Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm “một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3″

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.64 KB, 13 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Trong môn toán ở bậc tiểu học các bài toán có lời văn có một vị trí rất
quan trọng. Một phần lớn thời gian học toán của học sinh dành cho việc học giải
các bài toán ấy. Kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá qua khả năng
giải toán, cả kết quả thi kiểm tra cũng vậy. Biết giải thành thạo các bài toán là
một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán học của mỗi học
sinh. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt
kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học. Theo tôi các
phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ
mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 3
nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kĩ năng giải
toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập
và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức
là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức
dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học.
Môn toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần pháp
triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo sáng tạo, nó góp
phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao
động mới.
Trong dạy học toán ở tiểu học thì giải các bài toán có lời văn có vị trí đặc
biệt quan trọng và chiếm khoảng thời gian tương đối lớn trong nhiều tiết học
cũng như trong toàn bộ chương trình môn toán.
Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói
riêng là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa
cao, trí nhớ chưa bền vững, thích học nhưng chóng chán. Vì vậy, giáo viên phải

1



làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh, tạo ra không khí sẵn sàng học
tập và chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức.
Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá,
thông tin ... đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ dám làm năng động
chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu
trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học toán nói riêng cần phải vận dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học.
Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng
đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu
quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy
học hợp lí để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí của lứa tuổi và trình độ nhận thức của học sinh.
Trong chương trình môn toán ở tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai
trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán
học. như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học...đều có nguồn
gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người. Thấy
được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm.
Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính
của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế
hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc
mình làm có độc lập suy nghĩ, có sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến
thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải
toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu
sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những
mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 3, bản thân nhận thấy rằng việc rèn kỹ năng
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 là đều cần thiết đối với các em học sinh
và là cơ sở để lên lớp 4, 5. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số kinh
nghiệm rèn kỹ năng giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 3”.

2


2. Điểm mới của đề tài:
Đây là đề tài mới lần đầu tiên bản thân tôi lựa chọn. Tìm hiểu thực trạng
giải toán có lời văn của học sinh lớp 3 trong năm học 2015 - 2016. Nhằm tạo
cho học sinh lớp 3 kỹ năng giải toán có lời văn đạt kết quả tốt. Đề xuất một số
giải pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3
3. Phạm vi áp dụng của đề tài :
Đề tài này được áp dụng trong trường Tiểu học.
Đối tượng nghiên cứu: giáo viên và học sinh lớp 3.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH.
1.1: Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ
huynh học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao
việc dạy học của giáo viên và học sinh.
- Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến
trẻ.
- Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học
tập.
- Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn gặp phải không ít khó khăn.
* Khó khăn:
- Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học
nhưng thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế.
- CSVC của nhà trường mới ở mức tối thiểu, một số công trình lâu năm đã
bị xuống cấp cần phải nâng cấp, thay thế bổ sung thêm.
- Hoàn cảnh gia đình của một số em còn gặp nhều khó khăn. Một số phụ

huynh ít quan tâm đến việc học của con em mình, phụ huynh cho rằng việc học
tập của con em là do thầy cô, nhà trường chịu trách nhiệm.
3


- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành
của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả
cao.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy
song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
1.2. Thực trạng của lớp.
Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3B.
Trong đó:
- Tổng số có 35 em. Trong đó: Nam: 22 em; nữ: 13 em.
- Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy: học
sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập
khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em
làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải
đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi
dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các
phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 3.
Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán
và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp…
Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời
các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì?...Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải
chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải…Những nguyên nhân trên
không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các
phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.
Trong một tiết dạy 35 đến 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều,

phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời
không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
Đây cũng là lý do mà tôi chọn sáng kiến này, mong tìm ra những giải
pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3
4


nói riêng và trong môn toán nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn
với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
1.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu.
Bước vào đầu năm học tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán của 35 học sinh
lớp 3B và thu được kết quả như sau:

Học sinh

Sĩ số

HS cả lớp

35

Mức 3
13

37,3%

Mức 2
9

25,7%


Mức 1
8

22,8%

Chưa đạt
5

14,2%

Từ những kết quả đã khảo sát tôi tiến hành tìm hiểu nguyên nhân của thực
trạng trên là do:
+ Những học sinh chưa đạt là những học sinh không xác định được dạng
toán, không nắm được quy trình các bước giải và không hiểu được cái gì đã biết
và cái gì bài toán yêu cầu phải tìm, không hiểu các thuật ngữ toán học.
+ Những học sinh đạt mức 1 là những học sinh nắm chưa chắc quy trình
các bước giải, đặc biệt về việc hiểu nội dung bài toán, nhận dạng toán, phân tích
bài toán, ... gặp khó khăn.
+ Những học sinh đạt mức 2 là những học sinh cơ bản nắm chắc quy trình
giải toán có lời văn, song trong quá trình thao tác có những sai sót (lỗi về kỹ
thuật tính) nên kết quả chưa cao.
+ Những học sinh đạt mức 3 là những học sinh nắm chắc quy trình giải
toán có lời văn.
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học
sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường,
tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
1.4. Các giải pháp
a. Họp phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.
Từ những kết quả và thực trạng ban đầu trong cuộc họp phụ huynh đầu

năm tôi đã trao đổi với phụ huynh những ưu điểm, tồn tại mà các em còn hạn
chế như:
5


