. Trong suốt thập niên 1990 đến những năm gần đây, các công trình
về sông đều xuất hiện rải rác trên các tạp chí chuyên ngành Sinh thái học
và Sinh thái Nhân văn. Đó là Chowdhury E.Haque (1988) đề cập đến
cách mà người dân ở vùng đồng bằng châu thổ sông Jamuna
(Bangladesh) chống chịu với tình trạng sạt lở. Tiếp đến năm 1998, bài

1



báo Giá trị của một dòng sông (J. Stephen Lansing, Philip S. Lansing và
Juliet S. Erazo, 1998) tiếp tục khẳng định vai trò của môi trường sông
đối với con người. Sau đó 11 năm là báo cáo Lượng giá dịch vụ sinh
thái sông Verde (Arizona, Hoa Kỳ) - công trình quy mô nhất năm 2009
của Cơ quan bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (EPA, 2009).
Tuy nhiên, ở nước ta, trên cả lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng như
xã hội, đặc biệt là Dân tộc học, các hệ sinh thái sông còn ít được quan
tâm. Một vài nghiên cứu liên quan có thể kể ra như: Cộng đồng dân tộc
Tây Bắc Việt Nam và thủy điện (Diệp Đình Hoa, 1996); Văn hóa các tộc
người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La (Phạm Quang
Hoan, chủ biên, 2012); Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của
người dân dễ bị tổn thương ở tỉnh An Giang (Phạm Xuân Phú, 2013);
An ninh nguồn nước & quản lý lưu vực sông (Trung tâm Con người và
Thiên nhiên, 2015); Sinh kế của cư dân các làng chài dọc sông Lô
(Nguyễn Thị Tám, 2017)... Hầu hết, những công trình kể trên đều cho
thấy suy thoái môi trường, giảm sút các nguồn lợi tự nhiên của sông
ngòi đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người, song chưa
thật sự rõ ràng. Sông Năng và sinh kế của các cộng đồng dân cư lân cận
chưa được đề cập đến trong bất kỳ một công trình. Do đó, trong xu
hướng liên ngành và xuyên ngành của khoa học hiện đại, cần thiết có
một nghiên cứu đặt tộc người trong mối quan hệ với các yếu tố sinh thái,
để đánh giá toàn diện, định hướng lâu dài hướng tới phát triển bền vững.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu này là tìm hiểu ảnh hưởng của suy
thoái môi trường sông Năng đến sinh kế của một số tộc người ở xã Bành
Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Nhiệm vụ nghiên cứu gồm: Tìm hiểu
về tình hình biến đổi môi trường sông Năng; So sánh các hoạt động sinh


2


kế liên quan đến sông Năng của người Tày và Dao ở xã Bành Trạch
huyện Ba Bể trước và sau Đổi mới; Đưa ra nhận xét sơ bộ và Đề xuất
một vài kiến nghị.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu này tập trung vào hai đối tượng sau: Hệ sinh thái sông
Năng, bao gồm cả dòng nước và vùng ven bờ; và Sinh kế của hai tộc
người Tày và Dao.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu là xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh
Bắc Kạn. Trong đó, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại 4 thôn: Nà Dụ,
Pác Pìn, Nà Nộc và Nà Còi.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu tập trung so sánh lịch đại trước năm
1986 và từ khi Đổi mới đất nước đến nay; so sánh đồng đại giữa người
Tày và Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận chung nhất của luận văn là áp dụng duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét các vấn
đề; quán triệt quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Luận văn được tiếp cận từ góc nhìn Dân tộc học và liên ngành trên
cơ sở áp dụng đồng thời cả hai góc nhìn là Dân tộc học và Sinh thái
nhân văn để nghiên cứu, phân tích và đánh giá các vấn đề.
Các phương pháp nghiên cứu gồm: Điền dã dân tộc học tại xã Bành
Trạch và 4 thôn được chọn, trong đó sử dụng các công cụ như phỏng
vấn sâu, phỏng vấn hồi cố, thảo luận nhóm, quan sát tham dự... Ngoài
ra, luận văn có sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi hộ gia đình vào
tháng 4/2017; áp dụng các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp...


3


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn cung cấp nguồn tư liệu mới và chính xác về tình hình
biến đổi môi trường sông Năng, và ảnh hưởng của sự biến đổi này tới
sinh kế hai tộc người Tày và Dao.
+ Luận văn áp dụng hướng tiếp cận mới là: liên ngành Dân tộc học
và Sinh thái học, mang tính ứng dụng cao và thiết thực.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của suy thoái hệ sinh thái sông Năng
đối với sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số, cung cấp cơ sở khoa học
cho việc đổi mới các chính sách của địa phương.
+ Góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, tri
thức địa phương của tộc người, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có độ dài 79 trang. Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài
liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính gồm ba chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
Chƣơng 2. Vai trò của hệ sinh thái sông Năng đối với sinh kế của
người Tày và Dao trước năm 1986
Chƣơng 3. Sinh kế của người Tày và Dao dưới tác động của biến
đổi môi trường sông Năng từ năm 1986 đến nay

4


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU


1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Sinh kế
Thuật ngữ “sinh kế” vốn được sử dụng để chỉ việc làm, hoạt động
mưu sinh kiếm sống. Hay hiểu đơn giản thì sinh kế bao gồm hai yếu tố
sinh (sống) và kế (tính toán), tức sinh kế là cách làm ăn mưu cầu sự
sống. Khái niệm này được đưa ra bởi R.Chamber và G.R.Conway năm
1992, sau này là Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFIT) năm 1999. Trong
đó, vốn tự nhiên - môi trường đóng vai trò nền tảng đối với hoạt động
kinh tế, đặc biệt là nông, lâm nghiệp.
1.1.2. Lý thuyết sinh thái văn hóa
Julian Haynes Steward là nhà nghiên cứu văn hóa người Mỹ nổi
tiếng, người đặt nền móng cho Sinh thái học văn hóa (Cultural ecology)
với công trình: Lý thuyết về sự thay đổi văn hóa - phương pháp luận về
tiến hóa đa tuyến. Ông định nghĩa sinh thái học văn hóa như sau: “…là
khoa học nghiên cứu những quá trình thích nghi mà qua đó bản chất
của xã hội và những đặc trưng khả biến của văn hóa được tác động bởi
những điều chỉnh cơ bản thông qua việc con người tận dụng môi trường
sẵn có” (Steward, 1955).
1.1.3. Các dịch vụ sinh thái
Năm 1977, Westman xuất bản bài tạp chí xem xét mối liên quan giữa
các hệ thống sinh thái và sinh kế với tiêu đề: Các dịch vụ thiên nhiên có
giá bao nhiêu? (MEA, 2005). Đó là xuất phát của khái niệm “dịch vụ
sinh thái” mà các nhà sinh thái học những thập kỷ tiếp theo đã tiếp tục
mở rộng nó như là: “Những lợi ích con người có được từ các hệ sinh

