Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luan van chất lượng đại hội đại biểu nhiệm kỳ các đảng bộ huyện ven biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.7 KB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng quy định: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng
là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội đại biểu
hoặc đại hội đảng viên.
Với tư cách là cơ quan lãnh đạo trong các đảng bộ, chi bộ, đại hội đại
biểu hoặc đại hội đảng viên có quyền thảo luận, quyết định những vấn đề hệ
trọng nhất của tổ chức đảng, như: đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của
nhiệm kỳ vừa qua; quyết định chủ trương, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ; bầu
ra Ban chấp hành và đại biểu đi dự đại hội cấp trên... Mỗi kỳ đại hội là một sự
kiện, một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
công tác lãnh đạo và xây dựng nội bộ của tổ chức đảng. Vì vậy, tổ chức đại
hội có chất lượng luôn là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, mà trước
hết là của cấp uỷ đảng các cấp.
Các đảng bộ huyện là một mắt khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức
của Đảng. Đại hội đại biểu đảng bộ huyện là cơ quan lãnh đạo cao nhÊt
trong đảng bộ huyện. Theo quy định của Điều lệ Đảng, đại hội đại biểu đảng
bộ huyện phải căn cứ vào nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
nghị quyết của đại hội đảng bộ tỉnh và tình hình thực tế của địa phương, thảo
luận ra nghị quyết đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua;
quyết định phương hướng, mục tiêu, giải pháp lớn để thực hiện được các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị; bầu ban chấp
hành để lãnh đạo toàn bộ hoạt động của đảng bộ giữa hai kỳ đại hội, bầu đại
biểu đi dự đại hội cấp trên. Chính vì vậy chất lượng của đại hội đại biểu huyện
sẽ ảnh hưởng quyết định đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng của huyện suốt cả thời kỳ giữa hai kỳ đại hội, đồng
thời ảnh hưởng tới cả chất lượng của cơ quan lãnh đạo của đảng bộ tỉnh.



2
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của mỗi kỳ đại hội, dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, đảng bộ các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá đã tập
trung cao độ vào công tác tổ chức các đại hội nhiệm kỳ. Nhờ đó, chất lượng
đại hội nhiệm kỳ của các đảng bộ huyện từng bước được nâng lên, thể hiện
như: việc thảo luận trong đại hội dân chủ hơn, nghị quyết đại hội bám sát hơn
vào đặc điểm, tình hình đảng bộ, kiện toàn được BCH đảng bộ các huyện theo
hướng trẻ hóa, trí tuệ và năng động hơn...
Do chất lượng đại hội nhiệm kỳ của các đảng bộ huyện từng bước được
nâng cao, nên tình hình kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị của các huyện ven
biển tỉnh Thanh Hoá đã có những chuyển biến rõ nét với những kết quả rất
khích lệ.
Tuy nhiên so với yêu cầu, chất lượng đại hội đại biểu của các đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá vẫn còn những hạn chế phải được nghiên cứu,
khắc phục. Cá biệt chất lượng đại hội nhiệm kỳ của một số đảng bộ huyện
thấp, không đáp ứng được yêu cầu như: chưa phát huy tốt dân chủ trong đại
hội; nghị quyết không sát hợp với tình hình, chuẩn bị nhân sự không tốt nên
bầu BCH không sát với dự kiến... Ở những nơi chất lượng đại hội đại biểu
đảng bộ huyện thấp, đều có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các
huyện đó.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đại hội đại biểu các đảng bộ huyện và
tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề "Chất lượng đại hội đại
biểu nhiệm kỳ các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn
hiện nay" có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đại hội đảng là vấn đề hệ trọng, được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đề cập ngay từ thời kỳ xây dựng chính đảng cách mạng đầu tiên
của giai cấp công nhân, được Đảng ta rất quan tâm. Tuy nhiên, những nghiên
cứu khoa học về vấn đề này chưa nhiều, chưa có những công trình chuyên



3
khảo về vấn đề đại hội và tổ chức đại hội của Đảng. Sau đây là một số nghiên
cứu, tài liệu có liên quan trong thời gian gần đây.
- Vạn Phúc: Chỉ dẫn của V.I.Lê-nin về Đại hội Đảng Cộng sản, Tạp chí
xây dựng Đảng (điện tử), cập nhật ngày 13/4/2006.
- Ngô Minh Tuấn: Vài kinh nghiệm từ đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, Tạp chí
Xây dựng Đảng (điện tử), cập nhật ngày 21/9/2005.
- Nghệ An rút kinh nghiệm đại hội điểm cấp cơ sở..., Web: Dân tộc và
phát triển, ngày 11/8/2005.
Các nghiên cứu, tài liệu trên đã đề cập một số khía cạnh của vấn đề đại
hội và tổ chức đại hội của Đảng nhưng chủ yếu ở dạng sơ lược. Đến nay, vấn
đề chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chất lượng đại hội
đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá; trên cơ sở đó đề xuất
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Làm rõ tình hình, đặc điểm của các đảng bộ
huyện và vị trí, ý nghĩa, nhiệm vụ, nội dung, yêu cầu của đại hội đại biểu các
đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá.
- Đưa ra quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng đại hội đại biểu các đảng
bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đại hội đại biểu các đảng
bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn
hiện nay.



4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven
biển tỉnh Thanh Hoá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát đại hội đại biểu nhiệm kỳ của đảng bộ huyện ven biển
tỉnh Thanh Hoá gồm: đảng bộ huyện Quảng Xương, đảng bộ huyện Hoằng
Hoá, đảng bộ huyện Hậu Lộc, đảng bộ huyện Nga Sơn, đảng bộ huyện Tĩnh
Gia trong thời kỳ từ năm 1996 đến nay và đề xuất phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng đại hội nhiệm kỳ 2011 - 2015 của các đảng bộ này.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Đảng nói chung, về vấn đề đại hội Đảng nói riêng. Luận văn có kế
thừa kết quả của các nghiên cứu trước.
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn đại hội đại biểu của các
cấp và đại hội Đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, luận văn sử dụng
các phương pháp chủ yếu: phương pháp tổng kết thực tiễn; lịch sử - lôgíc;
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê.
6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ quan niệm, thực trạng chất lượng đại hội đại biểu các
đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá; đề xuất phương hướng, giải pháp chủ
yếu để nâng cao chất lượng đại hội đại biểu của các đảng bộ huyện ven biển
trong đại hội nhiệm kỳ tới.



