Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

TÌM HIỂU LỄ HỘI ĐỀN MẪU ÂU CƠ XÃ HIỀN LƯƠNG, HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 60 trang )

Trêng §¹I HäC néi vô hµ néi
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN VÀ XÃ HỘI

BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2017
ĐỀ TÀI
TÌM HIỂU LỄ HỘI ĐỀN MẪU ÂU CƠ XÃ HIỀN LƯƠNG,
HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

Người hướng dẫn : Ths. Phạm Thị Hương
Chủ nhiệm đề tài : Bùi Anh Thư
Lớp

: 1405QLVB

Hà Nội - 2017



MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh, xuất phát từ nhu cầu
cuộc sống. Hệ thống lễ hội thể hiện mong muốn, ước mơ về cuộc sống thanh
bình, hạnh phúc. Thông qua lễ hội, bản sắc văn hóa Việt đã được thể hiện rõ
nét, tính cộng đồng được thắt chặt góp phần hun đúc ý chí quật cường, lòng tự


hào, tự tôn dân tộc.
Hiện nay lễ hội được diễn ra phổ biến rộng khắp các địa phương. Đầu
xuân, đến với lễ hội nhân dân ta với mong muốn cầu một năm mới vạn sự như
ý tốt đẹp, bình an đến với gia đình và bản thân. Đó là một sinh hoạt văn hóa
truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Đến lễ hội, bên cạnh sự tín ngưỡng,
du khách còn cảm nhận không khí mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi và để
thanh tịnh lòng mình. Người đến lễ hội hướng tâm cầu nguyện cho bản thân,
gia đình được bình an may mắn trong năm mới; người chưa có gia thất thì cầu
tình duyên; người khó khăn đường con cái thì cầu tự; người buôn bán làm ăn
thì cầu tài cầu lộc...Bên cạnh những ý nghĩa đó, còn tồn tại một số mặt tiêu
cực trong hoạt động lễ hội như trục lợi cá nhân, bói toán, móc túi… Những
tiêu cực ấy đã và đang diễn ra ngày càng nhiều trong các lễ hội, đặc biệt là
những lễ hội lớn ở Việt Nam.
Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, Huyện Hạ Hòa tỉnh Phú Thọ
có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân nói chung và
người dân địa phương nói riêng. Lễ hội thể hiện tấm lòng tri ân công đức tổ
tiên, giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” lịch sử cội nguồn dân tộc.
Từ đó khơi dậy lòng tự hào, ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong việc
xây dựng quê hương giàu đẹp. Và không những vậy, lễ hội còn tạo không khí
vui tươi, phấn khởi đầu xuân với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao sôi động trong phần hội.

4


Nhận thức đúng đắn về lễ hội đền Mẫu Âu Cơ để tìm ra những giá trị
tích cực cần phát huy và những mặt hạn chế, tiêu cức của lễ hội là những vấn
đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu lễ hội đền Mẫu
Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu.

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đền Mẫu Âu Cơ là di tích lịch sử đặc biệt, mang ý nghĩa quan trọng
trong tinh thần mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, các tác giả trong nước ngày
càng quan tâm và nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của di tích. Tiêu biểu
như:
- Cuốn “Khu di tích lịch sử đền Mẫu Âu Cơ” do Huyện ủy, HĐND,
UBND huyện Hạ Hòa, Phú Thọ xuất bản tháng 5 năm 2005. Cuốn sách nói về
mọi khía cạnh của đền Mẫu một cách khái quát.
- Luận văn “Thực trạng thờ cúng Mẫu Âu Cơ của người dân xã Hiền
Lương – Hạ Hòa – Phú Thọ” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền là một hướng
nghiên cứu về khác về hoạt động thờ cúng Mẫu nói chung. Luận văn đã phân
tích, đánh giá thực trạng thờ cúng Mẫu Âu Cơ của người dân xã Hiền Lương
qua các chỉ số liên quan đến hiểu biết của người dân về đền Mẫu Âu Cơ, mức
độ tham gia, hình thức các hoạt động nghi lễ, mục đích thờ cúng Mẫu Âu Cơ
của người dân; đồng thời chỉ ra những yếu tố tác động, ảnh hưởng tới hành vi
thờ cúng Mẫu của họ. Kết quả khảo sát cho thấy người dân thường xuyên đi
lễ tại đền vào các dịp trong năm với những mục đích khác nhau họ chuẩn bị
các lễ vật khác nhau. Đồng thời người dân có tham gia các hoạt động cũng
bái, xem bói, rút quẻ. Tuy nhiên, hiểu biết của người dân về đền Mẫu Âu Cơ
vẫn còn hạn chế. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra những ý kiến đề xuất nhằm bảo
tồn và phát triển những giá trị tôn giáo, tín ngưỡng tốt đẹp.
- Khóa luận tốt nghiệp “Đền Mẫu Âu Cơ trong việc phát triển du lịch
văn hóa tỉnh Phú Thọ” do tác giả Nguyễn Thị Nhâm Đức thực hiện. Đề tài
5


nhằm khẳng định những giá trị văn hóa tốt đẹp trong việc thờ cúng Mẫu trong
tổng thể văn hóa Việt Nam. Thực trạng khai thác phát triển du lịch tâm linh

của tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến, giải pháp nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ Mẫu.
- Khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng quản lý nhà nước đối với di tích
Đền Mẫu Âu Cơ – tỉnh Phú Thọ” do tác giả Nguyễn Thị Phương Lan thực
hiện. Đề tài đưa ra được thực trạng quản lý nhà nước đối với di tích đền Mẫu
Âu Cơ, đưa ra được phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quản của
công tác quản lý nhà nước đối với di tích Đền Mẫu Cơ.
Những đề tài, tác phẩm trên đã tìm hiểu được nhiều khía cạnh khác
nhau của di tích lịch sử đền Mẫu Âu Cơ. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào đi
sâu tìm hiểu lễ hội đền Mẫu Âu Cơ. Vì vậy, chúng tôi chọn thực hiện nghiên
cứu lễ hội đền Mẫu Âu Cơ.
3.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu: trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu lễ hội đền
mẫu Âu Cơ (tổng quan về vị trí địa lý, kiến trúc,nguồn gốc của đền Mẫu, nhân
vật phụng thờ và diễn trình lễ hội đền Mẫu Âu Cơ) để từ đó đề xuất một số
biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tích cực và hạn chế, những
ảnh hưởng tiêu cực của lễ hội đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyên Hạ
Hòa, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện
một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận của lễ hội Việt Nam
+ Tìm hiểu, nghiên cứu từ đó nêu lên đặc điểm, vai trò của lễ hội đền
Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.
+ Đề xuất một số biện pháp bảo tồn phát huy giá trị của lễ hội trong bối
cảnh hiện nay.