5


thái, bao gồm dịch vụ cung cấp như thức ăn và nước; các dịch vụ điều

tiết như điều tiết lũ lụt, hạn hán; các dịch vụ hỗ trợ như hình thành đất
và chu trình dinh dưỡng; và các dịch vụ văn hóa như giải trí, tinh thần,
tín ngưỡng và các lợi ích phi vật chất khác” (MEA, 2005, tr.68).
1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Luận văn chọn địa điểm nghiên cứu tại xã Bành Trạch, huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn. Là cửa ngõ phía Đông Bắc, giáp với tỉnh Cao Bằng,
xã Bành Trạch cách trung tâm huyện khoảng 7km về phía Bắc. Bành
Trạch có diện tích tự nhiên 5.967,47 ha với đồi núi chiếm hơn 80%, độ
cao trung bình 500 - 600m, đỉnh cao nhất 825m. Xã nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa núi cao rõ rệt, có mùa h ôn hòa, mùa đông lạnh
hơn so với đồng bằng. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 20oC, với sự
chênh lệch lớn giữa các tháng trong năm. Xã Bành Trạch có độ che phủ
rừng khá lớn (hơn 82%), tuy nhiên, chủ yếu là rừng sản xuất hoặc tái
sinh, do đó có trữ lượng gỗ thấp, động thực vật quý hiếm hầu như không
còn, chỉ có chim và thú nhỏ (Lê Hùng Anh, 2015).
Bên cạnh những thuận lợi về khí hậu, xã Bành Trạch cũng phải chịu
nhiều khó khăn như sương mù, mưa phùn kết hợp với địa hình dốc phức
tạp, gây cản trở giao thông. Đặc biệt, tình hình biến đổi khí hậu ở nơi
đây cũng diễn ra ngày càng rõ rệt.
Hệ sinh thái sông Năng
Trong đó, sông Năng với tổng chiều dài 117km với 87km qua tỉnh
Bắc Kạn, 25km qua xã Bành Trạch, là con sông lớn nhất vắt ngang
huyện Ba Bể nói chung, địa điểm nghiên cứu nói riêng. Sông Năng nằm
ở khu vực có địa hình dốc, lòng sông hẹp, diện tích lưu vực là 2.293km²,

6


lưu vực tại tỉnh Bắc Kạn là 890km2 - lớn nhất trong các con sông chảy

qua huyện Ba Bể. Là một địa bàn rộng lớn với nhiều tiềm năng về thổ
nhưỡng và thủy điện, hai bên sông dựa vào các dãy núi khá cao trên
240m, sườn núi với độ dốc lớn (35 - 40o) được phủ bởi các lớp mỏng
mùn tàn tích (Lê Hùng Anh, 2015).
1.2.2. Đặc điểm dân cư, dân tộc
Bành Trạch là một xã đa dạng về thành phần tộc người, với năm dân
tộc: Dao, Hmông, Tày, Nùng và Kinh. Ở xã Bành Trạch, dân cư hầu hết
phân bố tập trung theo đơn vị thôn bản, bao gồm 13 thôn vào năm 2016.
Đồng bào cư trú xen kẽ ở vùng địa hình thấp nhưng càng lên cao, thành
phần tộc người ở các thôn càng không đồng đều.
Địa hình phức tạp nên phát triển cơ sở hạ tầng không đều khiến xã
Bành Trạch có thể phân thành hai vùng. Vùng 1 gồm phần phía Nam
của xã với các thôn: Pàn Han, Nà Thi, Bản Hon, Lũng Điếc, Pác Châm,
Nà Lần, Nà Dụ chủ yếu gồm người Tày, Kinh, Dao. Đây là vùng thấp và
bằng phẳng hơn, chỉ khoảng 200m đến 400m, thuận lợi hơn cho phát
triển kinh tế xã hội. Vùng 2 bao gồm phần giữa và phía Bắc của xã, gồm
các thôn Pác Pìn, Khuổi Khét, Nà Nộc, Bản Lấp, Tôm Làm, Nà Còi, có
độ cao 500m đến 750m nhiều dốc và núi. Dân cư thưa thớt, chủ yếu
thuộc các dân tộc Dao, Tày và Hmông và xen với Nùng, sinh kế chủ yếu
tự cung tự cấp với năng suất chưa cao, chỉ đủ ăn, đời sống còn nhiều khó
khăn song còn giữ được nhiều bản sắc văn hóa.
Người Dao và Tày ở Nà Còi, Nà Dụ vốn sinh sống tại xã Bành
Trạch từ lâu đời. Sau đó, trong chiến tranh biên giới ở phía Bắc, một bộ
phận người Dao Đỏ sơ tán từ Cao Bằng xuống đây, thành lập nên một số
chòm thuộc thôn Nà Nộc cùng vài thôn khác. Tuy thời gian cư trú khác
nhau, song các dân tộc đều đoàn kết, tương trợ cùng phát triển.