5
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đảng bộ huyện, nhất là
các huyện ven biển trong công tác tổ chức đại hội Đảng; làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHIỆM KỲ CỦA CÁC ĐẢNG BỘ HUYỆN
VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ
1.1. CÁC ĐẢNG BỘ HUYỆN VÀ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHIỆM KỲ CÁC ĐẢNG
BỘ HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ

1.1.1. Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
1.1.1.1. Khái quát về các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
Thanh Hoá là một tỉnh nằm giữa Miền Bắc và Miền Trung, có vĩ độ: 19 035' - 200-30', kinh độ đông 1040 - 106,300. Diện tích tự nhiên 11.168km2 và
18.760km2, bờ biển dài 102km có nhiều cửa lạch (Lạch Sung, Lạch Trào,
Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Bạng...). Biển Thanh Hoá là một kho tài
nguyên vô giá về khoáng sản, hải sản, danh lam thắng cảnh, có khả năng to
lớn phát triển các ngành công nghiệp, khai thác hải sản, du lịch, dịch vụ, có vị
trí chiến lược cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Thanh Hoá có 5 huyện và một thị xã ven biển đó là: Tĩnh Gia, Quảng
Xương, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, Nga Sơn và thị xã Sầm Sơn. 5 huyện ven biển
Thanh Hoá có diện tích 813km 2 (=22,8% diện tích tỉnh) với 1.075.363 người
(=25% dân số của tỉnh). Các huyện ven biển Thanh Hoá có điều kiện tự nhiên,

địa hình, thổ nhưỡng phong phú, đa dạng; có đồi núi, núi đá vôi (Tĩnh Gia,
Nga Sơn). Đất đai chủ yếu là đất chua phèn, đất mặn, đất phù sa, đất cát pha;
có nhiều cửa lạch, cửa biển. Có thể xây dựng những cảng thương mại, cảng cá
lớn. Có nhiều bãi biển đẹp thuận lợi cho việc phát triển du lịch tắm, nghỉ biển.
Hệ thống giao thông đường bộ, đường biển, đường sông phát triển rất thuận
lợi cho việc đi lại và phát triển kinh tế.
Các huyện ven biển Thanh Hoá có lịch sử hình thành, phát triển lâu đời,
có nhiều thành tựu kinh tế, văn hoá, có nhiều di tích lịch sử văn hoá được xếp


7
hạng và cấp hạng quốc gia và cấp tỉnh. Nhân dân các huyện ven biển đều có
truyền thống đoàn kết, vượt khó khăn, lao động cần cù, sáng tạo. Chiến đấu
dũng cảm, kiên cường, chống kẻ thù xâm lược.
Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng, các huyện ven biển
Thanh Hoá cũng luôn phải đối mặt với những khó khăn thách thức: đó là lũ
lụt, bão lớn, nắng nóng, khô hạn, thiếu nước luôn xảy ra, trình độ dân trí còn
thấp, số hộ nghèo cao hơn bình quân của cả nước.
1.1.1.2. Tình hình, đặc điểm các đảng bộ huyện ven biển Thanh Hoá
Tương ứng với 5 huyện ven biển, Thanh Hoá có 5 đảng bộ huyện ven
biển. Các đảng bộ đó có tình hình, đặc điểm sau:
- Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá có hệ thống tổ chức từ
huyện đến cơ sở phát triển hoàn chỉnh, hoạt động có nề nếp. Các đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá đều được thành lập từ rất sớm (từ năm 1930 –
1946), phát triển rất nhanh. Đến nay đã có 356 tổ chức cơ sở Đảng, 2.293 chi
bộ dưới cơ sở, 46.394 đảng viên, tuổi bình quân của đảng viên cao (trên 50%
số đảng viên có tuổi trên 50).
Đảng bộ huyện Tĩnh Gia ra đời ngày 6/12/1930, đến nay đã có 80 tổ chức
cơ sở Đảng (trong đó có 50 đảng bộ và 30 chi bộ cơ sở). Có 605 chi bộ dưới
cơ sở. tổng số đảng viên 11.295.

Đảng bộ huyện Hậu Lộc thành lập ngày 12/3/1940, đến nay có 57 tổ chức
cơ sở Đảng (trong đó có 33 đảng bộ, 24 chi bộ cơ sở). Có 356 chi bộ dưới cơ
sở, tổng số đảng viên 7.596.
Đảng bộ huyện Hoằng Hoá thành lập ngày 01/9/1945. Đến nay có 90 tổ
chức cơ sở đảng (trong đó có 56 đảng bộ, 34 chi bộ cơ sở), 625 chi bộ dưới cơ
sở. Tổng số đảng viên 11.541.
Đảng bộ Nga Sơn thành lập ngày 15/10/1945, đến nay có 64 tổ chức cơ
sở đảng (trong đó có 36 tổ chức cơ sở đảng, 28 chi bộ dưới cơ sở), 414 chi bộ
chi bộ dưới cơ sở với 7.252 đảng viên.


8
Đảng bộ huyện Quảng Xương được thành lập ngày 26/2/1946,đến nay có
82 tổ chức cơ sở đảng (trong đó có 51 đảng bộ, 31 chi bộ dưới cơ sở), 605 chi
bộ dưới cơ sở, tổng số đảng viên 11.295.
Như vậy, các đảng bộ huyện ven biển Thanh Hoá đều được thành lập vào
thời kỳ trước, trong và sau cách mạng Tháng Tám. Qua quá trình phát triển lâu
dài, từng bước được kiện toàn do đó có hệ thống tổ chức từ huyện đến cơ sở
phát triển hoàn chỉnh, hoạt động có nề nếp, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo trong
hệ thống chính trị.
- Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá có đội ngũ cán bộ, đảng
viên đông đảo, nhiều đảng viên được tôi luyện trong 2 cuộc kháng chiến
chống xâm lược và cuộc chiến đấu chống các thế lực bành trướng nên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, nhưng chủ yếu là nông dân, đặc biệt là nông dân
vùng biển trình độ, năng lực công tác hạn chế, tuổi đời bình quân cao, trên
50% số đảng viên có tuổi trên 50.
- Phần lớn cán bộ chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo của huyện và các xã
của các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá là bộ đội xuất ngũ, hoặc được nghỉ
chế độ. Tuy nhiên, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt nhưng năng lực lãnh đạo,
nhất là lãnh đạo kinh tế còn rất hạn chế, tuổi cao, điều kiện kinh tế khó khăn,

