Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Luận văn tỉnh uỷ hà tĩnh lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.64 KB, 123 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
diễn ra ở Hà Nội và thành công tốt đẹp. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
đúng đắn, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội (CNXH) ở nước ta. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
bổ sung, phát triển, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới và đang lãnh đạo
đất nước thực hiện mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (CNH, HĐH) nhằm xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH, trong đó CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng. Trong những năm
đổi mới nông nghiệp, công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ, kết cấu hạ tầng,
môi trường sinh thái và đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội đã có chuyển
biến tích cực, đạt được thành tựu to lớn. Nghị quyết Trung ương năm khoá IX
khẳng định: những thành tựu to lớn đó "góp phần quan trọng vào ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho CNH, HĐH đất nước”[22; tr.91].
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta đã được hình thành trên những
nét cơ bản.
Tuy vậy, đất nước vẫn ở trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn
lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, xây dựng hệ thống chính trị (HTCT) còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa
giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH ở nước
ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công
bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn
định chính trị và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động tích cực hội nhập



2
kinh tế quốc tế. Trong khu vực kinh tế nông nghiệp và đời sống người dân ở
khu vực nông thôn còn nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết: khoảng cách
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn; chênh lệch thu nhập giữa những
người làm việc ở các lĩnh vực kinh tế; bức xúc giải quyết việc làm… Những
vấn đề đó nếu không được giải quyết tốt sẽ gây phức tạp về chính trị và ảnh
hưởng không nhỏ đến bản chất chế độ XHCN. Để từng bước giải quyết những
vấn đề đó, đưa sự nghiệp CNH, HĐH tiến lên cần phát triển kinh tế nông
nghiệp, tiếp tục đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự lãnh đạo
của Đảng và các cấp uỷ địa phương có vai trò rất quan trọng đảm bảo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đó.
Qua hơn 20 năm đổi mới và nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung
ương năm (Khoá IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, trong đó kinh tế
nông nghiệp đạt được thành tựu đáng khích lệ, góp phần quyết định đưa nước
ta ra khỏi khủng hoảng toàn diện trong những năm trước đây, đảm bảo ổn
định chính trị, giữ vững thành quả cách mạng và tiếp tục đổi mới thắng lợi.
Đảng đã trưởng thành một bước, trình độ, năng lực lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp trong điều kiện mới được nâng lên. Cùng với bước tiến bộ quan trọng
của Đảng, các cấp uỷ địa phương cũng có bước tiến bộ đáng khích lệ trong
lãnh đạo kinh tế nông nghiệp, góp phần to lớn vào thành tựu chung của đất
nước. Không có sự vươn lên, tiến bộ trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của
các cấp uỷ địa phương thì không thể có thành tựu về kinh tế nông nghiệp của
nước ta trong thời gian qua.
Hà Tĩnh là một tỉnh Bắc Trung Bộ có nhiều tiềm năng và lợi thế về tự
nhiên, đất đai và du lịch. Tỉnh có 137 km bờ biển, 4 cửa khẩu, 145 km đường
biên giới Việt Lào, có đường quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, đường Hồ Chí
Minh chạy qua, đường quốc lộ 8A gắn với cửa khẩu quốc tế Cầu Treo hình
thành hành lang kinh tế Đông Tây; có mỏ sắt Thạch Khê trữ lượng 540 triệu
tấn, cảng nước sâu Vũng Áng. Đất đai của tỉnh được hình thành 3 vùng rõ rệt,



3
miền núi, đồng bằng và ven biển; có các loại cây, con đặc sản quý hiếm như
bưởi Phúc Trạch, cam bù Hương Sơn, hươu sao; rừng có nhiều động, thực vật
quý hiếm như sao la, gà lôi, bò tót, cây trầm gió…Đồng thời, đây là vùng đất
“địa linh nhân kiệt”, có nhiều di tích lịch sử văn hoá như: quê hương của cố
Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập; quê hương của đại thi hào Nguyễn Du,
nhà thơ, nhà kinh tế Nguyễn Công Trứ; phong trào của Xô viết Nghệ Tĩnh…
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi tách ra từ tỉnh Nghệ Tĩnh
(năm 1991) đến nay, Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã tập trung lãnh đạo kinh tế, có nhiều
chủ trương đổi mới đúng đắn, với tư duy kinh tế năng động, nhằm phát huy
tiềm năng, lợi thế và truyền thống vẻ vang của quê hương. Đồng thời thu hút
mạnh các nguồn đầu tư từ trong và ngoài nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của địa phương theo hướng CNH, HĐH, đặc biệt là CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống của người
dân từng bước được ổn định. Trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp, Tỉnh uỷ đã
ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tập trung lãnh đạo kinh tế nông nghiệp;
do vậy đã động viên được mọi tầng lớp nhân dân tham gia thi đua lao động
sản xuất, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và xây dựng nông thôn
mới. Đây là nhân tố quyết định đạt được thành tựu kinh tế nói chung và kinh
tế nông nghiệp nói riêng.
Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp vẫn còn bộc lộ
những hạn chế: tư duy kinh tế còn sơ cứng; còn biểu hiện chủ quan, duy ý chí;
nhiều vấn đề bức xúc trong kinh tế nông nghiệp và nông thôn chưa được quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo; những vấn đề trọng tâm trong lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp chưa được quan tâm chỉ đạo thoả đáng. Do vậy, chuyển dịch kinh tế
nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng còn chậm, kết quả chưa nổi bật,
chưa khai thác và phát huy mạnh mẽ tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Tỷ lệ cơ
cấu GDP nông nghiệp đến nay còn cao (38,65%), tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm

trên 31,86% (cả nước 14%), thu nhập bình quân đầu người 6,7 triệu đồng (cả
nước trên 10 triệu đồng); đời sống của một bộ phận không nhỏ dân cư ở vùng