7



1.2.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Xã Bành Trạch đang hướng tới phát triển kinh tế tập trung vào
nông - lâm nghiệp, chủ yếu sản xuất theo quy mô hộ gia đình kết hợp
với trồng trọt và chăn nuôi truyền thống. Trong đó, trồng trọt giữ vai trò
quan trọng nhất nhằm đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu lương thực phục vụ
đời sống của nhân dân trong xã. Chăn nuôi tại xã khá phát triển, với đa
dạng chủng loại vật nuôi như: trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng, cá
và các loại thủy sản... nhưng chỉ phục vụ nhu cầu về thực phẩm ở quy
mô hộ gia đình, tiến tới trao đổi, buôn bán nhỏ lẻ, chưa tập trung theo
hướng hàng hóa. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bước đầu phát
triển chế biến gỗ, khai thác vật liệu xây dựng. Dịch vụ và thương mại
tuy đã được đẩy mạnh trong những năm gần đây, song chỉ chiếm khoảng
14% cơ cấu kinh tế.
Về y tế và giáo dục, hạ tầng còn hạn chế, toàn xã chỉ có 9 phân
trường mẫu giáo, 1 điểm trường tiểu học, 1 điểm trường THCS với giáo
viên trên cả ba cấp. Trạm y tế có diện tích 300m2 với ba nhà bán kiên
cố, trang thiết bị còn sơ sài, đội ngũ cán bộ còn chưa đầy đủ. Nhân dân ở
các thôn xa trạm như Nà Còi, Nà Nộc... chủ yếu chữa bệnh theo phương
thức truyền thống. Bên cạnh đó, vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng
luôn được đảm bảo, đang từng bước hạn chế các tệ nạn xã hội, tai nạn
giao thông, vi phạm luật giao thông... tuy cơ sở hạ tầng còn hạn chế, xã
Bành Trạch đã thực hiện xong Chương trình phổ cập giáo dục THCS.
Tiểu kết chƣơng 1
Qua lý thuyết sinh thái học, quan hệ con người - tự nhiên là quan hệ
tương tác chặt chẽ. Chọn sông Năng ở xã Bành Trạch để nghiên cứu là
nhằm làm rõ mối quan hệ đó, bởi sông này rất quan trọng với người
Tày, Dao nơi đây, nhưng nay sông Năng đang bị suy thoái môi trường.

8



Chƣơng 2
VAI TRÒ CỦA HỆ SINH THÁI SÔNG NĂNG ĐỐI VỚI SINH KẾ
NGƢỜI TÀY VÀ DAO TRƢỚC NĂM 1986

2.1. Vai trò của hệ sinh thái sông Năng đối với sinh kế ngƣời Tày
2.1.1. Cung cấp nước và phù sa cho trồng trọt
Là một tộc người ở vùng thấp, cuộc sống của người Tày vốn gắn
liền với sông Năng từ lâu đời. Trong đó, nổi bật nhất là hoạt động trồng
trọt, chăn nuôi, khai thác tài nguyên thiên nhiên và giao thông đường
thủy liên quan đến thương mại, dịch vụ. Nước sông Năng tuy đóng vai
trò quan trọng trong nông nghiệp là bồi đắp cho các đám nương ven
sông (59,4%) cũng như vườn gia đình (36,3%) và chăn nuôi các loại gia
súc gia cầm, song với ruộng lúa nước là hình thức canh tác chính của họ
thì sông Năng lại không đem lại nhiều lợi ích (3,3%).
Ngược lại, với đất nương, vai trò của sông Năng vô cùng quan
trọng. Người Tày ở Bành Trạch đặc biệt ưa chuộng những mảnh đất ven
sông Năng vì vừa bằng phẳng, vừa màu mỡ. Không chỉ những nơi gần
sông như thôn Nà Dụ mà thậm chí nhiều người dân ở thôn Pác Pìn có
thể đi bộ 2-3km hằng ngày ra gần sông làm nương và ruộng. Vườn gia
đình cũng hình thức canh tác phổ biến ở người Tày xã Bành Trạch.
Nước tưới vườn là nước mưa và nước thải sinh hoạt, mà nước sinh hoạt
vốn lấy từ sông Năng, qua hệ thống vườn lại đổ ra sông Năng, mang
theo chất hữu cơ nuôi động vật thủy sinh như một vòng tuần hoàn.
2.1.2. Cung cấp nước và thức ăn chăn nuôi
Do được thả rông, lại sinh sống gần sông Năng, từ bao đời nay các
loài vật nuôi của đồng bào dường như hòa làm một với thiên nhiên.
Chúng không chỉ sử dụng nước sông Năng mà còn kiếm ăn trên các bãi

9



cỏ ven sông, chất thải làm màu mỡ thêm cho những mảnh nương, ruộng.
Người Tày rất chuộng chăn thả ở các bãi ven sông vì cỏ ở đó tốt hơn lại
tiện cho gia súc uống nước. Hơn nữa, quy định của các thôn có những
điều rất cụ thể: mỗi hộ chỉ được nuôi tối đa chục con gia súc mỗi loại,
các bãi chăn thả phải luân phiên thay đổi để cỏ mọc, có người trông coi
để tránh phá hoại mùa màng, vật nuôi chết không được vứt ra sông...
Không chỉ đem lại thu nhập ổn định, các loài gia súc, gia cầm này
còn tham gia vào hệ sinh thái sông Năng như một thành phần giúp duy
trì vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng, lưới thức ăn, quá trình khống
chế sinh học... Hoạt động trồng trọt cũng vậy, đồng ruộng và nương rẫy
là ổ sinh thái của rất nhiều loài sinh vật hoang dã. Nói cách khác, tổ hợp
sinh thái nông nghiệp của người Tày nơi đây đã trở thành một thành
phần không thể tách rời trong hệ sinh thái sông Năng.
2.1.3. Cung cấp nguồn thủy sản cho cư dân trong vùng
Theo lời kể của nhiều cụ người Tày, sông Năng trước kia rất nhiều
cá, một lần đánh lưới được hơn 10kg. Thậm chí những con cá dài nửa
mét thuộc họ cá bỗng (Spinibarbus denticulatus) cũng thường đánh bắt
được. Số liệu điều tra bảng hỏi cho thấy, 100% hộ gia đình thôn Nà Dụ
cho rằng, trước năm 1986, sản lượng cá sông Năng rất dồi dào, vừa đủ
cung cấp cho gia đình, vừa để đem bán. Đến bây giờ, nhiều người dân
vẫn cho rằng họ thích ăn cá sông hơn vì không có mùi bùn như cá ao.
Thủy sản sông Năng được đánh bắt bằng nhiều hình thức khác nhau
như câu, quăng chài, thả lưới, bẫy lồng, duốc cá (bưa phya)... Công cụ
để đánh bắt cũng gồm nhiều loại như chài, lưới, cần câu, vợt, vó, đó,
rọ... phần lớn do người dân tự làm, tự dùng trong gia đình, chưa phát
triển thành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Ngoài ra, họ còn đánh
duốc cá bằng cách dùng ớt, cây thâm, cóc kèn, dây mật và nhiều loại lá