ít đồng chí có điều kiện để tiếp tục học tập, tự đào tạo, bồi dưỡng vươn lên.
- Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá hoạt động trên một vùng
đất có nhiều tiềm năng phong phú, có vị trí địa kinh tế, địa chính trị xã hội
thuận lợi và quan trọng, có lịch sử hình thành phát triển lâu đời; nhân dân có
truyền thống đoàn kết, gắn bó keo sơn, lao động cần cù, sáng tạo, kiên cường,
bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai. Đây là vùng
tự do, là hậu phương vững chắc trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, có
nhiều đóng góp cho cách mạng. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, hiện đang nỗ lực tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng
quê hương, đất nước. Nhưng đây cũng là vùng đất có nhiều khó khăn cho sự


9
phát triển kinh tế; địa hình chia cắt, thiên tai bão lụt, hạn hán thường xuyên
xảy ra, gánh nặng việc thực hiện chính sách xã hội sau chiến tranh đối với các
đối tượng xã hội quá lớn.
- Do có điều kiện tự nhiên và vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triẻn kinh tế - xã hội; an ninh - quốc phòng của tỉnh Thanh Hoá và cả nước
nên nhiệm vụ của các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá hết sức nặng
nề, đa dạng, từ phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp,
xây dựng cơ bản , dịch vụ - thương mại – du lịch, phát triển kinh tế thuỷ sản
bảo vệ an ninh tuyến biên giới hải đảo, xây dựng đời sông văn hoá, tinh thần
đến xây dựng Đảng.
- Các đảng bộ ven biển tỉnh Thanh Hoá có truyền thống xây dựng và đấu
tranh vẻ vang lâu dài. Ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành lực lượng
lãnh đạo cách mạng, bảo vệ tổ quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các huyện
ven biển tỉnh Thanh Hoá.
1.1.2. Đại hội đại biểu nhiệm kỳ các đảng bộ huyện ven biển tỉnh
Thanh Hoá - vị trí, vai trò, nhiệm vụ, ý nghĩa
1.1.2.1. Quan điểm tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và của Đảng ta

về Đại hội Đảng
Đại hội là hội nghị đại biểu hoặc toàn thể thành viên của một tổ chức,
thường họp định kỳ để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của tổ
chức. Đây là hình thức hoạt động chính trị - xã hội xuất hiện từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại (vào thời đại Chiếm hữu nô lệ) và ngày càng phát triển trong
xã hội hiện đại, do vị trí, vai trò đặc biệt không thể thay thế của nó.
Ngay từ khi sáng lập ra chính đảng cách mạng đầu tiên của giai cấp công
nhân là Liên đoàn những người cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen đã xác định đại
hội Liên đoàn hàng năm là cơ cấu tổ chức có vị trí cao nhất của Liên đoàn.
Điều 5 của Điều lệ Liên đoàn do chính C.Mác, Ph.Ăngghen trực tiếp tham gia
soạn thảo quy định: "Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ,


10
Ban chấp hành Trung ương và đại hội" [62, tr.494]. Với vị trí cao nhất trong
cơ cấu tổ chức, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng khẳng định đại hội là cơ quan có
quyền lực cao nhất của Liên đoàn: "Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn
Liên đoàn. Tất cả những đề nghị sửa đổi điều lệ được chuyển qua các tổng khu
bộ lên Ban chấp hành Trung ương và cuối cùng được đưa ra Đại hội... Đại hội
họp hàng năm vào tháng tám. Trong những trường hợp khẩn cấp, Ban chấp
hành Trung ương triệu tập Đại hội bất thường" [35, tr.491].
Trong quá trình tổ chức, lãnh đạo Quốc tế thứ nhất, Quốc tế thứ hai,
C.Mác, Ph.Ăng ghen luôn đề cao vai trò của các đại hội và tích cực tham gia
những hoạt động chuẩn bị cũng như điều hành đại hội, đấu tranh để đại hội
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của nó, giữ vững những nguyên tắc của
chủ nghĩa Cộng sản.
Là người kế thừa và phát triển tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về chính
đảng cách mạng của giai cấp công nhân vào nước Nga, trong quá trình xây
dựng chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga, VI.Lênin rất coi
trọng các đại hội của đảng. Đối với VI.Lênin, đại hội Đảng không chỉ là cơ

quan lãnh đạo có thẩm quyền cao nhất để quyết định các công việc quan trọng
của đảng mà đại hội còn là diễn đàn chính trị, tư tưởng, là giải pháp "có ý
nghĩa quyết định" để làm sáng tỏ tình hình, giải quyết các xung đột trong
khuôn khổ của đảng, bảo vệ sự trong sáng của các nguyên tắc. Sau Đại hội II
(1903), Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga lâm vào khủng hoảng do sự
chia rẽ, pháp hoại c ủa phái Men - sê - vích. Trước tình hình đó, VI.Lênin đã
chủ trương triệu tập Đại hội lần thứ III của Đảng. Theo Người việc sớm triệu
tập đại hội Đảng là một lối thoát chỉ có đại hội mới có thể chấm dứt hoạt động
phá hoại của bọn Men-sê -vích. Người khẳng định:
Cần phải có đại hội! Ngay cả trong tình hình sinh hoạt đảng
bình thường, đại hội cũng đã là cần thiết vì tính chất đặc biệt của
giai đoạn lịch sử, vì các biến cố trên thế giới có thể sẽ đề ra cho


11
đảng những nhiệm vụ mới. Trong tình trạng khủng hoảng nội bộ
đảng hiện nay, lại càng cần phải có đại hội, để tìm ra một lối thoát
chân chính và hợp lý, để bảo toàn lực lượng của đảng, để giữ gìn
danh dự và phẩm chất của đảng [55, tr.23].
Người nhấn mạnh:
Chỉ có đại hội, trong đó tất cả các đồng chí đều trình bày đầy
đủ và cởi mở những nguyện vọng của mình, mới có thể làm sáng tỏ
những vấn đề hết sức rối ren... Chỉ có đại hội mới làm sáng tỏ được
tình hình, mới giải quyết được xung đột, mới đưa cuộc đấu tranh
vào khuôn khổ... Chỉ có đại hội mới đủ sức làm cho những quan hệ
qua lại của những khuynh hướng và lực lượng trong đảng được
hoàn toàn sáng tỏ [55, tr.11, 21, 22].
Chính V.I.Lênin đã tích cực xúc tiến công việc chuẩn bị để triệu tập Đại
hội III của Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga từ ngày 12 đến ngày 27 tháng
4 năm 1905 tại Luân Đôn và trực tiếp chỉ đạo, tham gia hầu hết các công việc