4
sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng còn gặp nhiều khó khăn; khoảng
cách giàu nghèo ngày càng xa ra; lợi nhuận thu được từ khu vực kinh tế nông
nghiệp thấp; khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông nghiệp chưa cao, thị
trường tiêu thụ còn hạn hẹp, việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn. Những thành tựu và yếu kém trong kinh tế nông nghiệp của tỉnh
đều bắt nguồn từ những ưu, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp
của Tỉnh ủy. Vì vậy, để đưa kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh mẽ,
cần tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với kinh tế nông nghiệp.
Việc nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng và tìm ra nguyên nhân của
những mặt mạnh, hạn chế trong lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với kinh tế nông
nghiệp, để từ đó xác định được mục tiêu, phương hướng và giải pháp đồng bộ
nhằm tăng cường lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Tỉnh uỷ trong thời kỳ mới
là vấn đề lớn và cấp bách.
Là một cán bộ chủ chốt trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp của tỉnh, có
thời gian khá dài hoạt động trong lĩnh này và đã có được những kinh nghiệm
nhất định, được học tập một cách cơ bản, hệ thống lý luận về xây dựng Đảng,
trong đó có lý luận về lãnh đạo kinh tế, tôi luôn trăn trở và xác định trách
nhiệm của mình phải góp phần giải quyết vấn đề cấp bách đó. Vì thế, tôi chọn
và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: “Tỉnh uỷ Hà Tĩnh lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về Đảng lãnh đạo kinh tế nói chung và lãnh đạo kinh tế
nông nghiệp nói riêng trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, giai đoạn
đầu là phải tập trung lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm
vụ cấp thiết. Chính vì vậy, đã có nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý và các nhà

khoa học nghiên cứu về phát triển kinh tế ở khu vực này.
Từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (Khoá IV)
năm 1979, đặc biệt sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(tháng 12 năm 1986) đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị liên quan đến vấn đề phát


5
triển kinh tế nông nghiệp. Từ năm 1990, Ban Nông nghiệp Trung ương Đảng
tổ chức triển khai nghiên cứu, tổng kết 30 năm hợp tác hoá nông nghiệp và
gần đây nhất Hội nghị lần thứ bảy (khoá X) Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã ban hành Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nhiều nhà
khoa học đã quan tâm nghiên cứu kinh tế nông nghiệp ở nước ta. Các kết quả
nghiên cứu đã được nghiệm thu và được công bố trên các sách, báo, tạp chí:
* Đề tài khoa học, sách:
- “Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống
xã hội nước ta”; đề tài khoa học cấp Nhà nước, giai đoạn 1991-1995, do
PGS.Lê Văn Lý làm chủ nhiệm, đã nghiệm thu và in thành sách, do Nxb
Chính trị Quốc gia phát hành năm 1999; trong đó có một chương về Đảng
lãnh đạo kinh tế.
- “Sự lãnh đạo kinh tế của Tỉnh uỷ trong điều kiện hiện nay” do PGS.
TS. Lưu Văn Sùng làm chủ nhiệm đã nghiệm thu năm 2000.
- “Tác động của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH”, đề tài khoa học cấp Bộ,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000, do PGS.TS. Nguyễn
Cúc làm chủ nhiệm đã nghiệm thu.
- “Cơ sở khoa học của việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế ở Thanh Hoá thời kỳ 2001-2010” của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
năm 2001, do PGS.TS. Mai Ngọc Cường làm chủ nhiệm đã nghiệm thu.
- Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh, thành phố, Nxb Nông nghiệp, năm 2000.
* Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ:

- “Phương hướng và giải pháp về quản lý nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp tỉnh Tuyên Quang theo hướng sản xuất hàng hoá”, luận
văn thạc sĩ năm 2000 của Nguyễn Sáng Vang, đã bảo vệ thành công ở Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp qua thực tế ở Quảng Bình”, luận văn thạc sĩ năm 2000 của Phạm Phong
Duệ, đã bảo vệ thành công ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


6
- “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của
Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ của Xỉnh
Khăm Phôm Ma Xong (Lào), đã bảo vệ thành công ở Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Tỉnh uỷ Thanh Hoá lãnh đạo kinh tế”, luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị
của Mai Văn Ninh năm 2006, đã bảo vệ thành công ở Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
* Ngoài ra còn có một số bài báo được đăng trên các tạp chí.
Tuỳ theo mục đích, yêu cầu và cách tiếp cận các công trình khoa học nêu
trên đã đạt kết quả lớn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ hơn những khái niệm, quan niệm và những vấn đề lý
luận chủ yếu về Đảng lãnh đạo kinh tế nông nghiệp, Tỉnh uỷ Hà Tĩnh lãnh
đạo kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay; khảo sát nghiên cứu thực
trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh và thực trạng sự lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp của Tỉnh uỷ trong thời gian qua, luận văn đề xuất phương hướng và
các giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với kinh tế
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2015.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ hơn các khái niệm, quan niệm và những vấn đề lý luận liên
quan trực tiếp đến đề tài luận văn.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh
và thực trạng lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Tỉnh uỷ từ năm 2000 đến nay,
chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, tổng kết các kinh nghiệm.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường sự
lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Tỉnh uỷ đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Hà Tĩnh đối với kinh tế nông nghiệp.