10


rừng đem giã nhỏ để thả xuống nước làm cá chết, nổi lên. Do ảnh hưởng
lớn đến môi trường, thời gian và quy mô đánh duốc rất quan trọng với
sự sinh sản, phát triển của các loài cá. Vì vậy, những luật tục, quy định
chặt chẽ về vấn đề này cũng được thiết lập: mỗi năm chỉ được đánh
duốc tối đa 3 lần, không được đánh sau tháng 7 Âm lịch hay quá phạm
vi của thôn trừ khi được sự đồng ý và tham gia của các thôn lân cận...
2.1.4. Các vai trò khác
Bên cạnh những vai trò vừa kể trên, sông Năng còn là tuyến giao
thông quan trọng với bà con người Tày. Trước năm 1986, khi đường xá
nối các thôn bản và đi ra chợ huyện còn thô sơ, chưa có phương tiện cơ
giới, thì đồng bào thường vận chuyển hàng hóa bằng b , mảng qua
đường thủy sông Năng vừa an toàn vừa tốn ít công sức. Ngoài ra, để qua
sông Năng vào mùa cạn, khi nước xuống thấp, người dân thường bắc
những cây cầu tạm bằng tre. Thậm chí từng có một vài người Tày ở cả
hai thôn này làm dịch vụ ch o mảng qua sông Năng trong mùa nước lũ,
công được trả bằng nông sản hoặc rượu.
Tóm lại, trong sinh kế truyền thống của người Tày ở xã Bành Trạch,
đặc biệt ở Nà Dụ và phía Nam thôn Pác Pìn, sông Năng giữ vai trò thiết
yếu. Ngược lại, ở phía Bắc thôn Pác Pìn, sông Năng không đem lại
nhiều lợi ích. Do vị trí xa sông, cùng nguồn tài nguyên thay thế dồi dào,
nên sự phụ thuộc của người Tày ở đây vào sông Năng chỉ được thể hiện
qua trồng trọt, chăn nuôi, khai thác thuỷ sản và giao thông thủy.
2.2. Vai trò của hệ sinh thái sông Năng với sinh kế ngƣời Dao
2.2.1. Cung cấp nước và phù sa cho trồng trọt
Đối với người Dao Tiền thôn Nà Còi, nước tưới cho ruộng được lấy
từ khe suối về bằng hệ thống mương đất kết hợp máng tre hoặc máng


11


thân cây móc rừng đơn giản. Với những mảnh ruộng xa khe suối, họ sử
dụng nước sông Năng để cứu lúa bằng máy bơm lý tâm. Tuy nhiên, chỉ
có 16,5% số hộ được hỏi ở Nà Còi sử dụng nước sông Năng để làm
ruộng trước năm 1986; và chỉ có 10% hộ sử dụng nước sông Năng để
làm vườn nên cũng khá thấp, rất ít hộ làm nương rẫy ven sông, nương
bãi bồi... Vì thế, sông Năng trước đây không đóng vai trò quá lớn đối
với sinh kế truyền thống của người Dao Tiền. Ngược lại, với người Dao
Đỏ ở thôn Nà Nộc, sông Năng chiếm một vị trí thiết yếu. Vùng bãi ven
sông thường được họ chọn làm nơi phát ruộng, nước tưới do vậy cũng
được lấy từ sông Năng bằng hệ thống cọn. Trước năm 1986 có đến 80%
số hộ người Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc dùng nước sông Năng để trồng lúa.
Ngoài ruộng, sinh thái nông nghiệp của người Dao ở đây có nương
rẫy ở lưng núi, sườn đồi... Theo họ, khu vực bãi ven sông dễ bị lũ làm
ngập, không thể canh tác lâu dài, nhất là mùa mưa lũ. Trước đây họ
không có vườn, quanh nhà chỉ trồng chuối làm thức ăn chăn nuôi. Từ
khi thực hiện định canh định cư, một số loại cây trên nương mới được
đưa về gần nhà như rau, gia vị, mía... dần dần hình thành vườn gia đình,
tăng thêm tính đa dạng của khu hệ sinh thái nông nghiệp.
2.2.2. Cung cấp nước và thức ăn chăn nuôi
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng chiếm vai trò quan trọng trong
cơ cấu sinh kế truyền thống của người Dao. Giữa hai nhóm Dao lại có
sự khác biệt rõ rệt: người Dao Tiền vốn không có truyền thống đào ao
nuôi cá, trong khi người Dao Đỏ trước kia lại xây dựng những chiếc ao
rất độc đáo từ các khe suối. Ao thường được tạo ở các khe có độ dốc
nhỏ, nguồn nước chảy liên tục và ở gần nhà để tiện chăm sóc, quản lý.
Sau khi chuyển về xã Bành Trạch, do khai thác nguồn lợi sông Năng
khá dồi dào cùng với tiếp thu tập quán thả cá ruộng của người Tày, loại


12


ao này càng ngày càng hiếm đi. Đến những năm 1990 chỉ còn khoảng 45 hộ tiếp tục duy trì các ao từ khe suối. Đây là một ví dụ rõ rệt cho việc
thích ứng của người dân với nơi cư trú mới, điều kiện môi trường mới.
Việc chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm khác không có nhiều sự
khác biệt giữa hai nhóm Dao, giữa người Dao và người Tày. Ngoài các
chủng loại gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà... thì nhiều gia đình
người Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc biết tận dụng nước sông Năng để nuôi
thêm vịt, ngan, ngỗng... Trong khi đó, người Dao Tiền thôn Nà Còi thì ít
nuôi những con vật này, bởi nơi họ ở chỉ có khe, suối nhỏ, khó chăn thả.
Hệ sinh thái sông Năng do đó đóng góp thêm một vai trò nữa, không
quá lớn nhưng cũng hỗ trợ phần nào đời sống của đồng bào Dao Đỏ.
2.2.3. Cung cấp nguồn thủy sản cho cư dân trong vùng
Số liệu điều tra cho thấy 82,8% số hộ người Dao ở cả hai thôn Nà
Nộc và Nà Còi cho rằng, cá sông Năng trước đây rất dồi dào. Nếu với
người Tày, cá ao và cá đồng vẫn có thể là nguồn thực phẩm thay thế, thì
người Dao, đặc biệt người Dao Tiền ở Nà Còi trước kia chủ yếu làm
nương, ít ruộng nước, không đào ao nuôi cá, nên hầu như phụ thuộc
hoàn toàn vào thủy sản sông Năng. Các hình thức đánh bắt cũng rất phát
triển, gồm đủ các loại chài, lưới, bẫy, lồng, đơm, cần câu, duốc cá...
Ngoài cá, những loài thuỷ sinh khác như trai, ốc, tôm, cua... cũng
được người Dao ở đây khai thác triệt để. Theo lời kể của nhiều cụ già,
xưa kia việc tranh thủ đánh cá, đánh tôm bắt ốc sau khi đi nương về vừa
giúp cải thiện bữa cơm gia đình, vừa trở thành một thú vui. Vào mùa
nông nhàn, thanh niên và trẻ con thường tụ tập thành nhóm ch o mảng
ra sông Năng bắt cá, bắt ốc nướng ăn và chơi những trò chơi truyền
thống. Cá sông Năng không chỉ dùng để ăn mà còn là quà biếu khi sang
làng khác. Đối với những cư dân vùng núi cao còn thiếu đói thì những