6



4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện
Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Đề tài lấy lễ hội Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ
Hòa, tỉnh Phú Thọ để khảo sát.
+ Thời gian: Khảo sát lễ hội đền Mẫu Âu Cơ từ năm 2010 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp điền dã, khảo sát thực địa

5.

Giả thuyết nghiên cứu
Nếu áp dụng một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội
Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ thì sẽ giúp lưu
lại những nét truyền thống quý báu của lễ hội.

6.

Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận:
+ Hệ thống lại lý thuyết của lễ hội Việt Nam
- Về mặt thực tiễn:
Phân tích thực trạng cách tổ chức lễ hội Mẫu Âu Cơ tại xã Hạ Hòa tỉnh
Phú Thọ. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của
lễ hội.


7.

Bố cục của đề tài
Đề tài có cấu trúc gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lễ hội Việt Nam
Chương 2: Thực trạng lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện
Hạ Hòa,
tỉnh Phú Thọ
Chương 3:Một số biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VIỆT NAM
1.1.

Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lễ
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2002: “ Lễ là từ chỉ nghi thức
được tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện, sự việc có ý nghĩa
nào đó” [5;tr.52] ví dụ: lễ Quốc Khánh, lễ thành hôn. Lễ còn có nghĩa là vái,
lạy để tỏ lòng cung kính theo phong tục cũ. Lễ còn được hiểu là khuôn phép,
là phép bày ra nhằm tỏ ý kính trọng, lịch sử.
Có nhiều khái niệm về Lễ. Lễ là linh hồn, cốt lõi của một lễ hội và là
phần quan trọng nhất, được đầu tư công phu nhất cả về thời gian, tiền
bạc,công sức. Tham dự lễ chỉ có một số người có vai vế, vị trí nhất định. Phần
lễ trong một lễ hội mang tính thiêng liêng, bất biến, thể hiện sự trang

nghiêm,tôn kính như: Lễ cúng, Lễ rước, Lễ tạ,… là những nghi thức thờ thần
thánh. Không gian và thời gian của các nghi lễ được quy đinh chắt chẽ.
Trong lễ bao giờ cũng phải có tế. Tế bao gồm những nghi thức theo quy
định như y phục, phẩm phục, mũ, hia hài, đồ tế cho đến việ tế thần được tổ
chức như thế nào. Thường những cụ cao niên, phúc đức trong dân làng được
chọn ra để thực hiện tế, trong đó có một người làm chủ tế. Khi thực hiện tế lễ
thường có các nghi thức sau: Đọc văn tế, dâng hương, dâng rượu trắng, dâng
lễ vật… Lễ vật được dâng thường là những sản vật của địa phương như xôi,
oản, bánh chưng, hoa quả,… tùy vào nội dung của từng lễ hội khác nhau mà
lễ vật cũng sẽ khác nhau. Có những địa phương có lễ vật độc đáo, liên quan
đến nhân vật được thờ.
1.1.2. Hội
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2002 viết: “Hội là cuộc vui chơi
tổ chức cho đông đảo người tham dự theo phong tục cổ truyền hoặc dịp đặc
biệt”. Ví dụ: Hội đền Hùng, hội Lim…[5; tr.52 ]
8


Trong cuốn “ Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của TS.
Dương Văn Sáu định nghĩa: “ Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn
hóa – xã hội của một cộng đồng dân cư nhất định, là cuộc vui tổ chức cho
đông đảo người dự theo phong tục truyền thống của nhân dân những dịp đặc
biệt, hững hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng, trình độ
phát triển của địa phương, đất nước và thời điểm diễn ra sự kiện đó”.[10;tr.52]
Hội thường được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện trọng đại nào
đó liên quan đến nhiều người. Hội mang tính cộng đồng, bao gồm các trò
diễn, các cuộc đua tài, các trò chơi, văn nghệ giải trí. Phần hội có thêm bớt,
thay đổi, tùy thuộc theo cấu trúc lễ hội. Phần hội bao giờ cũng vui nhất, thu
hút đông người nhất trong một lễ hội. Phần hội này ở mỗi làng xã, mỗi vùng
miền diễn ra một khác, khiến cho lễ hội vô cùng phong phú và đặc sắc. Hội

tạo ra một niềm cộng cảm bao trùm hết thảy lên mọi người. Đồng thời cũng
cố tính cố kết cộng đồng của toàn thể người dự hội và ở trong đó con người
dường như gần gũi nhau hơn.
Ở trong hội, sự phân biệt giàu nghèo, giai cấp, lứa tuổi, dường như
không tồn tại. Tất cả những người tham dự hội đề được tham gia vào các trò
chơi mà họ muốn. Nó tạo ra niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp cho mỗi người
đến dự hội.
1.1.3. Lễ hội
- Hiện nay, có rất nhiều quan niệm về lễ hội, tiêu biểu như:
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2002 thì “ Lễ hội là cuộc vui tổ chức
chung, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyên thống của dân tộc”
[ 5;tr.52 ]. Ví dụ như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Bà Chúa Kho,… Lễ hội gồm hai
phần: Phần lễ và phần hội trong lễ hội thì sự phân chia giữa lễ và hội chỉ là
tương đối. Thực tế nhiều khi trong lễ hội bao hàm cả tính chất hội. Ví dụ trò
diễn trong lễ hội chẳng hạn ta không thể khẳng định một cách chắc chắn rằng
trò diễn là lễ hay hội, chỉ có thể nói trò diễn là điểm giao thoa giữa lễ và hội.
9