7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tiễn về kinh tế nông nghiệp và
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 (Đại hội XV
Đảng bộ tỉnh) đến nay.
- Mục tiêu, phương hướng và các giải pháp đề xuất trong luận văn có
giá trị đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng về phát triển kinh tế, Đảng lãnh đạo kinh tế, về CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan
đến đề tài.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Thực trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh và thực trạng sự lãnh
đạo của Tỉnh uỷ đối với kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến nay, có tham

khảo thực trạng này trong những năm đổi mới trước năm 2000.
5.3. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
- Luận văn sử dụng các phương pháp: khảo sát thực tiễn; phân tích,
tổng hợp; quy nạp, diễn dịch; lịch sử, logic; tổng kết thực tiễn; trao đổi, tọa
đàm với các cấp uỷ, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh về vấn đề này và xin ý
kiến các chuyên gia, cán bộ lão thành cách mạng.
6. Đóng góp của luận văn
- Những kinh nghiệm về lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Tỉnh uỷ từ
năm 2000 đến nay.
- Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
kinh tế nông nghiệp đến năm 2015.


8
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Tỉnh uỷ cũng như các
cấp uỷ huyện trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ giảng dạy và học tập tại Trường Chính trị Trần Phú tỉnh Hà
Tĩnh và các Trung tâm giáo dục chính trị huyện, thành phố, thị xã của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ TỈNH UỶ HÀ TĨNH LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH HÀ TĨNH, KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA
TỈNH VÀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, ĐẶC ĐIỂM CỦA TỈNH UỶ

1.1.1. Khái quát về tỉnh Hà Tĩnh và kinh tế nông nghiệp của tỉnh
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là tỉnh trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp Nghệ
An; phía Nam giáp Quảng Bình; phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp
nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào. Tỉnh có đường quốc lộ 1A, đường Hồ
Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 15 chạy qua và có đường quốc lộ
8A chạy sang Lào, có cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo, cảng biển nước sâu Vũng
Áng; thuận tiện cho giao lưu kinh tế trong nước cũng như với nước ngoài.
Tỉnh có tổng diện tích tự nhiên 602.649,96 ha, trong đó đất dành cho
nông nghiệp 462.701 ha, chiếm 76,78% diện tích tự nhiên của tỉnh, với dân số
1.289.058 người, gồm các dân tộc: Kinh chiếm 99,88%, năm dân tộc thiểu số
(Mã Liềng, Cọi, Lào, Mường, Mán) chiếm 0,12%. Toàn tỉnh có 10 huyện, 01
thành phố và 01 thị xã, 238 xã, 12 phường, 12 thị trấn. Tôn giáo gồm: Thiên
chúa giáo có số lượng tín đồ trên 13 vạn (chiếm trên 10% dân số); đạo Phật có
trên 0,5 vạn (chiếm trên 0,39% dân số); ngoài ra còn có trên 100 người theo
đạo Tin lành, tu tại gia không có tổ chức.
Nhìn chung khí hậu của tỉnh khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt
đới gió mùa và chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8
(trong đó từ tháng 6 đến tháng 8 gió Lào thổi gay gắt, gây nắng nóng, có
những ngày nhiệt độ lên trên 40 0C); mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau
(trong đó các cơn bão lũ lớn tập trung vào tháng 9 đến tháng 11, lượng mưa
chiếm trên 70% của cả năm). Với những đặc điểm khí hậu như vậy đã gây
không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.


10

Địa hình của tỉnh được chia thành 3 vùng như sau:
Vùng ven biển: cơ bản nằm giữa đường quốc lộ 1A và bờ biển, gồm
phía Đông các huyện Nghi Xuân, Thạch Hà, Can Lộc, Lộc Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh, thành phố Hà Tĩnh, với tổng diện tích khoảng 80 ngàn ha (chiếm
13,27% diện tích tự nhiên), phần lớn đất đai chua và bị nhiễm mặn, PH từ 4,55,7. Vùng này rất thích hợp cho trồng cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi
bò, lợn, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản ở các địa hình trũng, lạch, ven biển và
đồng thời có tiềm năng về đánh bắt và chế biển thuỷ sản.
Vùng đồng bằng: diện tích khoảng 110 ngàn ha (chiếm 18,26% diện tích
tự nhiên), bao gồm phần lớn diện tích của sáu huyện, thành phố: thành phố Hà
Tĩnh, huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà và Cẩm Xuyên. Đây là
vùng sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, ngoài ra còn phát triển các cây công
nghiệp ngắn ngày, rau đậu các loại; chăn nuôi bò, lợn và các loại gia cầm.
Vùng miền núi: diện tích khoảng 412 ngàn ha (chiếm 68,47% diện tích
tự nhiên), gồm các huyện: Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang và phía Tây
các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Can Lộc, Đức Thọ. Đây là vùng chủ yếu
phát triển kinh tế lâm nghiệp, trồng rừng nguyên liệu gắn với chế biến, cây
công nghiệp dài ngày (cao su), cây ăn quả (bưởi Phúc Trạch, cam bù Hương
Sơn, cam Xã Đoài...), phát triển chăn nuôi đại gia súc và phát triển kinh tế
trang trại tổng hợp. Hà Tĩnh có nguồn nước phong phú nhờ hệ thống sông,
suối, hồ, đập phân bố khá dày. Trên địa bàn tỉnh có 13 con sông lớn, trong đó
một số sông có lưu lượng nước lớn như: sông Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố,
sông La, sông Ngàn Mọ... mang lại nhiều ích lợi cho sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân trong tỉnh. Song do địa hình phức tạp và dốc, yêu cầu vốn đầu tư lớn
nên việc khai thác, sử dụng nguồn nước còn nhiều hạn chế.
Tỉnh có 289.272 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên 214.000 ha (chiếm
73,98%), rừng trồng 75.272 ha (chiếm 26,02%). Trữ lượng gỗ của tỉnh vào
loại trung bình cả nước. Thảm thực vật rừng rất đa dạng, có trên 86 họ và 500
loài cây gỗ, trong đó có nhiều loại gỗ quí như: lim xanh, sến, táu, đinh, gụ,