13


xâu cá sông là món quà rất quý giá về cả vật chất lẫn tinh thần. Đó chính
là ý nghĩa văn hóa thiêng liêng không thể thay thế của dòng sông Năng
trong đời sống tinh thần của cộng đồng, người dân xã Bành Trạch.
2.2.4. Các vai trò khác
Cũng như người Tày, sông Năng là tuyến giao thông thủy của đồng
bào Dao. Trước kia chưa có xe máy và cầu treo qua sông, việc vận
chuyển qua sông chủ yếu bằng b , mảng. Như đã đề cập, dịch vụ tr o b
mảng qua sông tương đối phổ biến ở các hộ người Tày, còn người Dao
lại là khách hàng chủ yếu. Do đó, sông Năng gián tiếp thắt chặt mối
quan hệ đoàn kết, giao lưu giữa các thôn bản, các tộc người trong xã.
Do phong trào đánh bắt cá sông trước đây, nên việc đan lưới, lồng
bẫy cá tôm, sửa chữa lưới... đôi khi trở thành nguồn thu nhập phụ của
một số gia đình ở Nà Còi. Tuy chưa thành một ngành nghề riêng biệt,
song đây là bước khởi đầu của tiểu thủ công nghiệp vùng cao.
Có thể nói, nếu với người Tày, vai trò quan trọng nhất của sông
Năng là cung cấp nước sinh hoạt, thì với người Dao lại là nguồn lợi thủy
sản (Nà Còi) và tưới tiêu cho hệ thống nông nghiệp (Nà Nộc). Sự khác
biệt giữa hai thôn, không chỉ do vị trí và khoảng cách đến sông Năng,
mà còn do tập quán sản xuất, sinh hoạt truyền thống, thời gian cư trú và
sự thích nghi của họ với môi trường tự nhiên xã Bành Trạch.
Tiểu kết chƣơng 2
Tại xã Bành Trạch trước năm 1986, sông Năng có vai trò quan trọng
trong sinh kế truyền thống của hai dân tộc Tày, Dao ở các thôn Nà Dụ,
Pác Pìn, Nà Nộc, Nà Còi. Trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản... đều
liên quan tới sông Năng. Thủ công gia đình liên quan đến đánh bắt cá,
giao thông vận tải thủy đều có bóng dáng của sông Năng ở đó...


14


Chƣơng 3
SINH KẾ NGƢỜI TÀY VÀ DAO DƢỚI TÁC ĐỘNG
CỦA BIẾN ĐỔI MÔI TRƢỜNG SÔNG NĂNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

3.1. Tình hình suy thoái môi trƣờng sông Năng
3.1.1. Thực trạng
Theo báo cáo của Trung tâm Quan trắc môi trường của Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh Bắc Kạn, dựa theo so sánh các thông số chất
lượng nước mặt, có thể nhận thấy, sông Năng đang có dấu hiệu ô nhiễm.
Cá biệt, ở một vài điểm quan trắc cho thấy hàm lượng kim loại nặng và
độc hại như chì (Pb), thủy ngân (Hg), Asenic (As)... rất cao, gấp 3-10
lần quy chuẩn do tồn dư của hoạt động khai thác vàng, khoáng sản trái
phép diễn ra trong nhiều năm ở lòng sông và ven bờ sông Năng.
Không chỉ chất lượng nước, chế độ và lưu lượng nước sông Năng
cũng mất đi sự ổn định. Khi có lũ đột ngột, mực nước sông Năng có thể
dâng cao thêm đến 2,8m, gây úng ngập một số diện tích đất canh tác của
bà con, cuốn trôi hoa màu... Lưu lượng nước quá thấp vào mùa kiệt
(trong tháng 1 xuống đến 18,5cm) khiến giao thông thủy trở nên khó
khăn, không thể sử dụng b hoặc mảng để vận chuyển hàng hóa.
Về động thực vật, theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường
Bắc Kạn (2015), nay còn 49 loài, phần lớn thuộc một số chi ngành tảo
Mắt, tảo Lục, tảo Lam. Đây là đại diện cho thực vật nổi vùng hạ lưu
sông hay ở các thuỷ vực ao, hồ có dinh dưỡng cao, biểu hiện sự ô nhiễm
hữu cơ, chứng tỏ nguồn nước không còn sạch. Về cá - nguồn lợi thủy
sản chính, nay đã giảm mạnh về nhiều loài, do bị tác động ô nhiễm môi
trường từ chặt phá rừng và đánh bắt bằng cách huỷ diệt như thuốc nổ,

kích điện, duốc cá, tát cạn bắt hết hay chặn dòng chảy. Những loài cá

15


lớn, ưa nước sạch chủ yếu xuôi dòng từ hồ Ba Bể đến sông Năng sinh
sống, sinh sản nay đều không còn nữa.
3.1.2. Nguyên nhân
Bối cảnh lịch sử là nguyên nhân khách quan của suy thoái môi
trường sông Năng. Trước sự mất mát chung của những nguồn lợi tự
nhiên trên khắp đất nước, sông Năng không phải ngoại lệ. Sự nghiệp
Đổi mới khiến tư duy người dân biến đổi theo cơ chế thị trường, làm cho
tính thiêng của sông Năng, rừng đầu nguồn giảm đi, mở đường cho
những hành vi gây suy thoái môi trường diễn ra. Bên cạnh đó, biến đổi
khí hậu là nguyên nhân khách quan thứ hai gây nên sự suy thoái của hệ
sinh thái sông Năng, đặc biệt là làm mất ổn định lưu lượng dòng chảy.
Về chủ quan, do các dân tộc tại chỗ sống ở ven bờ sông Năng, thời
kỳ đầu Đổi mới, họ dường như đánh mất ý thức giữ gìn môi trường.
Việc bán đất và nông sản cho “vàng tặc” từng đem lại thu nhập đáng kể
cho nhiều hộ dân ở thời kỳ đó. Rừng đầu nguồn bị chặt lấy gỗ và phát
nương rẫy; rác thải vứt bừa ra sông suối; thủy sản bị khai thác tận diệt
bằng thuốc nổ, kích điện, lưới mắt nhỏ; đất ven bờ giao bán cho “vàng
tặc” dù đã có chủ trương của chính quyền địa phương, thậm chí nhiều
gia đình còn lén lút tham gia khai thác vàng... Có thể nói, thế cân bằng
giữa con người và thiên nhiên đang dần bị phá vỡ kéo theo nhiều hậu
quả lâu dài, mà ngay lúc đó người dân vẫn chưa nhận thức được.
3.2. Biến đổi sinh kế của ngƣời Tày và Dao ở xã Bành Trạch
3.2.1. Biến đổi trong hoạt động trồng trọt
3.2.1.1. Thay đổi về nguồn nước sản xuất
Ngược lại với sự ô nhiễm dần đi của nước sông Năng, vai trò của nó

