Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Sơn La giai đoạn 2015 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.37 KB, 50 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
TÊN ĐỀ ÁN: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO CỦA THANH TRA TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2015-2020

Người thực hiện: CẦM VĂN HÙNG
Lớp: Cao cấp lý luận chính trị khóa 2014 - 2015
Chức vụ: Thanh tra viên
Đơn vị công tác: Thanh tra tỉnh Sơn La
Người hướng dẫn khoa học: Thạc sỹ Vũ Ngọc Hà

SƠN LA, THÁNG 5 NĂM 2015


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Khiếu nại và tố cáo đều là các quyền chính trị cơ bản của công dân, được
ghi nhận trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, Luật.
Khiếu nại và tố cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân
chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây
cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình
và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều hướng tới bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật được
thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các vi
phạm pháp luật được phát hiện kịp thời, từ đó có biện pháp ngăn chặn, xử lý thỏa
đáng. Thực hiện khiếu nại, tố cáo, công dân không những thực hiện quyền dân
chủ trực tiếp, tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà còn góp phần


tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố trật tự xã hội, thắt chặt mối quan
hệ giữa nhà nước và công dân. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện có
hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho Đảng và Nhà nước đánh giá đúng tình hình thi hành
chính sách, pháp luật, đánh giá đúng năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ, công
chức, đảng viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân không những thể hiện bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa mà còn là trách nhiệm, sứ mệnh của Đảng - lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật về
vấn đề này.
Trong thời gian qua, các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Sơn La đã có
nhiều cố gắng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, tình hình


khiếu nại, tố cáo tiếp tục diễn biến phức tạp. Khiếu nại nhiều người, vượt cấp
ngày có xu hướng tăng với tính chất ngày càng phức tạp và có tổ chức. Các vụ
khiếu nại, tố cáo chủ yếu liên quan đến đất đai, chính sách, giá đền bù khi thu
hồi đất thực hiện dự án…Nghiêm trọng hơn, hiện nay nhiều trường hợp khiếu
nại, tố cáo có sự lôi kéo, xúi giục, hỗ trợ về vật chất của các thế lực thù địch,
lực lượng phản động và phần tử cơ hội chính trị. Công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn nhiều hạn chế: chậm trễ trong tiến độ giải quyết đơn thư; tham mưu
thông báo giải quyết tố cáo chưa đúng thẩm quyền; việc thực hiện nội dung
quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực thi hành
của UBND tỉnh giao cho các cấp, các ngành tổ chức thi hành chậm thực
hiện…. Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy: hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị, trật tự
xã hội và phát triển kinh tế của địa phương.
Vì vậy việc nghiên cứu đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu

quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc cần được nghiên cứu và tổ chức
thực hiện. Do đó tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Sơn La giai đoạn 2015 - 2020”, nhằm giải
quyết những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, góp phần thiết thực
vào phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Hơn nữa vấn đề cải tiến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng đang đặt
ra cho các nhà khoa học pháp lý những bài toán khó giải, xử lý được vấn đề này sẽ
góp phần đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng quản lý
của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước nói chung, các cơ quan quản lý nhà
nước của tỉnh Sơn La nói riêng, xây dựng được một bộ máy nhà nước gọn nhẹ
nhưng hiệu quả, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Chính quyền dân
chủ nhân dân.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung:


- Xuất phát từ tình hình diễn biến khiếu nại, tố cáo ở tỉnh Sơn La, để nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm
tạo ra sự chuyển biến tích cực; nhằm giải quyết các vấn đề khiếu kiện nổi cộm,
phức tạp, kéo dài, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở
địa phương.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan Thanh tra tỉnh trong việc
tham mưu, giúp việc Ủy ban nhân tỉnh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa xây dựng và củng cố Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Thực hiện nghiêm các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định an ninh
chính trị, trật tự xã hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về

khiếu nại, tố cáo và chỉ đạo, giải quyết kịp thời, đầy đủ, đúng chính sách pháp luật
các khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên phạm vi toàn tỉnh.
- Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán cán bộ giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo từ cấp xã, phường, huyện, thành phố, sở, ban, ngành.
Giúp cơ sở giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo của người dân được chính
xác hơn, công minh hơn và đa số được người dân chấp thuận, đồng tình.
- Thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; giải
quyết khiếu nại, tố cáo phải có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội
dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của
pháp luật; đồng thời chấp hành nghiêm quyết định, kết luận đang có hiệu lực
thi hành.
- Thủ trưởng cơ quan phải coi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền là trách nhiệm của chính mình. Các vụ việc khiếu nại, tố cáo phải


được tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm ngay tại cơ sở. Giảm tình trạng
khiếu nại, tố cáo tràn lan, nhiều người, vượt cấp.
- Rút ngắn thời gian giải quyết khiếu nại, tố cáo và nâng cao chất
lượng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho công dân, giảm thiểu việc khiếu nại, tố cáo nhiều người, phức tạp,
kéo dài.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân,
nâng cao nhận thức của công dân về pháp luật khiếu nại, tố cáo, giúp người
dân nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện việc khiếu nại, tố
cáo.
3. Giới hạn của đề án
Trong đề án này, trên cơ sở các chủ trương của Đảng, các quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo và thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của Thanh tra tỉnh Sơn La để rút ra những kết quả ưu điểm, khuyết điểm, tồn

tại, nguyên nhân, trách nhiệm, đồng thời nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những
ý kiến đóng góp để đưa ra những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao
chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Sơn La giai
đoạn 2015 - 2020.
Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng,
kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Sơn La.
Về thời gian: Các số liệu thu thập và phân tích trong nghiên cứu tập
trung trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2015.

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người do sự chiếm hữu về tư
liệu sản xuất và sự phân chia không công bằng về vật chất đồng nghĩa với sự


xuất hiện giai cấp, xã hội đã hình thành những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị
giữa các bộ phận người tổng thể cộng đồng. Sự phân tầng giai cấp tạo nên sự
phân định về đặc quyền, đặc lợi và các giá trị truyền thống về tâm lý, đạo đức,
lối sống, nhân sinh quan của từng giai cấp trong xã hội.
Tuy chính thể khác nhau xong giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản lập
nên hệ tư tưởng thống trị bóc lột thậm tệ sức lao động của nhân dân, làm giàu
trên sự cùng cực của người lao động và áp đặt lên họ một thức luật lệ hà khắc,
bất công và tàn nhẫn.
Khiếu nại, tố cáo là sản phẩm cuộc đấu tranh của nhân loại được hình
thành và phát triển bởi nguồn gốc bất bình đẳng về quyền lợi kinh tế, chính trị.
Nó thể hiện bằng hình thức tương đối ôn hòa nhưng không kém phần quyết liệt
như đánh trống kêu oan, đến công đường kêu kiện hoặc viết đơn gửi hệ thống
chính quyền các cấp để giải bày oan ức mong được giúp đỡ. Tuy chủ thể khiếu
nại, tố cáo là cá nhân hay tổ chức hoặc một bộ phận cộng đồng thì khiếu nại, tố

cáo vẫn là sự đòi hỏi quyền lợi thiết thực về sự công bằng của giai cấp bị trị đối
với giai cấp thống trị, do đó bản chất nó bao giờ cũng mang tính giai cấp và tồn
tại khách quan khi xã hội có phân chia giai cấp. Trong thế giới hiện đại quyền
con người nói chung và quyền khiếu nại nói riêng được công nhận, cam kết,
bảo đảm và được ghi trong các Công ước, Hiệp ước, Hiến chương quốc tế nó
được chứng minh rằng "Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến cơ
quan tư pháp quốc gia; Có quyền chống những hành vi vi phạm các quyền cơ
bản của con người đã được Hiến pháp và Phát luật thừa nhận"1.
Điều 25 Công ước châu Mỹ về quyền con người ghi nhận:
"Mọi người đều có quyền hưởng một thủ tục khiếu nại đơn giản và
nhanh chóng hoặc mọi khiếu nại hữu hiệu khác trước các thẩm phán hoặc các
Tòa án có thẩm quyền nhằm bảo vệ người đó chống lại tất cả các hành động vi
phạm đến các quyền cơ bản của họ đã được Hiến pháp, pháp luật hoặc Công
ước này thừa nhận, ngay cả khi vi phạm này do những người thi hành công vụ
gây ra…". Ngay trong những năm đầu của Chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã


xác định: "Không thể giành thắng lợi cho Chủ nghĩa Xã hội toàn thắng và đưa
nhân loại tới sự mất đi của Nhà nước nếu không thực hiện dân chủ một cách
đầy đủ"2.
Chịu ảnh hưởng chung của quy luật xã hội, đất nước ta đi lên từ xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ đất nước phong kiến nửa thuộc địa, lại liên tục bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Tuy Đảng, Nhà nước đánh giá rất đúng đắn về sứ
mệnh lịch sử của nhân dân lao động, quyền lợi của nhân dân đặt tiêu chí hàng
đầu là xây dựng tổ quốc Việt Nam vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh. Song do tàn dư của tư tưởng phong kiến lạc hậu, do trình độ
cán bộ còn non kém, hệ thống chính quyền các cấp chưa được kiện toàn; Pháp
luật chưa hoàn thiện và trình độ dân trí còn hạn chế nên không tránh khỏi
những hành vi, vi phạm quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức….

Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền tự nhiên của con người trước
những vấn đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Bản chất của khiếu nại, tố cáo là
quyền tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo
vệ quyền và lợi ích của xã hội. Đó là quyền hiến định, quyền phản hồi, quyền
dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền. Chính vì vậy, khiếu nại,
tố cáo là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội. Công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, giữ vững mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thứ nhất, giải quyết khiếu nại, tố cáo là kênh thông tin quan trọng để kiểm
định tính đúng đắn, sự phù hợp của chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn.
Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính
đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành,
từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu
quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một
vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.


Thứ hai, giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong toàn
bộ hoạt động quản lý hành chính của bộ máy nhà nước nhằm phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, củng cố
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương chính sách mở cửa phát triển
kinh tế xã hội để hoà nhập với thế giới làm cơ sở xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam - một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đặt con người vào vị trí trọng tâm với mục
đích giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể và cả dân
tộc. Đó chính là tiền đề để mọi công dân thực hiện tốt các quyền tự do và nghĩa

vụ của mình trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân lao động
trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân có vai trò to lớn trong việc mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần tích cực
vào việc tăng cường và đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện sự tôn trọng pháp luật của cơ quan nhà
nước đối với tổ chức xã hội và công dân. Ở nước ta các cơ quan nhà nước đều
trực tiếp hay gián tiếp giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, nhưng chủ
yếu là các cơ quan hành chính Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ công dân nói chung, quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng
được đảm bảo bằng các yếu tố của hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển toàn diện của nền dân chủ, sự tham gia đông đảo của quần
chúng vào quản lý các công việc của nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát
của các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước là điều kiện đảm bảo về mặt
chính trị cho việc thực hiện các quyền tự do và nghĩa vụ của công dân. Cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là đảm bảo tốt nhất về


chính trị trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong đó có
quyền khiếu nại, tố cáo.
Thứ ba, thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà nhiều
hành vi tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ được làm sáng tỏ, góp phần làm
cho bộ máy Nhà nước thêm trong sạch, củng cố niềm tin của nhân dân lao động
đối với Đảng và Nhà nước ta.
Như vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo được xác định là nhiệm vụ chính trị
quan trọng, thường xuyên của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo đòi hỏi huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị,
trong đó các cơ quan hành chính nhà nước đóng vai trò nòng cốt.

1.2. Cở sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về vấn đề này như: Chỉ thị
số 09-CT/TW, ngày 06/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số
vấn đề cấp bách trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thông báo số 130TB/TW, ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo; Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
Nhà nước quy định trong Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật
khác. Điều 30 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,
cá nhân” [24,tr.7]. Theo quy định này, khiếu nại, tố cáo không chỉ là quyền
Hiến định của công dân Việt Nam (những người có quốc tịch Việt Nam) mà đã
được công nhận là quyền con người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Khiếu
nại và tố cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân chủ,


góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây cũng
là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều hướng tới bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật được thực
thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Ngày 11/ 11/ 2011 Quốc hội khoá 13 đã ban hành Luật Khiếu nại và Luật
Tố cáo với những điều khoản, chế tài cụ thể đáp ứng được các yêu cầu của
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, khắc phục được những hạn chế, nâng cao
được hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình hiện nay.
Chính phủ, Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản

hướng dẫn thi hành cụ thể để triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo.
Với bản chất là Nhà nước dân chủ nhân dân, lấy dân làm gốc, Đảng, Nhà
nước ta luôn luôn coi nhân dân là mục tiêu, động lực hoạt động, tạo mọi điều
kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. Thông qua quyền khiếu
nại, tố cáo nhân dân phát hiện ra những sai phạm, thiếu sót của cán bộ, từ đó đề
xuất, kiến nghị hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước.
Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu các cán bộ, công chức, các cơ
quan nhà nước phải giải quyết nhanh, tốt, kịp thời các khiếu nại, tố cáo của
nhân dân. Giải thích cho dân hiểu rõ những quyền và nghĩa vụ của mình và
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đó.
Như vậy, khiếu nại tố cáo là quyền lợi của nhân dân, nó thể hiện bản chất
dân chủ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khiếu nại, tố cáo
cũng là một trong những phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân dân và
là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với
bộ máy nhà nước.


Giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng đắn, kịp thời góp phần đảm bảo thực
hiện tốt quyền lực của nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhà nước với nhân
dân, thể hiện được bản chất của dân, do dân, vì dân của Nhà nước ta.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
- Luật khiếu nại năm 2011.
- Luật tố cáo năm 2011.
- Nghị định số 75/2012 ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật khiếu nại.
- Nghị định số 76/2012 ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật tố cáo.
- Thông tư 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định về quy trình giải quyết tố cáo.

- Thông tư 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.
- Chỉ thị số 35 - CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về “tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo”.
- Tài liệu tập huấn giới thiệu, chia sẻ một số sản phẩm tiêu biểu của
chương trình POSCIS, Thanh tra Chính phủ, Ban quản lý các dự án hợp tác
phát triển tăng cường năng lực ngành thanh tra (tháng 12 năm 2013).
- Thông tư 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08 tháng 9 năm 2014 Thông
tư liên tịch, Thanh tra chính phủ và Bộ Nội vụ “Hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”.


- Quyết định số 09/2015/QĐ-UBND ngày 31 tháng 3 năm 2015 quyết
định Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La “về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh Sơn La”.
Những căn cứ pháp lý trong việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
được thể hiện trong Hiến pháp, các bộ luật, luật do Quốc hội ban hành và các
nghị định, thông tư của các cơ quan nhà nước ban hành theo thẩm quyền. Trực
tiếp là Luật Tiếp công dân 2013, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo năm 2011 và các
nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành có liên quan
và các quy định cụ thể ở địa phương trong quá trình triển khai thực hiện, cụ thể
như sau:
a. Về công tác giải quyết khiếu nại
* Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu
Căn cứ Điều 27; 28; 29; 30; 31; 32; 33; 34 và Điều 35 của Luật Khiếu
nại năm 2011 thì trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại như sau:
+ Thụ lý giải quyết khiếu nại;
+ Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu;

+ Xác minh nội dung khiếu nại;
+ Tổ chức đối thoại;
+ Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;
+ Gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;
+ Khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính;
+ Hồ sơ giải quyết khiếu nại;
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp.
Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người ra quyết định hành
chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người
khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm


quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo quy định, việc khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức phải được
thực hiện bằng đơn, ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người
khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý
do khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và phải ký tên. Đơn khiếu nại phải
do người khiếu nại ký tên. Nếu người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì cán
bộ có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn. Trong trường hợp
người khiếu nại thông qua người đại diện thì người đại diện phải có giấy tờ
chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và việc khiếu nại phải thực hiện
đúng theo thủ tục quy định.
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành
chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên
tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khác mà người
khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian
có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. Thẩm quyền giải quyết của
mình và không thuộc một trong các trường hợp không được thụ lý để giải quyết,
người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn
bản cho người khiếu nại biết; trường hợp không thụ lý để giải quyết thì phải nêu

rõ lý do.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết định
hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục, thì người giải quyết khiếu
nại lần đầu phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Thời hạn
tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn giải quyết lần đầu.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày kể từ ngày thụ
lý giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Ở vùng sâu, vùng
xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày,
kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết
khiếu nại có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải


quyết.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, người giải quyết khiếu nại
phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm
rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu
nại. Trong trường hợp người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì luật
sư có quyền tham gia trong quá trình giải quyết khiếu nại. Người giải quyết
khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản và phải
gửi quyết định này cho người khiếu nại, người có quyền, lợi ích có liên quan;
khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại đối với
người khiếu nại và người bị khiếu nại.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu
mà người khiếu nại không đồng ý, thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án
theo quy định của pháp luật; đối với vùng sâu vùng xa thời hạn có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 45 ngày.
Trong trường hợp tiếp tục khiếu nại, thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm

theo bản sao quyết định giải quyết khiếu nại trước đó và các tài liệu có liên quan
cho người giải quyết khiếu nại tiếp theo. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận
được khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và không thuộc một trong
các trường hợp không được thụ lý để giải quyết của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,
người giải quyết khiếu nại tiếp theo phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng
văn bản cho người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu biết; trường hợp
không thụ lý để giải quyết thì thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại và nêu
rõ lý do.
Thời hạn giải quyết khiếu nại mỗi lần tiếp theo không quá 45 ngày, kể từ
ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể
kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại mỗi lần tiếp


theo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 70 ngày từ ngày thụ lý.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải quyêt ở lần khiếu nại
kế tiếp mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền tiếp
tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, trừ
trường hợp quyết định đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đối với
vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài hơn,
nhưng không quá 45 ngày.
* Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai
Căn cứ các Điều 36; 37; 38; 39; 40; 41; 42; 43 của Luật Khiếu nại thì
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai như sau:
+ Thụ lý giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Xác minh nội dung khiếu nại lần hai;
+ Tổ chức đối thoại lần hai;

+ Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Gửi công bố quyết định giải quyết khiếu nại;
+ Khởi kiện vụ án hành chính;
+ Hồ sơ giải quyết khiếu nại lần hai.
b. Về công tác giải quyết tố cáo
Căn cứ Điều 18, Luật Tố cáo thì việc giải quyết tố cáo được thực hiện
theo trình tự sau đây:
- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;
- Xác minh nội dung tố cáo;
- Kết luận nội dung tố cáo;


- Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm
bị tố cáo.
Người tố cáo phải gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo; nội dung tố cáo.
Trong trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người có trách nhiệm
tiếp nhận phải ghi lại nội dung tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người tố cáo, có chữ
ký của người tố cáo.
Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá
nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp tố cáo không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải
quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng
không quá 90 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Trong trường hợp cần thiết,
người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn thời hạn giải quyết một
lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.
Người giải quyết tố cáo phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh và

kết luận về nội dung tố cáo. Xác định trách nhiệm của mỗi người có hành vi vi
phạm, áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người vi phạm. Trong trường hợp có căn cứ
cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định
mà tố cáo không được giải quyết thì người tố cáo có quyền tố cáo với cơ quan với
cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo.
Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu phạm
tội thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải chuyển tin báo, chuyển
hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tin bằng văn bản về việc


xử lý cho cơ quan, tổ chức đó biết; trường hợp tố cáo có nội dung phức tạp thì
thời hạn trả lời có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Tình hình khiếu kiện của người dân đang có xu hướng tụ tập nhiều tại trụ
sở tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện. Vụ, việc khiếu nại, tố cáo có thể do cá
nhân đứng đơn với yêu cầu độc lập, có khi là quyền lợi của cả nhóm, của cả tập
thể nên cùng ký tên trong đơn và đòi hỏi giải quyết quyền lợi chung. Người dân
đi khiếu nại, tố cáo với nhiều nội dung, nhưng chủ yếu vẫn là: thu hồi đất, bồi
thường chưa thoả đáng, đòi lại đất cũ, thủ tục hành chính chậm, gây khó khăn
cho người dân, công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, quản lý và sử dụng ngân
sách, quy chế dân chủ...Việc khiếu nại, tố cáo đã làm ảnh hưởng đến an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội, một số dự án thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
còn kéo dài. Mặc dù công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Thanh tra
tỉnh đã được cấp ủy, lãnh đạo, giải quyết tích cực. Các vụ việc khiếu nại tố cáo
tính đến thời điểm tháng 01/2015 thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh giao cho
Thanh tra tỉnh thực hiện 0 vụ việc, vụ việc còn tồn đọng thuộc thẩm quyền
UBND tỉnh giao cho sở, ngành thực hiện còn 01 đơn khiếu nại.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đạt được những kết quả quan

trọng: tình hình khiếu nại, tố cáo của công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 20122015 giảm so với giai đoạn 2003-2011, tính chất, mức độ phức tạp của các vụ
việc giảm, không còn gay gắt, phát sinh điểm nóng. Tuy nhiên, số vụ khiếu nại,
tố cáo có tăng ở một số địa phương Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, di dân
tái định cư thủy điện Sơn La như: thành phố Sơn La (trước năm 2009 là thị xã
Sơn La), huyện Mộc Châu, huyện Mai Sơn, huyện Thuận Châu, huyện Quỳnh
Nhai..... Nội dung khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân chủ yếu
liên quan đến đất đai (trên 80%), nhất là ở những nơi có giá chuyển nhượng cao
hoặc lợi thế sản xuất kinh doanh, những địa phương đang triển khai xây dựng
dự án phát triển kinh tế - xã hội, các dự án như: nâng cấp cải tạo đường Quốc


lộ 6 với trên 200 km thuộc địa phận tỉnh Sơn La, đi qua trung tâm 4 huyện, 1
thành phố; các dự án đổi đất lấy hạ tầng, các dự án phát triển công nghiệp, du
lịch, xây dựng các trung tâm hành chính mới... Liên quan đến việc thu hồi đất,
đền bù giải phóng mặt bằng, bố trí đất tái định cư. Hiệu quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo chưa đáp ứng yêu cầu của địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để hạn chế và giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo, ngoài
việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người
dân, chúng ta cần phải có nhiều giải pháp và phải giải quyết một cách đồng bộ.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Sơn La là tỉnh miền núi cao nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam trong khoảng
20039’ – 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ – 105002’ kinh độ Đông.
Tỉnh Sơn La có 11 huyện và 1 Thành phố.
Sơn La tiếp giáp với các tỉnh như: Yên Bái, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ,
Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa.
Tỉnh Sơn La có 12 dân tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc Thái
chiếm 54%, dân tộc Kinh 18%, dân tộc Mông 12%, dân tộc Mường 8,4%, dân