11
pơmu... Đặc biệt, Vườn quốc gia Vũ Quang và Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ
Gỗ có nhiều loài động, thực vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam và
thế giới. Đây là những khu rừng nguyên sinh quí hiếm không chỉ đối với Hà
Tĩnh mà với cả nước, rất có giá trị về nhiều mặt: sinh thái, khoa học và tham
quan du lịch...
Tỉnh có bờ biển dài 137 km, 4 cửa lạch chính (cửa Hội, cửa Sót, cửa
Nhượng và cửa Khẩu), có ngư trường đánh bắt rộng với nhiều loại hải sản
phong phú, trữ lượng lớn. Diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản trên
17.000 ha, riêng nuôi mặn lợ trên 7.000 ha, là một trong 11 tỉnh có tiềm
năng lớn nhất cả nước.
Tỉnh có mỏ sắt Thạch Khê (Thạch Hà) với trữ lượng khoảng 540 triệu
tấn, là mỏ lớn nhất cả nước và chiếm trữ lượng 60% của khu vực Đông Nam
Á. Hiện nay Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam đang tổ chức khai thác
thử và chuẩn bị thực hiện dự án với quy mô khai thác 5 triệu tấn/năm. Ngoài
ra tỉnh còn có các mỏ Titan, nước khoáng và các mỏ khác, trữ lượng khá lớn
nhưng chưa có điều kiện điều tra đầy đủ và khai thác.
Hà Tĩnh có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: khu di tích đại thi hào
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Lê Hữu Trác, Trần Phú, Hà Huy Tập, ngã ba
Đồng Lộc...Về văn hoá truyền thống, có nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc, giàu chất dân gian như: lễ hội chùa Hương Tích ở Can Lộc, lễ
hội Nhượng Bạn ở Cẩm Xuyên; nhiều làn điệu dân ca: ca trù Nghi Xuân, hò
Thạch Khê, ví dặm Sông La....
Cơ cấu kinh tế của tỉnh: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 38,65%, công
nghiệp - xây dựng chiếm 25,35%, dịch vụ chiếm 36%; nông, lâm, ngư nghiệp
vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai
đoạn từ 2000 - 2007 của tỉnh là 8,2%/năm. Thu nhập bình quân đầu người
hàng năm tăng từ 2,68 triệu đồng năm 2000 lên 6,7 triệu đồng năm 2007, tỷ lệ
hộ nghèo mỗi năm giảm 3 - 4%, đến nay còn 31,86%.



12
Hệ thống giao thông của tỉnh khá đa dạng, song chưa được đầu tư, nâng
cấp đáng kể; ngoài hệ thống đường quốc lộ 1A, 8A, đường Hồ Chí Minh và
đường sắt Bắc Nam, thì hệ thống đường giao thông nông thôn còn yếu kém,
nhất là đường liên xã, liên thôn. Đến nay 100% số xã có điện lưới quốc gia,
tuy nhiên một số thôn, xóm ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa có điện ổn định
phục vụ sản xuất và đời sống, vì hạ tầng yếu kém; 100% xã đã phủ sóng phát
thanh, truyền hình; 100% xã có lắp điện thoại, tăng 29% so với năm 2000,
đến nay đã có 8 máy/100 hộ dân, vượt 6 máy so với năm 2000; 98% số xã có
máy vi tính tại trụ sở.
Hà Tĩnh có quan hệ thương mại và các mối quan hệ khác với nhiều
nước (Thái Lan, Lào, Trung Quốc, Nhật Bản...), nhưng kim ngạch xuất khẩu
còn thấp, năm 2007 đạt 50 triệu USD, bình quân đạt 38,8USD/người dân (cả
nước là 209,5 USD/người dân).
Hệ thống các trạm, trại đã có những đóng góp không nhỏ trong việc
cung cấp các giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt cho sản xuất, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. Tuy
nhiên, số lượng còn thiếu và đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của các trạm,
trại mỏng, nên nhiều vùng nông thôn, nhất là các vùng sâu, vùng xa chưa
thường xuyên được tiếp cận với các tiến bộ kỹ thuật mới.
Trên địa bàn tỉnh có 21 cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản hoạt động và
hàng chục công ty, xí nghiệp tham gia sản xuất chế biến và kinh doanh hàng
nông, lâm, sản. Trên 170 cơ sở chế biến của tư nhân, phân bố ở hầu khắp các
địa phương gắn với vùng nguyên liệu và thu mua nông sản hàng hoá do nông
dân sản xuất ra.
Qua hơn 20 năm đổi mới Hà Tĩnh đã vươn lên mạnh mẽ, đạt được
những thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng và phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn được
đổi thay, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng lên một bước, số hộ đói

nghèo giảm dần, số hộ giàu tăng lên, kinh tế trang trại phát triển khá mạnh;