trong nông nghiệp người Tày ở Nà Dụ lại trở nên quan trọng hơn. Lý do

16


là cơ cấu mùa vụ tăng lên dẫn đến tình trạng thiếu nước sản xuất, đặc
biệt trong đầu mùa xuân lúc lượng mưa xuống thấp nên thường xuyên
xảy ra thiếu nước. Để cứu lúa, bà con phải dùng máy bơm đưa nước
sông Năng vào ruộng, cũng là một cách tận dụng tài nguyên trong điều
kiện dân số gia tăng, áp lực về an ninh lương thực ngày càng tăng.
Đối với phía Nam thôn Pác Pìn, do canh tác gần sông Năng, cộng
thêm hệ thống mương phai có sẵn nên nguồn nước sản xuất được đáp
ứng khá đầy đủ. Ngược lại, ở phía Bắc, do chỉ sử dụng duy nhất nguồn
nước khe để tưới tiêu nên gần đây đều khó đáp ứng cho diện tích ruộng
lúa hai vụ ngày càng mở rộng. Hiện nay chỉ còn một nhóm nhỏ cư dân
(khoảng 9-12 hộ) trụ lại ở phía Bắc, làm ruộng gần chân núi.
Khác với người Tày, biến đổi trong sử dụng nước của người Dao Đỏ
thôn Nà Nộc lại là quá trình chủ động. Sau 1986, rất nhiều người Tày ở
đây di cư vào Nam, phần lớn ruộng đã có k m theo mương phai của họ
được bán lại cho người Dao Đỏ. Không còn tranh chấp đất sản xuất
cùng áp lực dân số giảm đi đã tạo điều kiện cho những hộ gia đình Dao
Đỏ ở lại mở rộng diện tích canh tác lên gần chân núi. Do đó, nếu trước
kia sông Năng là nguồn nước tưới ruộng chủ yếu của họ, thì hiện nay chỉ
còn vài hộ duy trì bằng máy bơm trong mùa khô. Kể cả các nhu cầu
khác như làm nương trồng màu, tưới vườn và chăn nuôi, hiện nay cũng
không còn hộ người Dao Đỏ nào dùng nước sông Năng nữa.
Ngược lại với các thôn Nà Dụ, Pác Pìn và Nà Nộc kể trên, vùng
người Dao Tiền ở thôn Nà Còi vẫn không diễn ra nhiều thay đổi về
nguồn nước sản xuất so với thời kỳ trước năm 1986.
3.2.1.2. Thiếu đất

Bên cạnh nguồn nước, đất đai là tài nguyên thiết yếu đối với người
Tày ở Bành Trạch. Tuy nhiên, tình hình gia tăng dân số hiện nay đã gây

17


áp lực lên quỹ đất ngày càng mạnh mẽ, buộc họ phải thâm canh, tăng
vụ, đặc biệt trên nương bãi bồi. Điều đó làm đất nhanh thoái hóa, bạc
màu hơn, sau một năm thương bỏ hóa hoặc phải bón phân chứ không thể
canh tác được như trước. Cùng với tốc độ xói mòn nhanh, nước lũ dâng
cao đột ngột cuốn trôi nhiều diện tích hoa màu, dần dần người Tày
không còn duy trì hình thức canh tác ven sông nữa. Vườn cũng được lùi
vào sâu hơn, không còn sát bờ sông như trước kia, tức để tránh lũ.
Thiếu đất sản xuất không phải là thực trạng riêng của người Tày, mà
còn diễn ra ở cả người Dao Tiền, Dao Đỏ nơi đây. Qua kết quả điều tra
phiếu, 46% số hộ người Dao được hỏi ở hai thôn Nà Nộc và Nà Còi
(tương đương 23/50 hộ) từng bán đất cho “vàng tặc”. Tác động đến môi
trường của việc đào vàng là rất lớn, cấu trúc đất bị phá hủy hoàn toàn, ô
nhiễm kim loại nặng như chì, thủy ngân... Thậm chí, sau nhiều năm,
cảnh quan vẫn chưa thể phục hồi như cũ và không thể canh tác được,
cũng không thể tận dụng để chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trước tốc độ gia
tăng dân số hiện nay, dễ dàng đặt ra giả thuyết là tình hình thiếu đất
canh tác sẽ xảy ra ở hai thôn Nà Nộc, Nà Còi trong một vài năm tới.
3.2.2. Biến đổi trong hoạt động chăn nuôi
Ô nhiễm môi trường sông Năng không chỉ ảnh hưởng tới trồng trọt,
mà còn tác động đến hoạt động chăn nuôi của cư dân xã Bành Trạch.
Cùng với việc ồ ạt đào vàng là nạn trộm cắp gia tăng, trâu bò chết do
uống nước nhiễm thủy ngân, buộc bà con phải đem về gần nhà chăn thả.
Hiện nay, “vàng tặc” tuy đã bị truy quét khỏi xã, song người dân vẫn
hạn chế thả gia súc ở khu vực sông do hệ sinh thái gần như bị phá hủy.