Tác giả Đoàn Văn Chúc năm 1984 cho rằng: “ Lễ là sự bày tỏ kính ý
đối với một sự kiện xã hội hay tự nhiên, tư tưởng hay có thật, đã quahay hiện
tại được thực theo nghi điểm rộng lớn, tùy thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm
vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng được cửa lễ. Hội là cuộc vui
chơi bằng vô số các hoạt động giải trí công cộng, diễn ra tại một địa điểm
nhất định vào dịp cuộc lễ kỉ niệm một sự kiện tự nhiên, xã hội nhằm diễn đạt
sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ”. [1;tr52 ]
Bên cạnh đó, TS. Dương Văn Sáu định nghĩa: “Lễ hội là hình thức
sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian
và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay
huyền thoại; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người

với thiên nhiên – thần thánh và con người trong xã hội”.[10;tr52 ]
Tác giả Phạm Quang Nghị cho rằng: “Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, có tính phổ biến trong cộng đồng xã hội, có sức lôi cuốn đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia. Là những sản phẩm sáng tạo của các thế hệ
tiền nhân để lại cho hôm nay, lễ hội chứa đựng những mong ước thiết tha vừa
thánh thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa thế tục của bao thế hệ con
người”.[8;tr.52 ]
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu về “lễ hội” tuy nhiên ta có thể hiểu
một cách chung nhất về “lễ hội” như sau: Lễ hội là tổ hợp các yếu tố hoạt
động vă hóa đặc trưng của cộng đồng, xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó
nhằm quảng bá cho những giá trị nhất định. Đây là loại nhu cầu văn hóa
không thể thiếu của một cộng đồng dân tộc.
Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa Xuân và số ít
vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông
có thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội Việt Nam thì phải kể đến những lễ
hội chi phối hầu hết các gia đình trên mọi miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên
Đán, Lễ Vu Lan và tết Trung Thu. Gần đây một số lễ hội được nhà nước và
10


nhân dân quan tâm như: Lễ hội đền Hùng, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Giáng
Sinh, Hội Phật Tích.
Một số lễ hội lớn ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hội
Gióng (xứ Kinh Bắc), lễ hội đền Hùng (Xứ Đoài), lễ hội chùa Bái Đính, Hội
Lim(Kinh Bắc) phủ Dày,(xứ Sơn Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An
Giang),… phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử,
tưởng nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm
nên các trò vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần
thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội
hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía

Bắc) v.v... Có lễ hội lại gọi theo những trò chơi dân gian như hội rước voi,
rước chúa gái, hội đánh phết, ném còn, hội chọi gà, chọi trâu, hội đâm
đuống... Có thể thấy sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam là nét đẹp văn hóa
dân tộc, nó vừa khẳng định giá trị văn hóa, nhân văn của con người, hướng
con người tới những giá trị tốt đẹp, cao quý nhưng cũng vừa là một trong
những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Lễ hội Việt Nam hôm nay là biểu hiện sinh động cho tinh thần đại
đoàn kết dân tộc, sự thống nhất, hòa bình trong đời sống của nhân dân. Đây
chính là minh chứng cho những bước chuyển biến tích cực của Văn hóa Việt
Nam trong thời đại mới – một nền văn hóa hòa nhập chứ không hòa tan.
1.1.4. Mối quan hệ giữa lễ và hội
Cấu trúc lễ hội bao gồm 2 thành phần :
+ Lễ ( yếu tố chính)
+Hội ( yếu tố phát sinh)
- Lễ được hình thành bởi : nhân vật được thờ, hệ thống di tích, nghi lễ,
nghi thức, thờ cúng. Lễ để thờ cúng các vị thần : sự sùng bái nhân vật lịch sử,
là nhu cầu trở về cội nguồn, là sự giải thiêng trong tâm thức, tâm lý và sinh
hoat cộng đồng. Có thể nói phần lễ đã tạo nên tính “thiêng” của lễ hội.
11


- Hội : được cấu thành bởi những hình thức sinh hoạt vui chơi, những
trò diễn, tâm lý hội và hoạt động hội, di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh...Thực chất hội là các trò chơi, trò diễn trong lễ hội. Đối tượng thực hiện
chủ yếu là những người trẻ tuổi. Có thể thấy phần hội tạo nên “sức sống” của
lễ hội.
Trong cuốn “ Hội hè Việt Nam ”các tác giả cho rằng “ Hội và lễ là một
sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp dẫn, lôi
cuốc các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu cầu, một
khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ”. [11;tr.52]

Như vậy ta thấy “Lễ” là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu
xatrong mỗi con người, “Hội” là các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các
trò chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của người dân và một phần
đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọngvới cả cộng đồng. “Lễ
hội” là một thể thống nhất không thể tách rời.
1.2.

Vai trò của lễ hội trong đời sống

Lễ hội có nhiều ý nghĩa to lớn, lễ hội thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái
độ của người dân đối với thế giới đã khuất. Thông qua lễ hội con người tưởng
nhớ tới công đức, ông bà tổ tiên thông qua việc thờ cúng. Lễ hội cũng là nơi
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là địa điểm để mọi người thi thố tài năng, nơi đó
có nhiều trò chơi dân gian như: đua thuyền, đánh đu, ném còn, hát giao
duyên, hát đối đáp, hát bài chòi, đánh cờ người,… chính những trò chơi dân
gian này tạo điều kiện để người dân gần gũi nhau hơn, hiểu nhau và cùng
nhau tham gia tích cực để dành chiến thắng trong các trò chơi.
Mỗi lễ hội mang bản sắc văn hóa đặc trưng, gắn liền với những đặc
điểm cụ thể về địa lý, tập quán, nghi lễ, ẩm thực, tín ngưỡng,...Vì vậy, nếu coi
mỗi lễ hội là một màu sắc thì đất nước ta là một bản hòa ca của những sắc
màu.