13
trong tỉnh đã hình thành các khu, cụm công nghiệp đang từng bước phát huy
tác dụng; hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã, thị trấn được xây dựng củng cố
hoạt động ngày càng có hiệu quả, quốc phòng - an ninh được giữ vững.
1.1.1.2. Kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh - vai trò và quá trình
phát triển
Là một tỉnh nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp của tỉnh có vai trò rất to
lớn đối với sự phát triển mọi mặt của tỉnh. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế của tỉnh còn khá lớn và đang giảm dần để tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ. Để thực hiện được điều đó, kinh tế nông nghiệp có vai trò rất lớn, là
tiền đề, là cơ sở phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Vai trò kinh tế nông nghiệp của tỉnh xuất phát từ quan điểm của Đảng,
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vai trò của nông nghiệp đối với
sự phát triển đất nước. Đối với nước ta một nước nông nghiệp kém phát triển
đi lên CNXH, Đảng luôn nhất quán khẳng định nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu và là khâu đột phá để đi lên CNXH, nhằm đổi mới toàn diện đất
nước. CNH, HĐH đất nước phải có vốn, khoa học công nghệ, để có những
yếu tố đó phải có tích luỹ. Tích luỹ lớn nhất của nước ta và của tỉnh là từ
kinh tế nông nghiệp.
Từ quan điểm nhất quán về vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế nông
nghiệp đối với sự phát triển toàn diện đất nước nói chung và với sự nghiệp đổi
mới CNH, HĐH đất nước nói riêng, Đảng đã có những chủ trương, quan điểm
đúng đắn tạo nên những đổi mới mạnh mẽ trong nông nghiệp những năm
trước đổi mới (trước năm 1986). Nhờ đó lương thực, thực phẩm, nguyên liệu
cho công nghiệp phát triển dồi dào, là nhân tố đặc biệt quan trọng để đất nước
vượt qua khủng hoảng toàn diện trong những năm 80 của thế kỷ trước, vững
vàng và bước vào đổi mới dành thắng lợi to lớn. Điều đó thể hiện rất rõ trên

địa bàn tỉnh. Nếu không có những thành tựu về kinh tế nông nghiệp, thì cũng
không thể có những thành tựu về đổi mới của tỉnh. Thành tựu của kinh tế


14
nông nghiệp đã đảm bảo cho tỉnh giữ vững an ninh lương thực, giải quyết kịp
thời có hiệu quả những vấn đề nảy sinh về đời sống nhân dân do thiên tai gây
ra, an ninh trật tự của tỉnh được đảm bảo, thành quả chính trị được giữ vững,
tạo tích luỹ để CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp ngang tầm với vai trò của
nó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng đã đề ra các nghị
quyết chuyên đề như: Nghị quyết Trung ương năm (Khoá IX) về đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 và gần đây là Nghị
quyết Trung ương bảy (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn...Điều
đó cho thấy nhận thức của Đảng về vai trò của kinh tế nông nghiệp đối với sự
phát triển mạnh mẽ của đất nước trong những năm tới đã được nâng lên một
bước. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã nhận thức sâu sắc hơn vấn đề này và đã tích cực
triển khai thực hiện các nghị quyết nêu trên, phát huy mạnh mẽ vai trò của
kinh tế nông nghiệp đối với sự phát triển của tỉnh.
Kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã có quá trình phát triển khá mạnh mẽ
và đạt được thành tựu to lớn thể hiện rõ vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển toàn diện của tỉnh. Có thể chia quá trình phát triển kinh
tế nông nghiệp của tỉnh trong những năm đổi mới vừa qua thành hai thời kỳ
chủ yếu: thời kỳ tỉnh sáp nhập với tỉnh Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Kinh
tế nông nghiệp của tỉnh Nghệ Tĩnh thuộc khu vực Hà Tĩnh đã có bước phát
triển nhất định góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới
trên địa bàn tỉnh Nghệ Tĩnh và khu vực Hà Tĩnh. Thời kỳ tỉnh được tách ra
khỏi tỉnh Nghệ Tĩnh, đây là thời kỳ kinh tế nông nghiệp của tỉnh có bước phát
triển mạnh mẽ, tiềm năng, thế mạnh trong nông nghiệp của tỉnh được khai
thác, phát huy tạo nên những thành tựu to lớn. Có thể chia thời kỳ này thành
các giai đoạn chủ yếu như sau:

- Giai đoạn từ năm 1991 đến 1995: đây là giai đoạn kinh tế nông
nghiệp của tỉnh bắt đầu phát triển thể hiện ở các ngành, các lĩnh vực quan
trọng và có những nhân tố mới. Tổng sản lượng lương thực và các sản phẩm