Bên cạnh đó, tập quán nuôi trồng thủy sản của người dân xã Bành
Trạch cũng biến đổi mạnh từ Đổi mới đến nay. Việc khai thác vàng ồ ạt
ở Nà Dụ. Pác Pìn khiến lượng cá sông Năng giảm mạnh, người Tày đã

18


hoàn toàn chuyển sang cá ao. Bên cạnh đó, tập quán thả cá ruộng vẫn
được duy trì, cùng với mua ở chợ tạo nên nguồn thực phẩm dồi dào.
Khác với người Tày, ở người Dao Đỏ thôn Nà Nộc, quá trình này
diễn ra phức tạp hơn và trải qua nhiều hình thức. Họ không đào ao do
nơi cư trú ít đất lầy thụt, nên gặp một khó khăn khi thích ứng với suy
thoái môi trường. Từ năm 2005, khi cá sông Năng giảm mạnh, một số
hộ người Dao Đỏ ở Nà Nộc mới trở lại với những chiếc ao chặn khe
suối truyền thống, song không thu được hiệu quả. Theo số liệu phiếu
hỏi, ở thôn Nà Nộc hiện nay chỉ có 9/20 hộ đào ao đất từ những diện
tích hiếm hoi có thể tận dụng được, số còn lại phải cá mua ở chợ.
Đối với người Dao Tiền thôn Nà Còi, ao cá của họ ngoài chức năng
chăn nuôi còn là nguồn nước chính phục vụ sản xuất. Như phần trước đã
đề cập, 66,0% số hộ người Dao Tiền ở đây sử dụng nước ao, hồ nhỏ để
tưới ruộng và 56,1% để tưới vườn. Như vậy, có thể thấy rằng, người
Dao Tiền ở Nà Còi đã rất khéo léo lợi dụng địa hình dốc để tạo thành
một hệ thống canh tác liên hoàn hiệu quả. Tuy nhiên, những năm 2010 2015 ghi nhận nhiều trường hợp cá chết do dịch bệnh hoặc lớn rất chậm.
Hiện tại, phần lớn gia đình người Dao Tiền ở Nà Còi đã chuyển sang ăn
cá mua. Tập quán biếu tặng cá sông Năng cũng dần mất đi.
3.2.3. Biến đổi trong hoạt động khai thác các nguồn lợi tự nhiên
Từ năm 1986 trở lại đây, cùng với sự ô nhiễm của dòng nước sông
Năng do khai thác vàng, nên thủy sản sông Năng cũng đã bị suy giảm
mạnh. Thậm chí, có thể nói rằng trong các dịch vụ sinh thái, thì nguồn
thủy sản là đối tượng bị tác động mạnh nhất từ vấn đề suy thoái môi

trường sông. Trước tình hình đó, cách thức ứng phó chung của cư dân
Bành Trạch là tìm kiếm những nguồn thực phẩm thay thế thông qua mở
rộng, phát triển chăn nuôi hoặc mua bằng tiền. Hoạt động đánh bắt thủy

19


sản vẫn được duy trì ở phần lớn gia đình dưới hình thức nhỏ lẻ, còn các
cuộc đánh duốc, quăng chài có sự tham gia của nhiều người thì không
được tổ chức nữa. Hiện nay, một lần đánh cá mang tính tập thể tối đa
thường chỉ huy động từ 4 đến 8 người. Nhân lực đánh bắt thủy sản chủ
yếu vẫn là đàn ông, song khác với dự đoán, độ tuổi tham gia ngày càng
trẻ hóa, thường là nam thanh thiếu niên chưa hoặc mới lập gia đình.
Nguyên nhân có thể lý giải như sau: bên cạnh lý do tìm kiếm thực
phẩm, thì một nguyên nhân khác khiến hoạt động đánh bắt thủy sản
sông Năng được duy trì ở 3 trên 4 thôn được chọn nghiên cứu là do còn
có ý nghĩa giải trí. Tuy chỉ được rất ít cá, khoảng 1kg mỗi lần, song đây
lại là dịp vui chơi của thanh thiếu niên sau những ngày lao động mệt
nhọc. Với người trung niên, câu cá cũng trở thành thú vui lúc nông
nhàn. Do đó, có thể nói rằng, nếu giảm sút đi vai trò trực tiếp thì các
dịch vụ sinh thái gián tiếp của sông Năng vẫn được người dân duy trì.
Đó là những điều thuộc về văn hóa tinh thần như tín ngưỡng, lễ hội, giáo
dục, vui chơi giải trí... vẫn còn nguyên vẹn qua nhiều thế hệ.
3.2.4. Biến đổi trong hoạt động buôn bán, thương mại
Trước sự suy giảm tài nguyên, đặc biệt do thiếu đất trồng trọt, người
dân các thôn ở xã Bành Trạch ngày càng hướng nhiều hơn đến ngành
dịch vụ, thương mại và nông sản thương phẩm. Phong trào trồng sắn,
hồng không hạt, khoai môn và nuôi lợn giống địa phương ngày càng
được nhân rộng nhờ chủ trương phát triển cây con đặc sản tại địa
phương của lãnh đạo xã. Các dịch vụ khác cũng dần dần trở nên phổ

biến như bán tạp hóa, khai thác cát và đá thuê, xay xát, đi làm ăn xa...
Sông Năng trước kia có vai trò vô cùng quan trọng đối với vận
chuyển hàng hóa của bà con xã Bành Trạch. Đến nay, vai trò ấy giảm đi
ở ba thôn Nà Dụ, Pác Pìn và Nà Nộc, nhưng lại tăng lên ở thôn Nà Còi.

20


Do vị trí đặc thù ở bờ bên kia sông, nên mọi con đường từ Nà Còi xuống
các thôn lân cận hay phía Nam của xã đều phải đi qua sông. Hiện chỉ có
hai cây cầu, một cầu treo ở thôn Pác Pìn và một cầu tạm ở Nà Nộc, đều
cách xa 8-10km so với thôn này. Vấn đề giao thông ở đây càng trở nên
cấp thiết hơn khi hiện nay, rất nhiều hộ gia đình ở Nà Còi chuyển sang
trồng sắn thương phẩm, nhu cầu thông thương buôn bán ngày càng cao.
Đối với ba thôn còn lại, do đường xá được cải tiến, dễ dàng đi lại bằng
xe máy, người dân không cần phụ thuộc vào sông Năng nữa.
3.2.5. Biến đổi trong các hoạt động sinh kế khác
Như đã đề cập ở trên, chế tạo ngư cụ vốn khá phổ biến ở các gia
đình xã Bành Trạch. Song, hiện nay nghề thủ công đó không được duy
trì nữa. Thay vì tự đan lưới bằng vỏ cây gai dầu hoặc sợi tổng hợp, do sự
phát triển của giao thông và buôn bán, bà con bây giờ có thể dễ dàng
mua lưới ở chợ. Chỉ có hai gia đình ở phía Bắc thôn Pác Pìn vẫn tiếp tục
nghề đánh bắt cá cùng với việc chế tác ngư cụ, song sản lượng bấp bênh,
nên cuộc sống rất khó khăn. Trước tình hình này, những người con của
các hộ đó đều phải rời quê đi làm ăn xa. Số lượng người đi làm thuê,
làm ăn xa cũng ngày càng tăng lên ở bốn thôn được chọn nghiên cứu,
đặc biệt là trong độ tuổi thanh thiếu niên. Ví dụ gia đình trưởng thôn Nà
Còi, cả ba người con gái và một người con rể của ông đều từng đi làm
tại các khu công nghiệp ở Thái Nguyên, Bắc Ninh... Có những người đi
rất xa như Bình Dương, Đắk Lắk hoặc sang nước ngoài (Thái Lan,