của Đại hội.
V.I.Lênin đã nêu lên những nhiệm vụ của Đại hội III trước ba vấn đề chủ
yếu đặt ra trước Đảng: "Thứ nhất, vấn đề khủng hoảng trong Đảng, thứ hai
vấn đề quan trọng hơn đó là vấn đề hình thức tổ chức của Đảng nói chung, thứ
ba vấn đề chủ yếu tức là vấn đề sách lược của chúng ta trong thời kỳ cách
mạng đang xảy ra" [56, tr.293].
Để đại hội thực hiện được nhiệm vụ đề ra, V.I.Lênin đã dự thảo chương
trình Nghị sự của đại hội gồm 4 nội dung chính:
" A- Những vấn đề sách lược.
1- Khởi nghĩa vũ trang.
2- Công tác chuẩn bị cho hoạt động chính trị công khai của
đảng dân chủ xã hội.
3- Thái độ của Đảng dân chủ xã hội đối với chính sách của
Chính Phủ ngay trong khi và sau khi nổ ra cách mạng.


12
4- Thái độ đối với phong trào nông dân.
B- Thái độ đối với các Đảng và các trào lưu khác.
5- Thái độ đối với bộ phận ly khai khỏi Đảng công nhân dân
chủ xã hội Nga.
6- Thái độ đối với các phái tự do.
7- Thái độ đối với Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng.
C- Tổ chức của Đảng.
8- Điều lệ Đảng
9- Quan hệ giữa công nhân và tri thức trong các đảng bộ.
D- Công tác nội bộ của Đảng.
10- Báo cáo công tác của các đại biểu.
11- Việc cải tiến công tác tuyên truyền và cổ động.
12- Bầu cử các cán bộ phụ trách.

13- Thể thức công bố các biên bản và thể thức nhận chức của
các cơ quan mới [56, tr.118].
Ngày 13 tháng 4 năm 1905 phát biểu khi thảo luận chương trình nghị sự
của đại hội III, V.I.Lênin nói:
Tôi không có gì phản đối đề nghị của các đồng chí Mi-khalốp, Va-năng và Di-mun, song e rằng đại hội có nguy cơ bị lôi cuốn
vào việc tranh luận chương trình nghị sự. Trong các đại hội của
Đảng dân chủ xã hội Đức, chương trình nghị sự bao gồm 5 - 6 đề
mục, trong đại hội II của ta con số đề mục lên đến 25. Cuộc tranh
luận của chúng ta đã có nguy cơ phình ra. Tôi đề nghị lấy làm cơ sở
bản chương trình nghị sự nào phân chia các mục một cách tách
bạch, rành rọt nhất [56, tr.120].
V.I.Lênin rất coi trọng việc tổ chức thảo luận tại đại hội, phản đối việc
thảo luận ở các tiểu ban, Người nói:
Thay thế các phiên họp của đại hội bằng các tiểu ban là nguy
nhiểm, trong các tiểu ban người ta thảo luận nhiều vấn đề lý thú,


13
nhưng sau đó chúng rơi rụng mất cả, chứ không được đưa vào văn
bản, thời gian để cho các tiểu ban làm việc nghiêm túc không nhiều,
tăng thêm thời gian đó bằng cách rút bớt thời gian làm việc của toàn
đại hội là không nên [56, tr.121].
Khi bàn về thủ tục biểu quyết các vấn đề trong đại hội III V.I.Lênin viết
"Kể từ nay đại hội sẽ tiến hành tất cả các cuộc biểu quyết theo chương 7 của
bản nội quy, tức là tách riêng những phần biểu quyết, không tính gộp với các
đại biểu không có quyền biểu quyết" [56, tr.130].
Khi bàn về thủ tục bầu cử BCH Trung ương V.I.Lênin nói: "Tôi đề nghị
trước hết phải xác định số người phải bầu ra là bao nhiêu, tiến hành bầu cử
bằng cách bỏ phiếu kín, sau đó hãy thoả thuận về phạm vi công bố kết quả bỏ
phiếu" [56, tr.211].

Bàn về việc xuất bản thông cáo về đại hội III của Đảng công nhân dân
chủ xã hội Nga và việc xuất bản các biên bản của Đại hội, V.I.Lênin viết: "Đại
hội uỷ nhiệm cho BCH Trung ương tiến hành tức khắc việc xuất bản một
thông cáo ngắn gọn về Đại hội III trong đó đăng toàn văn cương lĩnh, điều lệ
và các nghị quyết.
Đại hội uỷ nhiệm cho BCH Trung ương tìm mọi cách xúc tiến việc công
bố thông cáo ấy.
Đại hội uỷ nhiệm cho tiểu ban xuất bản các biên bản của Đại hội:
1- Xác định dứt khoát xem những văn kiện nào vì lý do bảo mật, không
được công bố trong mọi trường hợp.
2- Xác định cách thức và mức độ phổ biến cho toàn thể đảng viên biết về
phần biên bản không được công bố của Đại hội III.
3- Trước khi xuất bản, phải rút ngắn những đoạn cần rút bỏ, những đoạn
chỉ liên quan đến việc tranh luận về chương trình nghị sự hoặc liên quan đến
những điểm bổ sung nhỏ đã bị bác cho các nghị quyết" [56, tr.230].
Sự chuẩn bị và tích cực tham gia tổ chức hoạt động của V.I.Lênin và
những người bôn-sê-vích đã đưa đến sự thành công lớn của Đại hội III Đảng