12


Lễ hội quả thật là một điểm văn hoá sống, một bảo tàng sống của người
Việt từ cổ đại đến nay, có tác dụng bảo lưu phát triển bản sắc văn hoá. Đối với
mỗi người, lễ hội trở nên thân thiết, là nỗi nhớ thiêng liêng, mãnh liệt, là nơi
con người kì thác mọi niềm vui, nỗi buồn. Đây còn là biểu hiện giá trị của
một cộng đồng: Thông qua vui chơi, con người lấy lại thăng bằng sau những

khó khăn lo toan của cuộc sống thường nhật; sức cấu kết của lễ hội đã làm
xoa dịu những đố kị, có khi cả những hận thù diễn ra trong những quan hệ
hàng ngày; lễ hội là dịp để hoàn thiện các chủng loại văn hoá; là dịp để con
người vươn lên đời sống văn hoá cao hơn và bộc lộ hết tinh hoa của mình.Lễ
hội còn là nơi nhắc nhở người ta sống trật tự, mực thước góp phần làm cho
cuộc sống tốt đẹp hơn. Là nơi thể hiện năng khiếu thẩm mĩ của cộng đồng, tất
cả phải được chuẩn bị hết sức chu đáo. Đồng thời cũng khuyến khích tài năng
lao động và vui chơi, đề cao cái cao cả, cái bi, cái hài của cuộc sống.
Ngoài ra, đó còn là một tiềm năng du lịch không bao giờ cạn kiệt, là
một ngành công nghiệp không khói, đem lại tiềm năng kinh tế lớn và là
phương tiện giao lưu văn hóa giúp cho các quốc gia dân tộc trên toàn thế giới
biết đến Việt Nam nhiều hơn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng vai trò của lễ hội rất quan trọng, không chỉ
trong đời sống hàng ngày, thể hiện ý nghĩa văn hoá mà nó còn là một trong
những khuôn mẫu chuẩn mực để con người noi theo. Muốn cho lễ hội nước ta
mãi giữ được bản sắc chúng ta cần khắc phục một số mặt tiêu cực như thương
mại hoá các hoạt động mê tín dị đoan, tệ nạn đánh bạc tập quán lạc hậu,… và
tích cực phát huy những giá trị tốt đẹp hơn nữa.
1.3.

Khái quát về đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ

Hòa, tỉnh Phú Thọ
1.3.1. Vị trí địa lý
Đền Mẫu Âu Cơ nằm trên địa phận xã Hiền Lương, đền Tổ Mẫu Âu Cơ
có tọa độ 21035’54”B, 104055’5”Đ.
13


Ngôi đền được xây dựng trên một khoảng đất rộng hơn 4 ha giữa cánh

đồng ở xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Nơi này trước đây là một quả gò,
xung quanh có nhà dân ở nên được gọi là xóm Gò Thị. Xưa kia khi giám quốc
sư của triều đình về thấy “ Giữa cánh đồng có một gò đất cao nổi lên. Ngôi
đất ấy có dòng nước chảy đến từ đường trước có án che (núi Giác), sau có
rồng bao (sông Hồng), ngôi đất này phát anh tài, nhân dân thanh tú, nhân vật
phú cường “bèn cho xây dưng đền Tổ này phát anh tài, nhân dân thanh tú,
nhân vật phú cường bèn cho xây dựng Đền Mẫu Âu Cơ”. Trải qua nhiều thế
kỷ, do sự bồi đắp của phù sa Sông Hồng đến nay quả gò đã trở thành bình địa.
Ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ, mặt quay về hướng chính Nam,
bên trái có giếng Loan, bên phải có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp
như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như Rồng thiêng bao bọc
quanh ngôi đền, xung quanh đền cây cối xum xuê, bốn mùa hương tỏa ngát
khiến cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, lâng lâng.
1.3.2. Kiến trúc của Đền Mẫu Âu Cơ
Xưa kia đền dựng kiểu 5 gian thờ dọc, mái lợp ngói mũi hài cổ kính.
Các cột đền được làm bằng các loại gỗ cứng, rắn không bị mối mọt đó là :
đinh, lim, sến táu. Bốn loại gỗ này được gọi là gỗ tứ thiết, tất cả đều được sơn
son vẽ thiếp hồng rồng cuốn rất trang nghiệm. Kết cấu vì kèo theo kiểu chồng
rường hạ bẩy. Kết cấu này là kiểu kết cấu trong kiến trúc cổ của Việt Nam là
dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy
phía sau .Trên các đầu tư, đầy bảy, xà ngang, cốn nách, câu đầu...được đục
chạm bức chạm tỉ mỉ hình tứ linh và hoa lá. Đặc biệt các bức chạm trên cốn
mê, cửa võng và diềm xung quanh cửa thượng cung thể hiện hết sức công phu
hình ảnh tứ linh, tứ quy là đề tài chủ yếu của nền nghệ thuật chính thống
đương thời. Các bức chạm này dùng kỹ thuật đục bong, chạm nổi điêu luyên
và được sơn son thiếp vàng lỗng lẫy,uy nghiêm.