- Học sinh chưa biết xác định dạng toán.
- Học sinh chưa có kỹ năng tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần
tìm.
- Một số học sinh thực hiện đúng các bước nhưng tính sai kết quả.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của
nhiều em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành
giáo dục và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con
cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của
lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách
vở, đồ dùng, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, dành thời gian nhắc nhở,
quan tâm cho các em học tập….Rất mừng là đa số phụ huynh đều thống nhất
cao biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách
dạy học cho các em. Sách giáo khoa mới còn nhiều kí hiệu, các lệnh, yêu cầu
của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu bài tập. Riêng trong phần bài tập của sách
Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán,
luyện nói và trả lời nhiều…
b. Chuẩn bị cho việc giải toán.
Để có được giờ dạy giải toán có lời văn theo phương pháp đổi mới đạt kết
quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ
thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên
cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh. Các em đều chủ
động học tập và phát triển cao nhất, chính vì lẽ đó cả hai đối tượng cô và trò đều
phải có sự chuẩn bị chu đáo.
* Học sinh nắm được phương pháp cơ bản để giải được một bài toán.
+ Giáo viên thường hướng dẫn học sinh giải theo quy trình:

- Cho học sinh đọc và nắm nội dung bài toán.
- Hỏi học sinh để tóm tắt bài toán (Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ?).
- Nêu câu hỏi để phân tích bài toán.
- Nêu câu hỏi để lập kế hoạch giải.
* Học sinh nắm được các dạng toán cơ bản ở học kỳ I như:
6


- Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
- Gấp một số lên nhiều lần.
- Giảm đi một số lần.
- Bài toán giải bằng hai phép tính.....
* Học sinh biết trình bày bài giải theo thứ tự: Lời giải, phép tính, đáp số.
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng
ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần
quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ dạy.
Các em đã là học sinh lớp 3 song còn rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy,
để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn
luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được
trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu
thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn
mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ
năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học
sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
Ví dụ minh họa:
a) Đối với học sinh:
+ Muốn dạy học sinh giải toán có lới văn có chất lượng, trước hết phải giúp
học sinh nắm nội dung bài toán. Bản thân đã định hướng cho học sinh đọc kĩ bài
toán : Tìm hiểu các yếu tố lời văn phi toán học trong bài toán, những nội dung
lời văn mang yếu tố toán học. Dạng của nó ( Ví dụ: Gấp một số lần, kém hơn,

bằng...) giúp học sinh dễ dàng trong tiếp cận nội dung bài toán có lời văn.
+ Về tóm tắt bài toán: Ở bước này nên để học sinh tự tóm tắt bài toán. Có
như vậy học sinh mới xác lập được các yếu tố toán học trong bài toán và mối
liên quan của các điều kiện cho biết và cái phải tìm.
+ Việc lập lời giải và phép tính là nội dung quan trọng nhất trong quy trình
giải toán. Chỉ có nhận thức đầy đủ các bước tiếp đó học sinh mới thực hiện tốt
việc lập lời giải và phép tính. Giáo viên cần định hướng cho học sinh mỗi lời
7


giải và phép tính là một bước đi tuần tự đúng của việc thực hiện kế hoạch giải
bài toán.
Ví dụ 1 : Bài 4 trang 56: Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125l, người ta đã
lấy ra 185l dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu?
Kế hoạch giải :
Tìm số dầu của cả 3 thùng→ Tìm số dầu còn lại
- Tuần tự đúng ở đây là tuần tự xuôi theo kế hoạch giải đã phân tích (tính tổng
số dầu trước, tìm số dầu còn lại sau). Nếu đi sai tuần tự đó thì bài toán không
giải được.
- Căn cứ kế hoạch giải:
+ Đặt lời giải thứ nhất : Số dầu của 3 thùng là :
Và viết phép tính :

125 x 3 = 375 (l)

+ Đặt lời giải thứ hai: Số dầu còn lại là :
Và viết phép tính :

375 – 185 = 190 (l)


Như vậy, học sinh đã thiết lập được mối quan hệ giữa lời giải và phép tính.
Đây là yêu cầu cơ bản khi thực hiện trình bày bài giải toán có lời văn.
b. Đối với giáo viên:
Cần nêu câu hỏi gợi mở để học sinh nhận biết trong bài toán có lời văn
đâu là lời văn có chứa yếu tố toán học, đâu là lời văn không chứa yếu tố toán
học. Nhằm tạo điều kiện cho học sinh nắm chắc nội dung bài toán. Sau khi hiểu
nội dung bài toán, học sinh biết gạt bỏ những yếu tố phi toán học để nhận ra cốt
lõi (nhân) của bài toán để tóm tắt bài toán dưới những hình thức thích hợp:
Tóm tắt:
3 thùng : Mỗi thùng 125 l .
Đã lấy :185 l
Còn

:

...l ?