14
Công nhân dân chủ - xã hội Nga. Trong thông cáo về Đại hội III của Đảng,
V.I.Lênin viết:
Các đồng chí công nhân, đại hội III của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội
Nga vừa mới họp xong, đại hội này đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử
phong trào công nhân dân chủ - xã hội ở nước ta. Nước Nga đang trải qua một
giai đoạn lịch sử vĩ đại. Cách mạng đã nổ ra và ngọn lửa cách mạng đang
bùng cháy ngày một rộng lôi cuốn nhiều vùng mới và tầng lớp nhân dân mới.
Giai cấp vô sản đứng đầu các lực lượng chiến đấu của cách mạng.
Năm 1921, sau khi Đảng cộng sản (b) Nga , chính quyền Xô-viết và nhân
dân Nga đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc chiến đấu chống bọn phản cách

mạng trong nước và sự can thiệp của 14 nước đế quốc, nước Nga Xô-viết
chuyển từ "Chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới. Trong
điều kiện mới của đất nước, Đảng cộng sản (b) Nga diễn ra những cuộc tranh
luận gay gắt về việc quyết định nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.
Trong tình hình ấy Đảng cộng sản (b) Nga đã triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ X.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội X của Đảng cộng sản (b) Nga, V.I.Lênin
đã đặt ra nhiệm vụ cho các đại biểu tham gia đại hội. Người nói:
Thưa các đồng chí, chúng ta đã trải qua một năm không bình
thường, chúng ta đã tự cho phép chúng ta làm một việc xa xỉ là
tranh luận và bàn cãi quá nhiều trong nội bộ đảng ta. Đối với một
đảng bị kẻ thù bao vây, những kẻ thù hùng hậu nhất và mạnh nhất
gồm toàn bộ thế giới tư bản đối với một đảng đang phải mang một
gánh nặng chưa có thì sự xa xỉ đó quả thật là đáng ngạc nhiên!.
Tôi chưa rõ hiện nay các đồng chí sẽ đánh giá thế nào điều đó,
theo các đồng chí thì sự xa xỉ đó có hoàn toàn tương xứng với
những của cải, vật chất và tinh thần của ta hay không? Đánh giá
điều đó là tuỳ ở các đồng chí. Song dù sao tôi cũng nói một điều là
ở đây, tại đại hội này chúng ta cần phải đặt khẩu hiệu của chúng ta,


15
định ra mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta mà bất kể thế
nào cũng phải thưc hiện cho bằng được là: Sau những cuộc tranh
luận và bàn cãi, chúng ta phải mạnh hơn khi mới bắt đầu tranh
luận... [58, tr.4-5].
Để đại hội hoàn thành nhiệm vụ V.I.Lênin đã yêu cầu các đại biểu phải
trung thực, đoàn kết một cách thực sự. Người nói:
... Bất kể cuộc tranh luận đã diễn ra cho đến nay như thế nào,
bất kể chúng ta đã tranh cãi với nhau ra làm sao, nhưng trước mắt
chúng ta có bao nhiêu kẻ thù, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản ở

một nước nông nghiệp lại rất lớn lao, rất khó khăn, mà nếu chúng ta
chỉ đoàn kết nhất trí một cách hình thức, sự có mặt của các đồng chí
tại đại hội chứng minh điều đó, thì chưa đủ mà phải thực sự cộng tác
làm sao cho đoàn kết hơn, gắn bó hơn trước kia, để loại trừ hẳn
những dấu vết dù nhỏ nhất của đầu óc bè phái, dù cho trước đây óc
bè phái này đã biểu hiện ở đâu hoặc dưới hình thức nào cũng vậy,
nhất quyết không để một dấu vết nào của đầu óc bè phái tồn tại. Chỉ
trong điều kiện đó, chúng ta mới hoàn thành được nhiệm vụ vĩ đại
đang đặt ra trước mắt chúng ta. Và tôi tin chắc rằng tôi biểu thị
nguyện vọng và quyết tâm vững chắc của toàn thể các đồng chí khi
nói rằng bất luận thế nào thì qua đại hội này chúng ta cũng phải làm
cho sự đoàn kết nhất trí trong Đảng vững mạnh hơn, chặt chẽ hơn,
chân thành hơn [58, tr.6].
Nhận thức sâu sắc vai trò của đại hội, V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh cho
việc tổ chức đại hội thường xuyên hàng năm, vừa để thực hiện dân chủ, tự do
tư tưởng, phát huy sáng kiến, giải quyết các bất đồng tư tưởng, tìm ra giải
pháp cho công việc của đảng, vừa kiện toàn bộ máy lãnh đạo của đảng, tăng
cường tập trung, kỷ luật trong đảng, làm cho thiểu số phục tùng đa số.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào xây dựng Đảng Cộng sản
ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề đại hội


16
đảng. Nói về vai trò của đại hội đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ "Đại hội
Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta.
Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và
hành động đó nhất trí, càng nhất trí hơn nữa" [64, tr.119]. Người lưu ý đảng
viên và các tổ chức đảng rằng: "Đại hội đảng là một dịp học tập tiến bộ", là
dịp để "Nâng cao tư tưởng, ý thức tổ chức và kỷ luật, đồng thời đẩy mạnh
công tác tiến bộ hơn nữa" [64, tr.166].

Qua 78 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến
hành mười kỳ Đại hội đại biểu. Điều lệ của Đảng được thông qua ở các kỳ đại
hội đều quy định Đại hội đại biểu toàn quốc gia của Đảng là cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Đảng. Đại hội là nơi quyết định cương lĩnh chính trị, nhiệm vụ,
chủ trương của Đảng; quyết định sửa đổi điều lệ; nơi bầu ra Ban chấp hành
Trung ương - cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội. Mỗi kỳ
đại hội là một dịp để kiện toàn cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Mỗi Đại
hội đều có những nhiệm vụ hết sức quan trọng, gắn liền với sự phát triển của
cách mạng, của đất nước. Đảng ta khẳng định:
Đại hội đại biểu toàn quốc và đại hội đại biểu các cấp là sinh hoạt tập thể
lớn nhất trong Đảng. Nó phát huy tính sáng tạo của đông đảo đảng viên tham
gia thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng, nâng cao tinh
thần trách nhiệm của đảng viên đối với vận mệnh và công tác của Đảng; lại có
tác dụng tăng cường tập trung thống nhất trong Đảng [52, tr.688].
Từ nhận thức vai trò của đại hội đảng như vậy, Đảng ta chủ trương trong
điều kiện cho phép "cần phải triệu tập đều đặn Đại hội đại biểu toàn quốc và
các cấp, và phải phát huy hơn nữa vai trò của đại hội trong sinh hoạt nội bộ
của Đảng" [52, tr.689].
1.1.2.2. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, ý nghĩa Đại hội đại biểu nhiệm kỳ các
đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
Các Đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá là một mắt khâu quan trọng
trong hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện ven