Trung Quốc, Campuchia...) để tìm kiếm việc làm.
Phỏng vấn về lý do đi làm ăn xa, câu trả lời của người dân cho thấy
ước mơ thoát ngh o rất rõ ràng. Họ nói rằng, khoản tiền tiết kiệm được
trong thời gian làm công nhân lớn hơn rất nhiều so với thu nhập thông
qua hoạt động nông nghiệp ở quê nhà. Điều này cho thấy sự giảm sút vai

21


trò của nông nghiệp đối với giới trẻ hiện nay, kéo theo giảm sút vai trò
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có sông Năng. Rõ ràng,
khi ngày càng nhiều người dân xã Bành Trạch bỏ nông nghiệp, chuyển
sang sinh kế mới thì vai trò của sông Năng sẽ càng suy giảm. Việc
chuyển đổi sinh kế và gia tăng các ngành nghề dịch vụ ở xã Bành Trạch
đóng một vai trò lớn trong phát triển, nhưng cũng kéo theo nhiều hệ quả.
Đó là sự gia tăng các tệ nạn trộm cắp, đánh bạc... ở độ tuổi thanh thiếu
niên, thích hưởng thụ và đánh mất nhiều nét văn hóa tộc người.
Không chỉ có giá trị văn hóa vật chất, giá trị của sông Năng trong
văn hóa tinh thần cua rng]ời dân cũng có nhiều thay đổi. Hiện nay, các
lễ hội, tín ngưỡng... liên quan đến sông Năng không được duy trì nữa.
Đây không chỉ là sự đứt gãy văn hóa, điều đó còn dẫn đến hệ quả lớn
hơn về môi trường. Thay vì bảo vệ hệ sinh thái, ngược lại, người dân
quay lại hưởng ứng các hoạt động gây suy giảm nguồn tài nguyên vì lợi
ích kinh tế trước mắt. Đó là tham gia khai thác vàng, bán nông sản và
đất bãi cho “vàng tặc” và khai thác cá bằng các biện pháp mang tính hủy
diệt... Qua đó, vấn đề đặt ra là, nếu những cánh rừng còn “thiêng”,
những dòng sông còn “thiêng” thì liệu bà con các tộc người ở Bành
Trạch có chú ý gìn giữ môi trường sống của chính họ hay không?
Tiểu kết chƣơng 3
Sau năm 1986, sinh kế của một số dân tộc ở xã Bành Trạch đã biến

đổi nhanh, do tác động từ suy thoái môi trường sông Năng, cả tích cực
và tiêu cực. Với các thôn được nghiên cứu, hai thôn ven bờ sông là Nà
Dụ và Nà Nộc bị ảnh hưởng lớn nhất, thể hiện ở: nguồn nước, hệ thống
nông nghiệp, đánh bắt thủy sản... Tác động chủ yếu là suy giảm hoặc
mất đi, từ dịch vụ trực tiếp đến gián tiếp hỗ trợ sinh kế, song, sông Năng
vẫn đóng vai trò nhất định, không thể thay thế đối với người dân ở đây.

22


KẾT LUẬN

1. Sinh kế truyền thống nói chung, sinh kế liên quan đến sông Năng
nói riêng của một số dân tộc ở xã Bành Trạch rất đa dạng, phong phú,
đậm đà bản sắc. Nếu người Tày là những cư dân sinh sống ở vùng thấp,
phụ thuộc nhiều vào sông Năng thông qua nguồn nước ăn uống, sinh
hoạt, nương rẫy, vườn ven sông, đánh bắt thủy sản... thì người Dao lại
chia thành hai nhóm khác biệt rõ rệt. Nhóm Dao Đỏ ở Nà Nộc tuy mới
chuyển cư đến xã Bành Trạch, song đã có những cách khai thác triệt để
tài nguyên sông Năng phục vụ cho cuộc sống của mình. Ngược lại,
nhóm Dao Tiền ở Nà Còi, qua thời gian đã thích ứng với địa hình cao,
dốc, khoảng cách xa sông nên ít phụ thuộc hơn vào hệ sông Năng.
2. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc Đổi mới đất nước đã khiến bộ
mặt kinh tế - xã hội của xã Bành Trạch ngày một cải thiện. Bên cạnh đó,
vấn đề suy thoái môi trường cũng đang được đặt ra. Sông Năng là một
ví dụ điển hình. Nguồn nước bị ô nhiễm chất hữu cơ và kim loại nặng
không thể dùng cho sinh hoạt, dòng chảy mất đi tính ổn định, lũ lụt
nhiều lần cuốn trôi hoa màu, đất ven bờ không thể canh tác ổn định, đặc
biệt là sản lượng cá đã giảm mạnh. Điều này đòi hỏi ở cư dân các tộc
người có những phương cách ứng phó khác nhau để thích ứng với sự

diễn biến của môi trường ngày càng bất lợi.
3. Từ khi Đổi mới, sinh kế của người dân các dân tộc ở xã Bành
Trạch, huyện Ba Bể đã có những biến đổi vượt bậc. Nương rẫy một vụ
với năng suất thấp được thay thế bằng ruộng lúa nước hai vụ, giống mới
năng suất cao và cải tiến hệ thống thủy lợi đem lại thu nhập ổn định hơn
cho người dân... Tuy nhiên, suy thoái môi trường sông Năng cũng đã và
đang ảnh hưởng tới sinh kế của đồng bào, phần lớn theo hướng tiêu cực.
Trong nhiều trường hợp, sự giảm sút các nguồn lợi tự nhiên đặt người

23


×