+ Sau khi phân tích, giáo viên cần làm cho học sinh biết rõ về dạng của bài
toán đặc biệt cần quan tâm là khai thác triệt để sự hiểu biết (kiến thức cũ của học
sinh), để từ cái cũ đi đến cái mới.
8


Giáo viên có thể dưới nhiều hình thức để giúp học sinh nhận dạng bài toán và
tìm phương pháp giải:
Ví dụ : Khi hướng dẫn HS giải bài toán trên: Giáo viên nêu câu hỏi
- Muốn biết còn lại bao nhiêu lít dầu trước hết ta cần biết điều gì? (Biết
tổng số dầu của 3 thùng)
- Tìm số dầu của 3 thùng bằng cách nào? ( Lấy 125 x 3 = 375 l )
- Có tổng số dầu rồi muốn tìm số dầu còn lại ta làm thế nào?

(Lấy 375 – 185 = 190 l )
Như vậy, bằng các hình thức trên, giáo viên giúp học sinh tư duy, động não,
tư duy độc lập, dần dần tạo được phương pháp học tập, ghi nhớ của học sinh.
Đặc biệt tạo hứng thú khám phá sáng tạo của học sinh trong học tập giải toán có
lời văn.
* Về dạy học sinh lập lời giải và phép tính:
- Dạy học sinh xác định căn cứ để lập lời giải:
+ Căn cứ vào câu hỏi của bài toán.
+ Căn cứ vào kế hoạch giải bài toán đã lập.
+ Căn cứ vào yêu cầu tìm những dữ kiện chưa biết hoặc kết quả cần tìm.
- Những dự kiện chưa biết cần tìm để trả lời câu hỏi cuối cùng của bài toán
hay nói cách khác phục vụ tìm đáp số cuối cùng.
- Nội dung lời giải mô tả định tính mục đích thực hiện phép tính.
Ví dụ ở bài 4 trang 56:
Lời giải "Số dầu còn lại là:" học sinh lập được nhờ:
+ Căn cứ vào kế hoạch giải bài toán.
+ Căn cứ vào yêu cầu cần tìm dữ kiện chưa biết phục vụ tìm đáp số cuối cùng.
+ Nội dung lời giải mô tả định tính mục đích phép tính đó là “tìm số lít dầu còn
lại ...”
- Dạy học sinh lập phép tính.
Ở học sinh lớp 3 là các em đã có óc khái quát cơ bản phát triển. Vì vậy, việc
tìm phép tính đặt lời giải là hợp lôgic tư duy khoa học. Từ nội dung lời giải, học
sinh dễ dàng có phép tính cụ thể:
9


Ví dụ: Cùng với lời giải trên sẽ có phép tính: 375 – 185 = 190 (l)
Ví dụ 2: Bài 3 trang 58: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127kg cà chua, ở
thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp ba lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi
thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua?

- Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài. Tóm tắt bài toán bằng cách vẽ sơ đồ hoặc tóm
tắt bằng lời để tìm ra cách giải. Học sinh lớp tôi giải như sau:
Tóm tắt:
Thửa ruộng thứ nhất:

127kg

Thửa ruộng thứ hai :

gấp ba

Cả hai
Cách 1:

: .......kg?
Bài giải
Số ki-lô-gam cà chua thu được của thửa ruộng thứ 2 là:
127 x 3 = 381 (kg)
Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:
127 + 381 = 508 (kg)
Đáp số: 508 kg.

Giáo viên khắc sâu dạng toán cho học sinh:
+ Bài toán này thuộc dạng toán gì? (gấp một số lên nhiều lần và tìm tổng của hai
số)
* Nhìn vào tóm tắt có em giải như sau:
Cách 2:

Bài giải
Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:

127 x 3 + 127 = 508 (kg)
Đáp số: 508kg.