17
biển tỉnh Thanh Hoá là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ huyện, có vị trí, vai trò
của đại hội Đảng nói chung. Tuy nhiên do đặc điểm của các đảng bộ huyện
ven biển tỉnh Thanh Hoá nên vị trí, vai trò của đại hội đảng bộ huyện có
những điểm nổi bật sau:
- Là cơ quan lãnh đạo quyết định phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương và

các vấn đề quan trọng nhất của đảng bộ huyện. Đại hội bao giờ cũng có nhiệm
vụ đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ đã qua, quyết định
phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới, bầu BCH khoá mới và bầu đoàn đại
biểu đi dự đại hội Đảng bộ tỉnh. Đại hội có vai trò quyết định trong việc xác định
phương hướng, nhiệm vụ, các giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
thế trận quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị của các huyện này.
Đồng thời, nghị quyết của đại hội sẽ là định hướng cho hoạt động của các đảng
bộ xã ,thị trấn với những đặc điểm riêng biệt của từng vùng ven.
- Đại hội đảng bộ huyện là một sự kiện chính trị, một sinh hoạt chính
chính trị tập thể lớn nhất của đảng bộ huyện trong suốt nhiệm kỳ 5 năm. Đại
hội tác động rất lớn đến tâm tư, tình cảm, thái độ của các tầng lớp nhân dân.
Đại hội đặt ra yêu cầu, trách nhiệm cao của đội ngũ đảng viên và lực lượng
cán bộ chủ chốt của đảng đối với sự phát triển của Đảng. Đối với việc hoàn
thành nhiệm vụ của đảng bộ trước tình hình mới. Đây còn là dịp để tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, cũng là nâng cao vai trò, uy tín
của đảng bộ huyện.
- Do có vai trò đặc biệt quan trọng, mỗi một đại hội nhiệm kỳ các đảng
bộ là diễn đàn chính trị tư tưởng rộng lớn, là dịp để cán bộ, đảng viên, nhân
dân trong huyện biểu hiện thái độ, chính kiến của mình đối với các vấn đề lớn
của huyện và của đất nước, như là các chủ trương, mục tiêu, giải pháp trong
phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng Đảng; cơ
chế chính sách đảm bảo cho sự phát triển các lĩnh vực. Thái độ ủng hộ hoặc
không ủng hộ với cán bộ của đảng và cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là


18
những người đứng đầu. Đây cũng là dịp để cán bộ, đảng viên, nhân dân nêu
lên những kiến nghị, gửi đơn thư tố cáo, khiếu nại yêu cầu cấp uỷ, chính
quyền phải giải quyết, đồng thời cũng là dịp để những người bất mãn, bất
đồng chính kiến có những hoạt động nhằm gây mất ổn định tình hình xã hội,

làm giảm uy tín của đảng và cán bộ của đảng.
- Đại hội nhiệm kỳ của đảng bộ huyện có quy trình chuẩn bị chặt chẽ, để
thực hiện được các nhiệm vụ và diễn ra theo một quy chế nhất định, nên
những nguyên tắc, chế độ hành động của Đảng, nhất là nguyên tắc chế độ tập
trung, dân chủ phải được thể hiện. Do tính chất và mục đích của đảng ta – do
yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ của đại hội nên tất cả các vấn đề đều phải được
lấy ý kiến rộng rãi trong cán bộ, đảng viên, nhân dân. Các ý kiến nguyện vộng
của đảng viên, nhân dân phải được tôn trọng và tiếp thu. Tuy nhiên, những
đóng góp đó phải được tiếp thu có chọn lọc; đại hội phải ra nghị quyết về các
nhiệm vụ và lĩnh vực trọng tâm, vì vậy đại hội phải đảm bảo nguyên tắc tập
trung một cách đầy đủ.
- Trước khi tiến hành đại hội nhiệm kỳ của đảng bộ huyện, theo quy định
của Ban tổ chức Trung ương Đảng đều phải tiến hành đại hội các tổ chức cơ
sở đảng. Đại hội ở cấp cơ sở đảng cũng có nhiệm vụ tương tự như đại hội
đảng bộ huyện. Trong đó công tác nhân sự và kiện toàn bộ máy cán bộ của
Đảng là một nhiệm vụ trọng tâm. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chuẩn uỷ viên
BCH, Uỷ viên BTV, tiêu chuẩn Bí thư, Phó bí thư, xây dựng tiêu chí cho từng
loại cán bộ là hết sức quan trọng, đi đôi với việc lựa chọn sắp xếp cán bộ là
việc củng cố bộ máy đảng về mặt cơ cấu tổ chức và chất lượng bộ máy. Chính
vì vậy mà đại hội nhiệm kỳ của đảng bộ huyện có vai trò quyết định đến việc
nâng cao, củng cố tổ chức, củng cố bộ máy góp phần trực tiếp nâng cao sức
chiến đấu của đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá.
- Đại hội nhiệm kỳ đảng bộ huyện có nhiệm vụ thảo luận, đóng góp ý
kiến xây dựng các văn kiện đại hội đảng bộ tỉnh và đại hội đảng toàn


19
quốc, vì vậy việc tổ chức cho các đại hội cơ sở đảng và đại hội nhiệm kỳ
đảng bộ huyện thảo luận đóng góp những ý kiến cho văn kiện của Đảng bộ
cấp trên không những chỉ là phát huy dân chủ rộng rãi trong sinh hoạt

đảng, tập hợp được ý nguyện, trí tuệ của đảng viên và nhân dân đối với
thành công của Đại hội Đảng cấp trên mà còn là cách thức để cán bộ, đảng
viên và nhân dân nắm được những vấn đề bức thiết, quan trọng của Đảng,
của đất nước, là dịp để đảng viên và cơ sở đảng thể hiện trách nhiệm của
mình đối với Đảng.
Qua sự phân tích lý giải trên khẳng định: đại hội đảng bộ huyện nói
chung, đại hội các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá nói riêng có vai
trò, vị trí cực kỳ quan trọng, không những đối với các đảng bộ huyện ven biển,
mà còn đối với đảng bộ tỉnh Thanh Hoá và toàn Đảng; đối với sự nghiệp cách
mạng, công cuộc đổi mới của các huyện, của tỉnh và của đất nước. Đại hội các
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá thành công với chất lượng tốt, sẽ thiết thực
góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đảng bộ huyện ven biển, của
đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, và sức mạnh của toàn Đảng.
1.2. QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
NHIỆM KỲ CÁC ĐẢNG BỘ HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ

1.2.1. Quan niệm về chất lượng đại hội đại biểu nhiệm kỳ các huyện
ven biển tỉnh Thanh Hoá
Chất lượng là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống, nhưng tuỳ
theo góc độ xem xét mà người ta có định nghĩa khác nhau. Theo Triết học Duy
vật biện chứng, chất lượng được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với số
lượng, sự tác động biện chứng này là một yếu tố quy định sự tồn tại, vận động,
phát triển của sự vật.
Ở lĩnh vực kinh tế, chất lượng được quan niệm là tập hợp những tính chất
của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu định trước cho nó,
trong điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.