tộc Dao 2,5%, còn lại là các dân tộc: Khơ Mú, Xinh Mun; Kháng, La Ha, Lào,
Tày và Hoa.
Hiện nay tỉnh Sơn La có 12 huyện, thành phố (huyện Mường La, Mai
Sơn, Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Sốp Cộp, Yên Châu, Phù Yên, Bắc
Yên, Mộc Châu, Vân Hồ, Thành Phố Sơn La).
Tỉnh Sơn La đa số dân số là dân tộc ít người, trình độ văn hóa thấp, sự
am hiểu về chính sách, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế
Cùng với các hoạt động cải cách kinh tế, chúng ta đã quan tâm và thực
hiện có hiệu quả cải cách về tư pháp và hệ thống pháp luật, trong đó nổi bật
là hoạt động cải cách thủ tục hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo là


một lĩnh vực được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Cơ chế giải quyết
khiếu nại, tố cáo là một trong những thể chế rất quan trọng thuộc lĩnh vực
quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Hoàn thiện cơ chế này sẽ góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hành chính công, đồng thời tăng
cường việc thực thi các quyền dân sự, chính trị của người dân.
Trong một thời gian dài, pháp luật khiếu nại, tố cáo đã được chỉnh sửa,
hoàn thiện nhiều lần, nhưng thực tiễn cho thấy, công tác giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều khó khăn, bất
cập và ngày càng gia tăng số lượng các đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân về
các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước, ở tất cả các cấp
chính quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và trên hầu hết các lĩnh vực dân sinh: đất đai,
môi trường, y tế, giao thông, xây dựng, kinh doanh,... Tính chất và nội dung khiếu
nại, tố cáo ngày càng phức tạp, nó đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải giải quyết
hiệu quả, nhanh chóng những đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có lúc còn bị động, thiếu chặt
chẽ, trách nhiệm trong giải quyết không rõ ràng. Trong một số vụ việc, các cơ
quan khi xem xét giải quyết đưa ra ý kiến thiếu nhất quán, dẫn đến sự hoài nghi

của công dân về kết quả giải quyết.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những công việc khó
khăn, đòi hỏi có đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, tuy nhiên ở
một số địa phương cấp huyện, xã còn thiếu cán bộ, hoặc trình độ, năng lực,
kinh nghiệm của một số cán bộ còn hạn chế.
Trong nhiều năm qua, công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực
chưa chặt chẽ, nhất là trong lĩnh vực đất đai, số liệu đo đạc thiếu chính xác, hồ
sơ quản lý, lưu trữ không đầy đủ nên khi phát sinh khiếu nại, tố cáo thì gặp rất
nhiều khó khăn trong giải quyết.
Nhiệm vụ của cơ quan Thanh tra tỉnh được cơ cấu lại theo Thông tư liên
tịch số 03/2014 ngày 08 tháng 9 năm 2014 Thông tư liên tịch hướng dẫn chức


năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Được
UBND tỉnh cụ thể hóa bằng Quyết định số 09/2015/QĐ-UBND ngày 31 tháng
3 năm 2015 quyết định Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh Sơn La, các tổ
chức thuộc Thanh tra tỉnh:
+ Văn phòng;
+ Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 1 ( Phòng nghiệp vụ 1);
+ Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 2 ( Phòng nghiệp vụ 2);
+ Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 3 ( Phòng nghiệp vụ 3);
+ Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 4 ( Phòng nghiệp vụ 4);
+ Phòng Thanh tra phòng, chống tham nhũng;
+ Phòng Giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra.
Biên chế của cơ quan Thanh tra tỉnh hiện nay là 40 cán bộ, mỗi phòng bố
trí từ 5-7 cán bộ, lực lượng tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo đủ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ đề ra, tuy nhiên số cán bộ có chuyên môn về ngành luật còn
thiếu.

2.2. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở tỉnh Sơn La hiện
nay
2.2.1. Tóm tắt về đơn vị thực hiện dự án
- Thanh tra tỉnh Sơn La là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Sơn
La, có trách nhiệm giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật. Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch UBND cùng
cấp và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh
tra Chính phủ.