15
từ các cây công nghiệp đều tăng, đời sống nhân dân được cải thiện. Khoa học
kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng khá mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp.
Các hợp tác xã (HTX) được củng cố và mở rộng, phát triển trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp. Nhiều HTX hoạt động đạt kết quả tốt như: các HTX
nông nghiệp ở huyện Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh...Kinh tế trang trại được sự
quan tâm của tỉnh, hoạt động có hiệu quả và có bước phát triển.
- Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000: đây là giai đoạn củng cố phát
triển với mức độ cao hơn về kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Các nhân tố mới,
các điển hình tiên tiến trong nông nghiệp đã được các cấp uỷ quan tâm tổng
kết và khẳng định, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển. Đặc biệt là
các hình thức kinh tế HTX trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; các hợp
tác xã kiểu mới trong nông nghiệp, các mô hình kinh tế trang trại; các tổ hợp
sản xuất, chế biến nông, lâm sản, đã được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, các cấp
uỷ, các tổ chức cơ sở đảng nên đã phát triển đúng hướng đem lại kết quả thiết
thực. Các cấp uỷ đã chỉ đạo tổng kết về các mô hình này rút ra những kinh
nghiệm để lãnh đạo, chỉ đạo đạt kết quả cao hơn.
- Giai đoạn từ năm 2001 đến nay: đây là giai đoạn kinh tế nông nghiệp
của tỉnh phát triển rất mạnh mẽ, dẫn tới sự biến đổi về cơ cấu kinh tế của tỉnh,
đặc biệt là sản xuất lương thực tăng khá từ 42 vạn tấn (năm 2001) lên 49,7 vạn
tấn (năm 2006). Sản lượng lương thực năm 2007 có giảm do hậu quả của hai cơn
bảo số 2 và số 5. Kinh tế nông nghiệp đã từng bước có sự tăng trưởng toàn diện ở
các ngành như: diện tích trồng cây công nghiệp được mở rộng, kết hợp với tăng
cường đầu tư thâm canh và chuyển đổi cơ cấu giống; chăn nuôi có bước phát triển
khá, kinh tế lâm nghiệp phát triển, kinh tế thuỷ sản đạt được tốc độ tăng trưởng

cao, ngành sản xuất muối từng bước ổn định tiếp tục sản xuất đạt kết quả.
1.1.1.3. Đặc điểm kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh
Một là, kinh tế nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh
tế của tỉnh, đang có xu hướng giảm dần và tăng tỷ trọng phần kinh tế công
nghiệp, dịch vụ.


16
Qua nhiều năm phát triển nên kinh tế của tỉnh đã chuyển từ nền kinh tế
chủ yếu là nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, đây là bước tiến
bộ lớn. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế của tỉnh nặng về nông, lâm, ngư nghiệp (tức
là nông nghiệp theo nghĩa rộng), tỷ trọng này đã giảm từ 51,31% năm 2000
xuống còn 42,5% năm 2006 và 38,65% năm 2007, trong đó có xu hướng giảm
dần và tăng tỷ trọng cho công nghiệp, dịch vụ. Bởi vì, một số khu công
nghiệp, một số dự án kinh tế lớn sẽ đi vào hoạt động và phát huy tác dụng
trong những năm tới.
Tuy nhiên, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh vẫn còn
khá lớn, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, giá thành sản phẩm còn
cao, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu.
Hai là, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh đa dạng phong phú, các lĩnh
vực phát triển khá đồng đều, song vẫn còn nhiều tiềm năng, thế mạnh đang
cần được khai thác, phát huy tác dụng để phát triển mạnh mẽ.
Nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh rất đa dạng phong phú về cây trồng,
vật nuôi, ngành nghề và gồm nhiều bộ phận, phù hợp với 3 vùng sinh thái của
tỉnh: ven biển, đồng bằng và miền núi. Các lĩnh vực trong nền kinh tế nông
nghiệp phát triển khá đồng đều, trong đó lương thực tăng nhanh 42 vạn tấn
năm 2001, tăng lên 49,7 vạn tấn năm 2006. Trên địa bàn tỉnh còn nhiều tiềm
năng, thế mạnh đang cần được khai thác phát huy tác dụng để kinh tế nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ như: kinh tế ven biển, kinh tế trang trại, chăn nuôi,
các loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày, kinh tế lâm nghiệp.

Ba là, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh được xây dựng và phát triển
trong điều kiện có những thuận lợi, nhưng gặp nhiều khó khăn về địa hình,
khí hậu, thiên tai ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình và kết quả xây dựng,
phát triển kinh tế nông nghiệp.
Chiều rộng của tỉnh hẹp, địa hình lại phức tạp có cả đồng bằng, đồi và
rừng núi, nên địa hình dốc, độ dài các sông ngắn, chảy xiết, dễ gây ra hậu quả
nặng nề trong mùa mưa lũ, tàn phá hoa màu, gây khó khăn lớn cho trồng trọt,


17
chăn nuôi. Khí hậu khắc nghiệt nhất là về mùa nắng, chịu ảnh hưởng nặng nề
của gió Lào gây khó khăn không nhỏ cho phát triển nông nghiệp. Đây là vùng
đất được xem "chảo lửa, túi mưa".
Bốn là, đội ngũ cán bộ hoạt động trong ngành kinh tế nông nghiệp, tuy
đã có bước trưởng thành, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành đã được nâng
lên một bước, song vẫn còn bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế nông
nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực tuy đã được nâng lên song nhìn chung còn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.
Năm là, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp đã được
giải quyết một bước tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp phát triển.
Hệ thống giao thông, thuỷ lợi trong tỉnh và trong các huyện đã được
giải quyết nâng cấp, hệ thống điện phục vụ tưới tiêu, chế biến nông sản đã
phát huy tác dụng, các tổ hợp sản xuất, dịch vụ chế biến nông sản đã hình
thành phục vụ đắc lực cho sản xuất, chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư
nghiệp. Tuy vậy, kết cấu hạ tầng nhìn chung đang còn thấp kém, đặc biệt vùng
sâu, vùng xa. Các công trình thuỷ lợi chỉ mới phục vụ tưới cho lúa trên 70%
diện tích canh tác, chưa có hệ thống thuỷ lợi cho cây trồng cạn, cây ăn quả;
chưa có hệ thống thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Giao thông nông thôn, đặc
biệt là giao thông nội đồng chưa được quan tâm đầu tư.
1.1.2. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh - vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm

1.1.2.1. Khái quát về Đảng bộ, Tỉnh uỷ Hà Tĩnh và vai trò của Tỉnh
uỷ trong giai đoạn hiện nay
Đảng bộ và Tỉnh uỷ Hà Tĩnh ra đời rất sớm vào cuối tháng 3 năm 1930
tại bến đò Thượng Trụ xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh do đồng
chí Trần Hữu Thiều làm bí thư. Đảng bộ và Tỉnh uỷ được xây dựng và phát
triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của Đảng và sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân
đấu tranh dành chính quyền năm 1945 góp phần cùng cả nước lập nên Nhà


18
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi to lớn, lãnh đạo
xây dựng CNXH ở miền Bắc, chi viện rất lớn sức người, sức của của tỉnh cho
cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược giành thắng lợi giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH. Trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, Tỉnh uỷ và Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân vượt qua
khó khăn gian khổ, thách thức, quyết liệt giành được những thành tựu to lớn,
đóng góp cho Đảng một số cách làm hay, kinh nghiệm có giá trị để Đảng sửa
đổi, bổ sung chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành Đảng bộ và Tỉnh uỷ đã trải
qua các giai đoạn: là một Đảng bộ độc lập trực thuộc Trung ương, trong một
thời gian Đảng bộ Hà Tĩnh sáp nhập với Đảng bộ Nghệ An thành Đảng bộ
Nghệ Tĩnh, sau đó Đảng bộ Hà Tĩnh lại được tách khỏi Đảng bộ Nghệ Tĩnh
trở thành Đảng bộ độc lập từ đó đến nay. Mặc dù có sự sáp nhập và chia tách
nói trên, song nhìn chung Đảng bộ Hà Tĩnh vẫn luôn được xây dựng có năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, liên tục phát triển và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ trong các thời kỳ cách mạng, góp phần to lớn vào thành quả cách
mạng của toàn đảng, toàn dân.

Hiện nay, nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh khoá XVI, Đảng bộ tỉnh có 18 Đảng
bộ trực thuộc gồm Đảng bộ các huyện: Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,
Nghi Xuân, Đức Thọ, Kỳ Anh, Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Lộc Hà;
Đảng bộ thành phố Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh; Đảng bộ Cơ quan Dân chính
Đảng cấp tỉnh; Đảng bộ Quân sự; Đảng bộ Công an; Đảng bộ Trường Đại học
Hà Tĩnh; Đảng bộ Tổng Công ty Khoáng sản Thương mại Hà Tĩnh; Đảng bộ
Bộ đội biên phòng; với 710 tổ chức cơ sở đảng và 81.250 đảng viên. Tỉnh uỷ
có 49 đồng chí Tỉnh uỷ viên, trong đó có 13 đồng chí trong Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ.


19
Vai trò to lớn rất quan trọng của Tỉnh uỷ đối với thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng trên địa bàn tỉnh đã được khẳng định và được thực tiễn
hoạt động cách mạng của Tỉnh uỷ, Đảng bộ tỉnh và nhân dân Hà Tĩnh chứng
minh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay vai trò của Tỉnh uỷ lại càng quan
trọng, đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trên địa bàn tỉnh. Đường lối đổi
mới toàn diện đất nước do Đảng đề ra và lãnh đạo thực hiện được Tỉnh uỷ
quán triệt, cụ thể hoá và lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh
đã thu được thắng lợi to lớn. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, trong đó có lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp là nhân tố quyết định để các hoạt động ấy đi đúng đường lối, quan
điểm của Đảng, kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển theo định hướng XHCN.
Nhìn lại những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, tại Đại
hội IX, Đảng ta nghiêm khắc nhận khuyết điểm và khẳng định: "Những thành
tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn
liền với trách nhiệm của Đảng và những ưu, khuyết điểm trong công tác xây
dựng Đảng" [21, tr.137]. Điều khẳng định đó hoàn toàn đúng đối với các cấp uỷ
địa phương và với Tỉnh uỷ. Điều đó cũng nói lên và khẳng định rõ vai trò quyết
định của Tỉnh uỷ đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh.

Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định:
Bước vào giai đoạn mới bên cạnh những cơ hội lớn, đất nước
ta và Đảng ta cũng đối mặt với những thách thức rất gay gắt. Trước
tình hình đó, xây dựng Đảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt càng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta [25, tr.259].
Điều khẳng định đó, chứng tỏ, Đảng đã nhận thức sâu sắc của Đảng về
vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Vai trò ấy lại càng quan
trọng và tăng lên trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
trong nước, trước sự tăng cường phá hoại của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH của đất nước ta. Tỉnh uỷ là người chịu trách
nhiệm trước sự phát triển mọi mặt của tỉnh.