20
Theo quan niệm thông thường, Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: chất lượng

là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc.
Dù mỗi lĩnh vực có sự quan tâm và phương pháp đánh gia khác nhau về
chất lượng, nhưng có điểm chung là: Chất lượng của đối tượng đánh giá là
tổng hợp các yếu tố, các thuộc tính liên quan đến bản chất đối tượng, tạo nên
tác dụng, giá trị, lợi ích của đối tượng đó.
Nói đến chất lượng là phải nói tới 2 yếu tố: thứ nhất: đó là tổng hợp
những yếu tố, tính chất (thuộc tính) tạo nên tác dụng, ích lợi một sự vật, hiện
tượng; thứ hai: những yếu tố, phẩm chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu
đặt ra. Nói đến chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt yêu cầu,
tiêu chí nào đó.
Đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá là cơ quan
lãnh đạo của đảng bộ huyện, có nhiệm vụ thảo luận, quyết định những vấn đề
quan trọng nhất về nhiệm vụ và tổ chức của đảng bộ huyện, định ra phương
hướng, nhiệm vụ cho toàn đảng bộ và do đó, có ảnh hưởng quyết định đến sự
phát triển của huyện trong suốt một nhiệm kỳ 5 năm. Ngoài quy định chung
của Điều lệ Đảng về vai trò, nhiệm vụ của đại hội, mỗi kỳ đại hội các đảng bộ
huyệne ven biển tỉnh Thanh Hoá, Trung ương Đảng và Tỉnh uỷ Thanh Hoá
đều có những hướng dẫn, yêu cầu cụ thể cho đại hội. Nếu thực hiện tốt (đúng
đắn, đầy đủ) các yêu cầu, nhiệm vụ đó, phát huy thật sự vai trò, tác dụng của
đại hội thì đại hội được coi là thành công, là có chất lượng tốt.
Vậy chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh
Hoá cần được hiểu như thế nào? Từ thực tế tổ chức các đại hội cho thấy, chất
lượng đại hội đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá là tổng hợp những yếu
tố thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu đối với đại hội, làm cho đại hội phát huy
được vai trò, chức năng, nhiÖm vô của mình.
Những yếu tố đó thường là:
- Chương trình, nội dung đại hội:


21

- Chất lượng chuẩn bị văn kiện đại hội: văn kiện đại hội được chuẩn bị
tốt, tiếp thu nghiêm túc những đóng góp của cơ sở, của đảng viên, có nội dung
mới, cụ thể, phù hợp tình hình, đặc điểm của đảng bộ huyện, đáp ứng mối
quan tâm, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong huyện. Hình
thức văn bản chuẩn mực.
- Diễn biến của đại hội: Đại hội diễn ra dân chủ, nghiêm túc, đúng các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, có tính lãnh đạo và tính chiến đấu cao.
- Chất lượng đại biểu và sự tham gia của đại biểu vào đại hội: Các đại
biểu có phẩm chất, năng lực xứng đáng, tích cực tham gia thảo luận về công
việc của đảng bộ trong đại hội. Các nội dung trong chương trình đại hội thực
hiện theo dự kiến.
- Chất lượng các văn kiện được đại hội thảo luận và thông qua: Nghị
quyết đại hội đánh giá đúng tình hình, đề ra được phương hướng, chủ trương,
nhiệm vụ cụ thể, sáng tạo, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ kiểm tra.
- Chất lượng BCH mới, đoàn đại biểu đi dự đại hội cấp trên: đại hội bầu
ra BCH mới và đại biểu đi dự đại hội cấp tỉnh thật sự dân chủ, đúng người,
phù hợp với yêu cầu cơ cấu, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức của đảng bộ.
- Tác động của đại hội đến tư tưởng, công tác của cán bộ, đảng viên, quần
chúng đến tính hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng nội bộ của đảng
bộ huyện...
Các yếu tố trên, khi đối chiếu với nhiệm vụ, yêu cầu của đại hội sẽ cho
biết chất lượng của đại hội. Ví dụ: nếu quá trình chuẩn bị cho đại hội lôi cuốn
được sự quan tâm và tham gia tích cực của đảng viên, các tổ chức đảng tham
gia thảo luận xây dựng văn kiện đại hội theo đúng yêu cầu đặt ra thì đó là một
yếu tố và một dấu hiệu đại hội có chất lượng tốt. Hoặc đại hội thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc các nội dung, nhiệm vụ đại hội, bầu ra được Ban chấp hành có
cơ cấu, chất lượng tốt thì đó cũng là chất lượng của đại hội.
* Chất lượng đại hội các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá có ý
nghĩa quan trọng. Theo quy định của Điều lệ Đảng, đại hội đại biểu đảng bộ



22
huyện phải căn cứ vào Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nghị
quyết của đại hội đảng bộ tỉnh và tình hình thực tế của địa phương, thảo luận,
ra nghị quyết đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết
định phương hướng mục tiêu, giải pháp lớn để thực hiện được các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị; bầu ban chấp hành
(BCH) để lãnh đạo toàn bộ hoạt động của đảng bộ giữa hai kỳ đại hội, bầu đại
biểu đi dự đại họi cấp trên. Chính vì vậy, chất lượng của đại hội đại biểu
huyện sẽ ảnh hưởng quyết định đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh, xây dựng Đảng của huyện suốt cả thời kỳ giữa hai kỳ đại hội;
đồng thời, ảnh hưởng tới cả chất lượng của cơ quan lãnh đạo cấp trên.
* Những yếu tố tác động đến chất lượng đại hội các đảng bộ huyện ven
biển tỉnh Thanh Hoá
Thực tế cho thấy, chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển
tỉnh Thanh Hoá do nhiều yếu tố tác động, quy định, như:
- Chất lượng của Ban chấp hành Huyện uỷ, trước hết là phẩm chất, trình độ,
năng lực, sự đoàn kết, lề lối làm việc của Ban thường vụ, nhất là phẩm chất, năng
lực, phong cách của người Bí thư Huyện uỷ đương nhiệm.
- Chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Chất lượng của các ban tham mưu của Huyện uỷ.
- Sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện và tâm trạng của cán bộ, đảng
viên, nhân dân trong huyện.
- Sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ.
- Công tác chuẩn bị đại hội, nhất là về văn kiện, nhân sự.
- Sự tham gia quá trình tổ chức đại hội của cán bộ, đảng viên, các tổ chức
đảng trong đảng bộ.
- Sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức trong hệ thống chính
trị trong quá trình tổ chức đại hội và thực hiện nghị quyết của đại hội.
- Phong cách điều hành đại hội.