- Thanh tra tỉnh Sơn La có 01 Chánh Thanh tra, 04 Phó Chánh Thanh tra
và 30 Thanh tra viên. Chánh Thanh tra tỉnh do Chủ tịch UBND cùng cấp bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính
phủ. Phó Chánh Thanh tra tỉnh giúp Chánh Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của Chánh Thanh tra tỉnh. Các Thanh tra viên thực hiện
nhiệm vụ theo công việc chuyên môn được giao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh được quy định tại Điều 2,
Thông tư 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08 tháng 9 năm 2014 Thông tư liên
tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh
tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh.
Thanh tra tỉnh: Mục 7 về giải quyết khiếu nại, tố cáo:
a. Hướng dẫn Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
các cơ quan, đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc tiếp công
dân, xử lý đơn khiếu nai, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện việc tiếp
công dân tại trụ sở làm việc theo quy định;
b. Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiến nghị các
biện pháp để làm tốt hơn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi
quản lý của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
c. Xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi được giao;
d. Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Chủ tịch ủy ban nhân dân
huyên, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Giám đốc sở đã giải quyết nhưng có
dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố
cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh xem xét,
giải quyết lại theo quy định;


đ. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết
khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp tỉnh;
e. Tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Những kết quả đạt được
Thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6/3/2002 của Ban Bí thư Trung
ương; Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/1/2008 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số
36/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tình hình khiếu nại, tố cáo và tăng
cường trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan Nhà nước trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo; Thông báo số 1440/TTCP ngày 01/8/2006, Kế hoạch số
319/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ về rà soát phân loại giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân; Kế hoạch số 345/KH-TTCP ngày 6/3/2008 của
Thanh tra Chính phủ về thực hiện Thông báo kết luận số 130-TB/TW của Bộ
chính trị. Trong thời gian qua, UBND tỉnh Sơn La đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo các địa phương, đơn vị quán triệt tổ chức thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; chỉ đạo thực hiện dứt điểm
những kết luận, quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo đã có hiệu lực pháp luật,

giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu tố phát sinh từ cơ sở, không để phát sinh
thành điểm nóng; tăng cường công tác nắm tình hình, phối hợp giải quyết các
vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, nhiều người vượt cấp; nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; làm tốt công tác kiểm
tra, đôn đốc, hướng dẫn giải quyết khiếu nại, tố cáo theo chức năng, thẩm
quyền được giao.
Từ năm 2011 đến tháng 5 năm 2015, Thanh tra tỉnh đã tiến hành tiếp
nhận 413 đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, được UBND tỉnh giao xác minh
nội dung khiếu nại, tố cáo 20 vụ việc (trong đó khiếu nại 11 vụ, tố cáo 9 vu);
qua giải quyết đơn thư trả lại cho công dân 171 triệu, trả lại 17,2m2 đất, kiến
nghị xử lý hành chính 11 người.


Thực hiện Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20/02/2009; Kế hoạch số
1130/KH-TTCP ngày 10/5/2012; Kế hoạch số 2100/KH-TTCP ngày 19/9/2013
của Thanh tra Chính phủ về việc kiểm tra, rà soát các vụ việc khiếu nại, tố cáo
tồn đọng, phức tạp, kéo dài. UBND tỉnh Sơn La đã ban hành nhiều văn bản để tổ
chức thực hiện, đến nay qua tổng hợp, rà soát, trên địa bàn tỉnh Sơn La còn 32
vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài, trong đó vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của UBND tỉnh 6 (khiếu nại 04 vụ, tố cáo 02 vụ). Hiện nay đã đã giải
quyết xong 5 vụ việc, còn 01 vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền của tỉnh giao
Sở Tài nguyên và Môi trường. UBND tỉnh Sơn La đang chỉ đạo các cấp, các
ngành tập chung giải quyết dứt điểm từng vụ việc nhằm giảm tình trạng khiếu
nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài, đem lại quyền lợi hợp pháp cho công dân…
Nhìn chung, từ các kết quả đã đạt được trong những năm qua cho thấy
thanh tra tỉnh đã có nhiều cố gắng tham mưu, đề xuất nhiều giải pháp tích cực
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc chỉ đạo thực hiện tập trung,
đồng bộ hơn, đã huy động sức mạnh của nhiều lực lượng nên đã kịp thời xử lý
các tình huống phức tạp, giải quyết dứt điểm được nhiều vụ việc mới phát sinh,
nhiều vụ việc được giải quyết thông qua đối thoại hòa giải, tình hình khiếu nại,