Qua hai cách giải của học sinh giáo viên giải thích cho học sinh biết: thực
ra cách này chính là cách giải trên: gộp hai phép tính trên. Từ đó giáo viên gợi ý
học sinh tóm tắt bằng sơ đồ, tìm cách giải. Giáo viên cho học sinh nhận xét:
+ Số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất biểu thị mấy phần? (1 phần)
+ Số cà chua ở thửa ruộng thứ hai biểu thị mấy phần? (3 phần)
+ Số cà chua cả hai thửa ruộng biểu thị mấy phần? (4 phần)
10


Tóm tắt

127 kg

Thửa 1:

? kg

Thửa 2:
Nhìn vào sơ đồ em hãy tìm cách giải

Bài giải
Tổng số phần bằng nhau là:
1 + 3 = 4 (phần)
Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:
127 x 4 = 508 (kg)
Đáp số: 508kg.
Khi làm một bài toán giải học sinh phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép

tính. Từ đó giúp học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, tìm nhiều cách giải khác
nhau giúp học sinh phát triển tư duy toàn diện.
III. KẾT LUẬN:
1. Ý nghĩa của sáng kiến:
- Dạy giải toán có lời văn cho học sinh là phương pháp dạy học mang tính
tư duy khoa học và hệ thống kiến thức xuyên suốt ở các lớp.
- Dạy giải toán có lời văn cho học sinh cần tuân thủ quy trình và hệ thống
nhận thức khoa học. Chú trọng việc phân tích bài toán giúp học sinh tìm ra mối
quan hệ giữa các số liệu trong bài toán, từ đó nhận ra kiến thức cần sử dụng để
giải bài toán.
- Dạy giải toán có lời văn hướng tới đích cuối cùng là giúp học sinh đặt lời
giải đúng, phép tính đúng đi đến kết quả đúng.
2. Kết quả đạt được:
a.Về phía học sinh:
- Sau khi tiến hành các biện pháp đã nêu ở trên, trong giai đoạn cuối tháng
2, tôi đã khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của học sinh đạt kết quả sau:

Học sinh

Sĩ số

Mức 3

Mức 2

Mức 1

Chưa đạt
11



HS cả lớp

35

18

47,9%

10

28%

7

19,9%

0

0%

* Nhận xét kết quả đạt được:
- Chất lượng giải toán có lời văn của học sinh sau khi có tác động những
biện pháp hợp lý đã có sự tiến bộ rõ nét. Tỷ lệ học sinh chưa đạt tăng rất nhiều
so với đầu năm.
- Tỷ lệ học sinh nắm chắc quy trình các bước giải do tác động đúng các
phương pháp gia tăng rõ nét. Phần đa các em biết đọc và nắm vững nội dung bài
toán, biết phân tích bài toán, biết lập kế hoạch giải bài toán và tiến hành giải bài
toán, trình bày bài giải đúng (còn lại 3 em còn non: Tiến, Duy, Phát). Chính vì
vậy, tỷ lệ học sinh chưa đạt giảm nhiều so với đầu năm.

b.Về phía giáo viên:
- Phân tích cụ thể các yếu tố lời văn, mối quan hệ giữa các yếu tố toán và
lời văn. Từ đó, giúp học sinh đọc hiểu bài toán đảm bảo yêu cầu.
- Giáo viên đã thực sự biết khai thác hiểu biết của học sinh để giúp học
sinh chiếm lĩnh kiến thức toán có lời văn dễ dàng hứng thú.
- Giáo viên biết hướng dẫn học sinh đặt lời giải, phép tính trên cơ sở dựa
vào mối quan hệ của các yếu tố trong bài toán có lời văn.
- Nét hiệu quả rõ ràng là học sinh hứng thú trong việc giải toán có lời văn.
Từ đó ham học trong các tiết luyện giải toán. Giáo viên tự tin với phương pháp
dạy của bản thân.
3. Bài học kinh nghiệm:
- Muốn dạy giải toán có lời văn có chất lượng giáo viên và hoc sinh
- Học sinh cần thấy trong bài toán có lời văn bao gồm lời văn mang yếu tố
toán học và không mang yếu tố toán học. Tuy nhiên, cả hai dạng có liên quan
chặt chẽ với nhau. Khi thực hiện giải toán có lời văn, cần biết quan hệ các yếu tố
lời văn, gạt bỏ yếu tố phi toán học để bài toán cô đọng súc tích.
- Chỉ khi và chỉ khi nắm được mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa
biết trong bài toán có lời văn mới tìm ra kết quả chưa biết từ cái đã biết một cách
đúng hướng.
12


- Mục tiêu cuối cùng của giải toán có lời văn là trình bày bài toán các lời
giải và phép toán lôgic, khoa học. Đây là vấn đề cốt lõi của dạng bài toán có lời
văn.
4. Kiến nghị:
Kính thưa các đồng chí! Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân rút
ra trong quá trình dạy học giải toán có lời văn ở học sinh lớp 3. Rất mong được
sự quan tâm giúp đỡ và góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để
giúp tôi có phương pháp giảng dạy tốt hơn nhằm năng cao chất lượng giáo dục.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

13



×