23
- Chất lượng đại biểu dự đại hội.
- Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng trong đại hội.
- Kết quả thực hiện các nội dung trong chương trình đại hội: Chất lượng
các ý kiến thảo luận, chất lượng nghị quyết, chất lượng BCH, Ban thường vụ
mới, đại biểu đi dự đại hội cấp trên...
- Công tác tuyên truyền, cổ động cho đại hội.
- Tình hình, đặc điểm, nhiệm vụ, truyền thống của đảng bộ.
- Điều kiện vật chất và môi trường tâm lý xã hội liên quan....
Những yếu tố trên có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến chất lượng
của đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, quy định
mức độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho đại hội. Muốn nâng cao chất
lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá phải quan
tâm và có biện pháp tác động đến các yếu tố đó mới thành công.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đại hội đại biểu nhiệm kỳ đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự
vật. Tiêu chí đánh giá chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển
tỉnh Thanh Hoá là dấu hiệu, tính chất mà dựa vào đó có thể nhận biết, đánh giá
được chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt yêu cầu.
Từ quan niệm về chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ huyện ven biển
tỉnh Thanh Hoá cho thấy, để đánh giá chất lượng đại hội đại biểu các đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá cho thấy, để đánh giá chất lượng đại hội đại
biểu các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, cần căn cứ vào các tiêu chí
chủ yếu sau:
- Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh uỷ về tổ chức đại hội. Sự
chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Tỉnh uỷ được nêu trong các Chỉ thị, Hướng dẫn

là cơ sở pháp lý, là định hướng tư tưởng, chính trị; mà các Đảng bộ huyện phải
quán triệt sâu sắc, vận dụng trong quá trình chuẩn bị tổ chức đại hội.


24
- Chuẩn bị và chất lượng báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của BCH
đương nhiệm. Chất lượng các báo cáo này là sự thể hiện trình độ lý luận, khả
năng thực tiễn, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, trách nhiệm trong công tác tổ chức
chuẩn bị đại hội và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của đảng bộ,
của Ban Chấp hành.
- Chuẩn bị vµ bÇu nhân sự bầu ban chấp hành, ban thường vụ, uỷ ban
kiểm tra và đoàn đại biểu dự đại hội cấp trên. Quy trình chuẩn bị nhân sự và
chất lượng nhân sự Ban chấp hành, Ban Thường vụ, uỷ viên Uỷ ban kiểm tra
sẽ quyết định khả năng tổ chức, mức độ thực hiện những nghị quyết đại hội
thông qua. Và thành lập đại biểu, đoàn đại biểu sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả
đại hội.
- Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất và phục vụ đại hội, tổ chức bảo vệ và
giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại. Cơ sở vật chất, chất lượng cơ sở vật chất
là điều kiện cần và đủ đảm bảo cho việc tổ chức đại hội vào trực tiếp ảnh
hưởng đến chất lượng đại hội. Tổ chức tốt công tác bảo vệ và giải quyết đơn
thư tố cáo đảm bảo cho đại hội được tiến hành theo kế hoạch, đảm bảo an toàn
cho đại hội và các đại biểu.
- Chất lượng điều hành đại hội. Năng lực tiến hành của đoàn chủ tịch đảm
bảo cho đại hội thực hiện được chương trình nghị sự đại hội và chất lượng các
nhiệm vụ nội dung của đại hội.
- Công tác tuyên truyền và bảo quản văn kiện đại hội. Làm tốt công tác
tuyên truyền sẽ tạo ra môi trường chính trị, tập trung được sự quan tâm và cả
đóng góp của cán bộ, đảng viên, nhân dân góp phần cho thành công của đại
hội, đồng thời sẽ nhanh chóng đưa được các nghị quyết của đại hội vào cuộc
sống. Công tác bảo quản văn kiện của đại hội không những lưu giữ được tư

liệu quý báu cho quá trình xây dựng phát triển của đảng bộ mà còn là những
cứ liệu cho việc nghiên cứu khoa học, cho sự lãnh đạo chỉ đạo của đảng bộ.


25
Chương 2
CHẤT LƯỢNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHIỆM KỲ CỦA CÁC ĐẢNG BỘ
HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
2.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHIỆM KỲ CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ (1996 – 2005)

2.1.1. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh uỷ về tổ chức
đại hội
Từ năm 1996 đến năm 2006 Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành thành
công 3 đại hội đại biểu toàn quốc (Đại hội VIII tháng 7 - 1996; Đại hội IX
tháng 4 năm 2001; Đại hội X tháng 4 - 2006). Để tiến hành thành công các đại
hội, Ban chấp hành (BCH) Trung ương đã ra các chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo
đại hội đảng các cấp.
Ngày 9-3-1995, BCH Trung ương ra Chỉ thị số 51-CT/TW "Về Đại hội
Đảng bộ các cấp", Chỉ thị nêu rõ: "BCH Trung ương Đảng đã quyết định
triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng vào quý II năm
1996. Đại hội đảng bộ các cấp hoàn thành trong quý I năm 1996". Chỉ thị
nêu rõ: "Trước tình hình mới và những yêu cầu mới, Đại hội đảng bộ các
cấp lần này cần được sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ, bảo đảm phát huy
dân chủ tập trung trí tuệ, thực hiện đúng Điều lệ Đảng". Chỉ thị nêu rõ 3
yêu cầu:
1- Đánh giá đúng tình hình, thành tựu và khuyết điểm, rút ra những kinh
nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và đảng bộ trong nhiệm kỳ qua, xác định
rõ mục tiêu và nhiệm vụ của đảng bộ trong nhiệm kỳ tới; đóng góp ý kiến vào

các dự thảo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và đại hội đảng bộ
cấp trên.
2- Bầu BCH Đảng bộ, bầu đoàn đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.


×