14



Kiến trúc đền chính hiện nay theo kiểu chữ Đinh với 3 gian hậu cung
và 5 gian đại bái. Các cột xà và phần cấu kiện gỗ đều sử dụng các loại gỗ quý
trong nhóm tứ thiết. Đặc biệt các bức trạm gỗ trang trí đã được những đôi bàn
tay của người thợ lành nghề đục chạm hết sức công phu, tỉ mỉ, đạt đến trình
độ cao về kỹ thuật phục chế và thẩm mỹ. Cách bài trí đền hợp lý, thoáng rộng
và trang nghiêm, tôn kính, đảm bảo những nguyên tắc của nghành Bảo tồn,
Bảo tàng trong việc tu bổ tôn tạo di tích.
Điện thờ có hai khối, bên ngoài thờ Vua Hùng, Cao Minh và tướng lĩnh
với các cỗ ngai bài vị chạm lưỡng chầu nguyệt hoặc chạm các Bắc Mai Điểu
với kỹ thuật đục bong, đục thủng, công phu rồi sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Gian trong cùng của ngôi đền thờ cao 2,2m rất bề thế. Trên đặt khám
thơ lồng kính 3 mặt. Diềm xung quanh cửa khám chạm thủng nhiều lớp theo
đề tài tứ quý: lòng khám đặt tượng Tổ Mẫu Ẫu Cơ ngồi uy nghi trên ngai.
Tượng cao 0,95m thể hiện bà Âu Cơ mình mặc áo đỏ yếm hồng, đầu đội mũ
lấp lánh ngọc, tay kia đặt trên gối thư thái. Đây là pho tượng tròn được tạo tác
vào thời Lê, có giá trị cao về nghệ thuật tạo hình và thẩm mỹ .
Ngoài ra trong đền còn có nhiều dị vật quý khác như tượng Đức Ông
nhiều ngai, sập thờ, án gian...được đục chạm tỉ mỉ và tinh tế.
Nhìn chung đền Tổ Mẫu Âu Cơ không to lớn, đồ sộ nhưng có giá trị
cao về nghệ thuật chạm khắc, thể hiện ở trang trí kiến trúc và trên các cổ vật
còn lại
Cách đền Tổ Mẫu Âu Cơ 500m về phía Đông xưa kia có đình Hiền
Lương. Đình thờ Đức ông Đột ngột Cao Sơn. Thành Vương nước Nam Việt
thời các Vua Hùng và hai người con là Hùng Trấn Bảo Quốc “Văn võ như
thánh thần, hùng trấn uy linh, che chở dân lành, bảo vệ đất nước giúp rập ngôi
báu, ban ơn bố trạch rộng khắp, lấy nhân nghĩa để hòa mục, công lao thật to
lớn”

15



Cách không xa về phía Tây Nam xưa kia là Chùa Hiền Lương, tên chữ
là Linh Phúc Tự. Trong chùa có 20 pho tượng cổ và một chuông đồng để 4
chữ lớn “ Linh Phúc Tự chung” Chùa được xây dựng trên đình gò độc đạo tạo
nên khung cảnh thâm nghiêm tĩnh mịch. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Hiền
Lương được xây dựng thành một căn cứ cách mạng lớn nhằm làm bàn đạp
cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Phú Thọ và Yên Bái. Nhiều
cuộc họp quan trọng của chi bộ Đảng đã được tổ chức tại đình, đền và chùa
Hiền Lương. Đặc biệt tháng 5/1954 đội du kích Âu Cơ được chính thức thành
lập tại chùa Hiền Lương. Đây là một trong những đơn vị tiền thân của lực
lương vũ trang Phú Thọ sau này, góp phần quan trọng vào công cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở Phú Thọ Và Yên Bái tháng 8/1945 lịch sự. Cái tên
“Xã Âu Cơ” hay “Chiến khu Âu Cơ” ra đời trong thời gian này. Mãi sau khi
hòa bình lập lại mới đổi lại xã Hiền Lương.
Trải qua hơn 5 thế kỷ từ khi vua Lê Thánh Tông cho xây dựng, đến nay
di tích đền Mẫu Âu Cơ, đình và chùa Hiền Lương đã có nhiều thay đổi.
Cuối năm 1946, khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ta lại phá
đình nhằm thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiên của Đảng. Nhân dân
đưa tượng Đột Ngột Cao Sơn và bài vị hai ngài Hùng Chấn Quí Minh và
Hùng Chấn Bảo Quốc vào thờ trong đền Mẫu. Đình Hiền Lương đang được
quy hoạch để phục hồi.
Cách cổng chính Đền Tổ Mẫu Âu Cơ 300m là chùa Linh Phúc, chùa
được trùng tu tôn tạo năm 2009 trên cơ sở những kiến trúc cổ. Chùa Linh
Phúc, được xây dựng trên một gò nổi giữa cánh đồng, chùa được xây dựng
theo hình chữ Đinh có 5 gian Đại bái, 3 gian Tam bảo, trong chùa có 20 pho
tượng cổ có giá trị, năm 1998 chùa Linh Phúc được UBND tỉnh Phú Thọc
công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp cao. Trong khuôn viên chùa còn có
nhà Tả Mạc, Hữu Mạc, chùa Linh Phúc cùng với đền tổ Mẫu Âu Cơ trở thành
trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân trong vùng.Đền Tổ Mẫu
16



Âu Cơ trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, đến đã nhiều lần được trung tu và tôn tạo
với quy mô lớn nhỏ khác nhau nhằm khôi phục lại giá trị về lịch sử, kiến trúc
là di sản văn hóa của cộng đồng nhân dân một thủa.
Ngày 3 tháng 8 năm 1991, Bộ Văn hóa thông tin đã xếp hạng di tích
lịch sử ăn hóa cho đền Mẫu Âu Cơ
Ngày lễ chính của đền Tổ Mẫu Âu Cơ là ngày “ Tiên giáng” mùng 7
tháng Giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10-11 tháng
2; ngày 12/3; ngày 13/8; ngày “ Tiên thăng” 25 tháng Chạp
Hiện nay, Bộ văn hóa, Thể thao Du lịch, UBND tỉnh Phú Thọ tiếp tục
chỉ đạo UBND huyện Hạ Hòa, trùng tu và tôn tạo lại khang trang đẹp đẽ, kiến
trúc đền chính. Thờ Mẫu Âu Cơ là một nét văn hóa độc đáo của người dân xã
Hiền Lương nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung mang đậm ý nghĩa
giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa cho lớp con cháu muôn
đời.
1.3.3. Nguồn gốc Đền Mẫu Âu Cơ
Vua Đế Minh phong cho Đế Nghi làm vua ở Phương Bắc, Lộc Tục làm
vua ở Phương Nam. Lộc Tục lên ngôi khoảng năm 2879 TCN xưng là Kinh
Dương Vương. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Sùng Lãm năm
2793 TCN, xưng là Lạc Long Quân, kết duyên với Âu Cơ là con gái của Đế
Lai ở động Lăng Sương (nay là huyện Thanh Thủy, Phú Thọ).
Tục truyền rằng, Âu Cơ trở dạ đã sinh được bọc trăm trứng và nở thành
trăm người con trai. Khi các con lớn lên, Lạc Long Quân đã nói với Âu Cơ:
Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hỏa khó hòa hợp…. Vì thế, hai vị
đã chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để
lưu truyền được lâu dài, về sau cả trăm người con đó cùng hai vị đều hóa
thần.
Trong 50 người con theo mẹ, người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên
hiệu Hùng Vương, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18