tố cáo liên tục có chiều hướng giảm, hạn chế phát sinh điểm nóng.
2.2.3. Những tồn tại cần giải quyết
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình khiếu nại, tố cáo quy mô,
tính chất của các vụ việc diễn biến phức tạp.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, một số vụ việc giải quyết tố
cáo tham mưu thông báo giải quyết tố cáo chưa đúng thẩm quyền.
- Sau khi thành lập đoàn xác minh nội dung đơn khiếu nại, tố cáo, đoàn
xác minh xây dựng kế hoạch xác minh, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho
quá trình xác minh, làm việc với các cơ quan chuyên môn xác minh nội dung
khiếu nại, tố cáo, làm việc với người khiếu nại, tố cáo. Đoàn xác minh nội dung
đơn tổng hợp kết quả xác minh trình lãnh đạo cơ quan xem xét, ban hành báo


cáo kế quả giải quyết đơn; đối với khiếu nại ban hành quyết định giải quyết
khiếu nại, tố cáo ban hành kết luận nội dung tố cáo, thông báo kết quả tố cáo,
quyết định xử lý tố cáo. Việc đôn đốc thực hiện chưa được thường xuyên dẫn
đến tổ chức thực hiện còn kéo dài, thiếu sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện kết luận.
- Sự phối kết hợp giữa cơ quan Trung ương với địa phương một số vụ
việc còn chưa chặt chẽ (khi nhận được văn bản xin ý kiến của địa phương thì
Trung ương không trả lời; văn bản trả lời còn chậm).
- Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực như đất đai, tài chính
ngân sách, chính sách xã hội ở một số nơi còn lỏng lẻo, tùy tiện để cán bộ lợi
dụng làm trái chế độ chính sách gây thất thoát lãng phí, tạo bức xúc trong
nhân dân.
- Đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của thanh tra tỉnh còn thiếu về chuyên ngành luật.
- Một bộ phận công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo không nắm
được các quy định của pháp luật về lĩnh vực mà mình khiếu nại, tố cáo hoặc cố
tình không chấp hành các quyết định, kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, mặc dù đã được kiểm tra rà soát nhiều lần, việc giải quyết có lý, có tình,
một số công dân cố tình lôi kéo, kích động khiếu nại, tố cáo nhiều người vượt
cấp lên Trung ương.
2.2.4. Nguyên nhân của những tồn tại
* Nguyên nhân khách quan:
- Một số quy định của pháp luật về xử lý người tố cáo sai chưa rõ ràng về
quy trình.
- Một số Thông tư hướng dẫn quy trình nghiệp vụ chậm được ban hành
theo Luật khiếu nại, Luật tố cáo.


- Nhiều vụ việc khiếu nại có nội dung phức tạp, đan xen giữa khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị, phản ánh thời gian phát sinh từ lâu, hồ sơ lưu trữ không đầy
đủ hoặc bị thất lạc, gây khó khăn trong quá trình thẩm tra, xác minh, giải quyết
dẫn đến chậm thời gian so với quy định.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Lực lượng cán bộ chuyên môn về lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo
của thanh tra tỉnh còn thiếu chuyên ngành luật.
- Sự tham gia phối hợp của các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trong
việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo còn chưa thường xuyên dẫn đến đơn
thư khiếu nại, tố cáo còn tồn đọng, kéo dài.
- Ý thức, am hiểu về pháp luật của một bộ phận công dân khi thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, có những vụ việc đã có quyết định, quyết
đinh giải quyết lần 2, nhưng công dân cố tình đeo bám khiếu nại, không thực
hiện việc khởi kiện ra tòa án, có trường hợp lợi dụng quyền tự do, dân chủ của
công dân để khiếu nại, tố cáo sai sự thật, kích động, lôi kéo người nhẹ dạ cả tin
đi khiếu nại, tố cáo gây phức tạp thêm tình hình.
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
- Thanh tra tỉnh tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện đề án
“Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Sơn La

giai đoạn 2015 - 2020”, thành lập Hội đồng Tư vấn quyết khiếu nại, tố cáo
của tỉnh. Lựa chọn cán bộ tiêu chuẩn lãnh đạo cấp phó ngành, cán bộ có
năng lực tốt tham gia vào hoạt động tư vấn về khiếu nại, tố cáo. Danh sách
các sở gồm: Phó chủ tịch Thường trực UBND nhân dân tỉnh chủ tịch Hội
đồng, Chánh thanh tra tỉnh, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh,
Phó giám đốc Công an tỉnh, Phó chánh văn phòng UBND tỉnh, Phó Chánh
án tòa án nhân dân tỉnh, Phó giám đốc Sở Nội vụ, Phó giám đốc Sở Lao
động Thương bình và Xã hội, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường,


×