17


đời vua Hùng, trị vì đất nước trong 2621 năm (từ năm Nhâm Tuất 2879 TCN
đến năm 258 SCN), trở thành tổ tiên của các tộc người, dòng họ Việt Nam
ngày nay.
Mẹ Âu Cơ có lần đã đến vùng đất khi đó là trang Hiền Lương, quận Hạ
Hòa, trấn Sơn Tây và cho các con cháu khai hoang, lập ấp, dạy dân cấy lúa,
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp ở Hiền Lương đã ổn định, phát
triển, Bà Âu Cơ lại cùng các con cháu đi khai phá các vùng đất mới. Sau này,
bà đã quyết định trở về sống với Hiền Lương, nơi gắn bó nhất với cả cuộc đời
bà. Tương truyền, ngày 25 tháng 12 năm Nhâm Thìn, Bà Âu Cơ cùng bày tiên
nữ đã bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, vương trên ngọn đa kề
bên giếng Loan, giếng Phượng. Người dân cho rằng dải lụa ấy chính là dải
yếm đào của Mẫu Âu Cơ. Sau này, nhân dân trong vùng đã dựng lên một ngôi
miếu thờ phụng, đời đời hương khói tưởng nhớ công ơn của bà đối với toàn
dân tộc Việt Nam, định lệ mỗi năm cầu cúng 2 lần vào ngày Tiên giáng mồng
7 tháng riêng (ngày Tiên Mẫu Âu Cơ du xuân giáng xuống thảm dâu xanh
thuộc Trung Nghĩa, Thanh Thủy ven sông Đà, gặp Lạc Long Quân rồi nên
duyên Rồng – Tiên). Ngày 25 tháng Chạp là ngày Tiên thăng tại trang Hiền
Lương.
Dưới triều vua Lê Thánh Tông năm 1465, vua đã ra chiếu chỉ phong
thần, cấp tiền, xây dựng thành Đền Mẫu Âu Cơ như ngày nay, giao cho nhân
dân xã Hiền Lương thờ phụng. Thế kỷ 15, triều đình Hậu Lê đã phong sắc và
cho xây dựng đền, thế kỷ 19 nhà Nguyễn một lần nữa lại phong sắc công nhận
đền Mẫu Âu Cơ.
Ngày 3/8/1991, đền Mẫu Âu Cơ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin nước
CHXHCN Việt Nam cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Cuối năm 1998, Nhà nước cấp kinh phí để nhân dân Hiền Lương trùng
tu tôn tạo đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân đia phương và khách

thập phương.
18


Ngày 1 tháng 8 năm 2004 Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được UBND tỉnh Phú
Thọ ra quyết định thành lập Ban Quản Lý khu di tích đền Mẫu Âu Cơ dưới sự
chỉ đạp trực tiếp của UBND huyện Hạ Hòa.
Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình nghệ thuật kiến trúc có giá trị cao
với các kết cấu kiến trúc đền chùa cổ, các pho tượng quý như tượng Âu Cơ,
tượng Đức Ông, các bức chạm quý và nhiều cổ vật vô giá.
1.3.4. Truyền thuyết về nhân vật phụng thờ
Nói về Mẫu Âu Cơ, trong Đại Việt Sử ký toàn thư(thế kỷ 51) có viết:
Kỷ Hồng Bàng Thị
Kinh Dương Vương
Lạc Long Quân
Tên húy là Sùng Lãm con của Kinh Dương Vương
Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền
sinh trăm trứng) là tổ của Bách Việt.Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng : “ Ta
giống Rồng,nàng giống Tiên,thủy hỏa khắc nhau, chung hợp khó: “ Bèn từ
biệt nhau. Chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở Nam Hải, phong
con trưởng là Hùng Vương nối ngôi vua
(Ngoại kỷ quyển 1; Ngô Sỹ Liên biên soạn năm Hồng Đức thứ 10 Lê
Thánh Tông, Tây lịch 1479)
Trong “ Khâm định Việt Sử thông giám cương mục” ( thế kỷ 19) có
viết:
Hùng Vương dựng nước được gọi là Văn Lang
Hồng Bàng thị. Đầu là Kinh Dương Vương, tương truyền là vua trước
tiết của nước Việt ta, Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Hùng
Vương là con Lạc Long Quân...
Kinh Dương Vương sinh con ra là Sùng Lãm gọi là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt.Suy

19


tôn người trưởng lên làm Hùng Vương nối ngôi vua, dựng nước gọi là Văn
Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền nối 18 đời đầu gọi là Hùng Vương.
Địa giới nước Văn Lang phía Đông giáp biển Nam, phía Tây giáp Ba
Thục, phía Bắc giáp Động Đình Hồ, phía Nam giáp Hồ Tôn
(Tiền biên; năm Tự Đức thứ 9, Tây Lịch 1856)
Theo Ngọc Phả đền Hùng:
Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm trị vị 400 năm thọ 420 tuổi, đẻ được
100 bọc trứng nở thành 100 con trai, làm chủ trăm họ, có trăm tên và trăm
danh hiệu phong làm 100 vua chư hầu tức là Thủy Tổ của Bách Việt, rất có uy
linh. Sau khi cha là Kinh Dương Vương để làm vua Hồ Động Đình. Khi đẻ ra
Long Quân tự bẩm thông minh phi thường, khí tượng đế vương rõ rệt, vua
bàn lập Long Quân làm Hoàng Thái Tử, hỏi nàng Âu Cơ cho làm vợ. Âu Cơ
là người phong tư diện mạo kỳ diệu, sắc đẹp nghiêng thành ở động Lăng
Xương. Dương Vương trị vị 215 năm thọ 260 tuổi. Lạc Long Quân nối ngôi
tức là Hùng Hiền Vương cao hoàng thái tổ Quang Hưng hoàng đế. Hùng Hiền
Vương lập nàng Âu Cơ làm hoàng hậu ngự ở núi Nghĩa Linh.
Đúng 3 năm 3 tháng 10 ngày, vào giờ ngọ ngày 25 tháng chạp năm
Giáp Tý, mây lành bao phủ, tướng là hiện tiền, hào quang sáng chói khắp
phòng, hương thơm ngào ngạt cả vùng, Âu Cơ thấy trong mình thai chuyển,
chở dạ sinh ra 100 quả trứng ngọc…
Đúng giờ Ngọ 15 tháng Giêng năm Ất Sửu, bào thai 100 trứng nở
thành 100 người con trai lúc ấy hào quang rực rỡ, hương thơ sực nức đầy nhà.
Trong có 1 tháng không cần bú mớm mà đã lớn khôn, tướng mạo khác thường
kì hình tú dị tinh thần lẫm liệt cái thế anh hùng, cao to ba thước bảy tấc…
Long Quân nói với Âu Cơ rằng : “Ta là giống Rồng, nàng giống Tiên,

không đồng chủng loại chẳng thể ở lâu được với nhau.Nên cho 50 người con
theo cha gọi là Thủy Tinh, 50 con theo mẹ lên núi gọi là Sơn Tinh, trấn giữ
mọi núi đều gọi là thần thuộc vậy”…
20


Thái tử là Hùng Quốc Vương đứng đầu trăm con trai lên nối nghiệp…
( Theo nghiên cứu thị bản Ngọc phả viết thời Trần, đời vua Lê Thánh
Tông niên hiệu Hồng Đức năm đầu. Tây lực 1470 quan hàn lâm viện trực
ngọc sĩ Nguyễn Cố soạn lại )
Theo Ngọc phả đền Mẫu Âu Cơ:
Hùng Vương Triều Lễ bộ thượng thư
Tri điện bách thần
Phúc sao cổ tích truyện
Hoàng đế bệ hạ, khâm phục sắc chi. Âu Cơ đệ nhất tiên thiên công
chúa. Ngọc nương phu nhân xuất thần tri kiến, tiên giáng gianh miền cặp lự
bạch nhi giám kiên loạn tân Nguyệt thậm thậm thu ba cổ sở vị thi hoa giải
ngữ như ngọc ngọc sinh hương diệc túc dĩ hình dung kì mĩ, thường tịnh, cư
tại nhà học tự quan thư, tiêu đàn tinh thông
Ngày 25/12 năm Nhâm Thân thăng vu thiên đường triều tấu hoàng đế
thời ấy cử giám quốc sư ra sắc phong thần, qua thang mộc ấp trang Hiền
Lương, báo phụ lão cho tiền 30 quan thiết lập miếu thờ. Năm năm hương hóa
đời đời bất tuyệt.
Lệ làng hàng năm ngày mồng 7 tháng giêng Tiên giáng, đồ lễ dùng ngũ
quả bánh ngũ sắc cắt giấy ngũ sắc.
Lệ ngày 25 tháng chạp Tiên thăng đồ lễ dùng hoa quả cắt giấy ngũ sắc.
Thánh Tông lục niên chính nguyệt thập ngũ nhật phụng sao chính bản
chi diện Nguyễn Hiền.
Hùng Vương miếu lễ bộ thượng thư tri điện bách sao cổ truyền.
Án tổ quốc Nam Việt thập bát đại thành vương trước gọi Xích Quỳ

quốc truyền ngôi thánh Lạc Long Quân húy Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy
bà bà Âu Cơ về ở núi Nghĩa Linh sinh ra 1 bọc trăm trứng nở ra 100 người
con trai. Bà Âu Cơ là giống Tiên Lạc Long Quân là giống Rồng, thủy hoa

21


tương khắc bèn chia 50 con theo mẹ lên núi 50 con theo cha về biển, lưu kí
trường tự giai hóa vị thần.
( Theo nghiên cứu thì trước Thời Lê đã có một bản truyện cổ tích về
Mẫu Âu Cơ và đền Mẫu do triều đình thời đó cấp 30 quan tiền làm. Đến đời
vua Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 6- tây lịch 1465 sai quan tri điện
Nguyễn Hiền sao lại truyện cổ )
Theo truyền thuyết và lịch sử thì vào khoảng năm 2879 TCN vua Đế
Minh phong cho Đế Nghi làm vua ở phương Bắc, Lộc Tụng làm vua ở
phương Nam. Lộc Tụng lên ngôi xưng là Kinh Dương Vương. Đến năm 2793
TCN Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Sùng Lãm. Sùng Lãm lên
ngôi vua ( xưng là Lạc Long Quân). Thuở ấy vợ chồng Đế Lai ở động Lăng
Xương xã Trung Ngĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay. Đã sinh được con gái
yêu tên là Âu Cơ. Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm tỏa ngát
trên trời cỏ mây lành che chở, điểm báo “ Tiên nữ giáng trần”. Nàng Âu Cơ
rất xinh đẹp, “ so hoa hoa biết nói, so ngọc ngọc ngát hương”, trăm đọc chữ
giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật “khác nào bà Tương Phi khéo léo, hệt tưa
nàng Lộng Ngọc tài cao”. Âu Cơ đã được Lạc Long Quân kén làm vợ và đưa
về núi Ngĩa Lĩnh. Tại đây Âu Cơ sinh được 100 bọc trứng nở thành 100 người
con trai. Khi các con lớn lên Lạc Long Quân nói với Âu Cơ : “ Ta là giống
Rồng, nàng là giống Tiên thủy hoa tương khắc bèn chia 50 con theo mẹ lên
núi 50 con theo cha về biển, để lưu truyền được lâu dài, về sau này các con
đều hóa thành thần.
Trong 50 người con thì người con lên nối ngôi vua lấy niên hiệu là

Hùng Vương thứ nhất đặt tên nước là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu,
truyền 18 đời vua Hùng, trị vị đất nước trong 2651 từ “ năm Nhâm Tuất 2879
đến năm 258 TCN”
Bà Âu Cơ đi đến đâu cũng thu phục nhân dân, dạy dân cày lúa, trồng
dâu, nuôi tằm, dệt vải. Trên con đường muôn giặm đó, có 1 ngày kia Người
22


đến trang Hiền Lương, huyện Hạ Hòa,trấn Sơn Tây, thấy phong cảnh thiên
nhiên tươi đẹp, có núi cao đồng rộng, song dài có hồ nước trong xanh bát
ngát, cỏ cây hoa lá tốt tươi, cá chim muông thú dồi dào. Người cho khai
hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng
Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu… là những cái tên từ thở xa xưa đến nay vẫn
còn đọng mãi trong ký ức người dân Hiền Lương.
Khi trang ấp đã ổn định, người lại cùng các con lên đường đến các
vùng đất mới. Đến khi giang sơn thu về một mối, bờ coi biên cương được mở
rộng Người lại trở về Hiền Lương, nơi Người đã trọn để gắn bó với cuộc đời
mình. Tương truyền ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thìn, bà Âu Cơ cùng bầy
tiên nư bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, ở đó nhân dân đã
dựng nên một ngôi miếu thờ phụng, đời đời hương khói và ghi nhớ công đức
của Người.
Như vậy theo thần tích và truyền thuyết thì xã Hiền Lương là nơi lập
trang ấp và là nơi mất của Tổ Mẫu Âu Cơ. [2; ]
1.3.5. Mục đích và ý nghĩa của lễ hội đền Mẫu Âu Cơ
Hằng năm, cứ vào dịp tết Nguyên đán, đất trời Hiền Lương (Hạ HòaPhú Thọ) lại dậy lên một không khí linh thiêng và bao điều huyền thoại về
truyền thuyết Mẫu Âu Cơ dừng chân nơi đây sinh cơ lập ấp trong hành trình
đưa 50 người con đi “khai thiên phá thạch”.
Từ bao đời nay, người dân Hiền Lương huyện Hạ Hòa tổ chức trang
trọng lễ hội đền Mẫu Âu Cơ vào mùng 7 tháng giêng. Ngày lễ chính của Đền
Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có

các ngày lễ khác là ngày 10-11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8,
ngày “Tiên thăng” 25 tháng Chạp. Đây là dịp để muôn dân đất Việt và du
khách thập phương hướng về cội nguồn.
Đền Mẫu Âu Cơ là một di tích lịch sử văn hoá lâu đời, một di sản quý
báu của cả nước, có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống văn
23


hoá dân tộc cho lớp lớp con cháu muôn đời. “Tín ngưỡng Thờ mẫu Âu Cơ” là
di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là việc làm mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc,
thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống của cộng đồng người Việt, góp phần
làm phong phú hơn vào hệ thống Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú
Thọ- di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ thành truyền thống thể hiện đạo lý sống trọng
nghĩa, trọng tình, khắc ghi công đức tổ tiên của dân tộc, thể hiện đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” vào mùng 6-7 tháng giêng hàng năm, đông đảo người dân
khắp mọi miền đất nước lại quy tụ về đất lành Hiền Lương, huyện Hạ Hòa
thành kính tưởng nhớ công ơn “Thánh Quốc Mẫu”. Trải qua hàng nghìn năm
lịch sử với bao biến động thăng trầm, Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ vẫn vẹn nguyên
giá trị nhân văn sâu sắc, lắng đọng giá trị văn hóa truyền thống, kết tụ tinh
thần đoàn kết trong nghĩa “đồng bào”, nhân lên niềm tự hào nòi giống Rồng Tiên của người Việt…
Thờ Mẫu Âu Cơ không chỉ thể hiện niềm tự hào về dòng giống tổ tiên
mà còn cho thấy được một bề dày lịch sử, chiều sâu văn hóa của dân tộc Việt
Nam. Nơi đây là nơi thể hiện tính gắn kết của cộng đồng dân tộc và giáo dục
truyền thống yêu nước, nhất là cho thế hệ trẻ - những người chủ nhân tương
lai của đất nước. Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ đã và đang góp một phần quan trọng
trong sự phát triển du lịch của tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung.
Việc giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa của Đền Mẫu Âu Cơ là một
nhiệm vụ cấp thiết để khu di tích ngày càng phát huy được giá trị văn hóa của
mình, sớm trở thành điểm du lịch hấp dẫn của cả nước cùng với hệ thống các

di tích trên vùng đất tổ. Mang đậm dấu ấn thời kì dựng nước, đồng thời thực
hiện tốt nhiệm vụ của nghị quyết của Đảng các cấp đã đề ra về việc đầu tư
xây dựng tôn tạo công trình di tích phục vụ tốt nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng
của đồng bảo cả nước, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
24


Tiểu kết chương 1
Từ xưa những lễ hội truyền thống là món quà tinh thần thiết yếu của
người dân Việt Nam ta. Lễ hội biểu trưng cho một màu sắc riêng biệt và còn
là một hiện tượng văn hóa đặc biệt. Sở dĩ nói như vậy vì lễ hội là không gian,
là điều kiện, là động lực cũng như là cơ hội để gìn giữ các giá trị truyền thống
đã được hình thành, lưu giữ và hun đúc trong tiến trình lịch sử của bất kỳ dân
tộc nào. Và sự tồn tại cho đến ngày nay của lễ hội đã minh chứng một thực tế,
những gì tốt đẹp nhất, là tinh hoa văn hóa của dân tộc mới được gìn giữ qua
sự khắc nghiệt của thời gian. Trong đó, lễ hội đền Mẫu Âu Cơ có giá trị cả về
tinh thần và giáo dục, mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Việc thờ cúng Mẫu
Âu Cơ ở xã Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ là một nét đẹp văn hóa truyền
thống, thể hiện sự kính trọng, biết ơn của nhân dân xã Hiền Lương với
Người. Hằng năm lễ hội được diễn ra vào ngày 7 tháng Giêng – đây như một
lời nhắc nhở để người dân nhớ về truyền thuyết “ Trăm trứng trăm con” và mẹ
Âu Cơ đưa 50 người con lên trang Hiền Lương khai hoang lập ấp và cũng là
nơi mẹ hóa về trời. Bút lưu sổ vàng, tâm mạch lòng thành ngày 03 tháng 4
năm 2009, Nguyên Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã viết:
“Đời đời nhớ ơn Mẫu Âu Cơ
Người mẹ của cả dân tộc Việt Nam”.

25



×