20
Vai trò rất quan trọng của Tỉnh uỷ đối với sự phát triển mọi mặt của
tỉnh, mà trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có kinh tế nông
nghiệp được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
- Tỉnh uỷ Hà Tĩnh là một tổ chức Đảng trong hệ thống tổ chức của
Đảng từ Trung ương đến cơ sở, đó là tổ chức thứ hai sau Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, tức là Tỉnh uỷ là cấp dưới trực tiếp của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh lãnh đạo Đảng bộ tỉnh có hệ thống tổ
chức từ tỉnh đến cơ sở và có đông đảo đội ngũ đảng viên, hoạt động trên một
địa bàn rộng lớn và có dân cư đông đúc, lãnh đạo mọi mặt trên địa bàn tỉnh.
Hà Tĩnh là cấp hành chính thứ hai sau Trung ương, trong hệ thống hành chính
4 cấp của Nhà nước ta, quản lý một khu vực lãnh thổ rộng lớn, đông dân cư.
Tỉnh có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh đối với đất
nước. Tỉnh uỷ là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ Đại hội Đảng
bộ tỉnh; chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn bộ hoạt động của Đảng bộ tỉnh từ xây
dựng nội bộ Đảng đến hoạt động lãnh đạo các tổ chức trong HTCT, các lĩnh

vực của đời sống xã hội, trong đó có kinh tế nông nghiệp. Tỉnh uỷ là hạt nhân
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, vận động giáo dục nhân dân thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tỉnh uỷ tiếp nhận đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, biến
đường lối, chủ trương, chính sách đó thành hiện thực. Tỉnh uỷ có thể động
viên khá lớn sức người, sức của để tiến hành một nhiệm vụ trọng tâm, hoặc
một dự án kinh tế - xã hội quan trọng. Tỉnh uỷ cũng có đủ tư cách để liên kết
tạo sự phối hợp với các tỉnh khác, với các cơ quan Trung ương để hoạt động
đạt kết quả tốt.
- Tỉnh uỷ còn là cấp trên trực tiếp của huyện uỷ ở các huyện và các
đảng uỷ trực thuộc tỉnh, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo
các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có chỉ đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Tỉnh uỷ là nhân tố đặc


21
biệt quan trọng để kinh tế nông nghiệp của các huyện, thị xã, thành phố trong
tỉnh phát triển mạnh mẽ, đúng hướng.
- Sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội của tỉnh, trong đó có kinh
tế nông nghiệp phụ thuộc và được quyết định bởi sự lãnh đạo đúng đắn của
Tỉnh uỷ. Bởi vậy, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong điều kiện
hiện nay, trong đó có năng lực lãnh đạo kinh tế nông nghiệp là một nhiệm vụ
trọng tâm và là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Nếu Tỉnh uỷ yếu kém, năng
lực lãnh đạo kinh tế hạn chế, thậm chí không có chủ trương và giái pháp đúng
để giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh trong thực tiễn sẽ xuất hiện
những phức tạp, thậm chí trở thành điểm nóng, đưa lại hậu quả khó lường. Vai
trò lãnh đạo của Tỉnh uỷ sẽ giảm, kinh tế - xã hội không phát triển, ảnh hưởng
nhất định đến sự phát triển chung của đất nước.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh

* Chức năng
Chức năng chủ yếu của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh là lãnh đạo tất cả các hoạt
động trên địa bàn tỉnh. Là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ Đại
hội Đảng bộ tỉnh. Tỉnh uỷ lãnh đạo đảm bảo cho các hoạt động xây dựng
Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
xã hội, nghề nghiệp của tỉnh có chất lượng về tổ chức hoạt động có hiệu quả;
đảm bảo cho các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh phát triển theo
đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
theo đúng định hướng XHCN.
Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với các hoạt động nêu trên là sự lãnh đạo
toàn diện, tức là Tỉnh uỷ đề ra chủ trương, quyết định cụ thể hoá các chủ
trương, quyết định đó, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các tổ
chức đảng, đảng viên trong thực hiện các chủ trương, quyết định của Tỉnh uỷ
và sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm, kể cả việc kiểm tra, giám sát
việc chuẩn bị ra quyết định và ban hành quyết định.


22
Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xã hội có đặc điểm riêng, mỗi tổ
chức lại có chức năng nhiệm vụ khác nhau. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
từng tổ chức, từng lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung và phương thức khác
nhau. Bởi vậy, cùng xuất phát từ nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất của
công việc, đặc điểm cụ thể để xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phù
hợp. Song chức năng lãnh đạo của Tỉnh uỷ là sự lãnh đạo chính trị. Tức là Tỉnh
uỷ lãnh đạo các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xã hội, chủ yếu bằng các chủ
trương, quyết định, định hướng đảm bảo cho các hoạt động của các tổ chức, lĩnh
vực đó theo đúng định hướng XHCN. Tỉnh uỷ không can thiệp quá sâu, không
bao biện làm thay công việc cụ thể của các tổ chức, mà Tỉnh uỷ lãnh đạo phát
huy vai trò, chủ động, sáng tạo của các tổ chức để hoạt động đạt kết quả cao.
Trong lãnh đạo kinh tế - xã hội, Tỉnh uỷ có chức năng lãnh đạo kinh tế

nông nghiệp. Đây là một lĩnh vực trọng yếu trong sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ,
một lĩnh vực đang mang lại thu nhập cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh.
* Nhiệm vụ của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh
Điều 19, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội X quy định "Cấp uỷ tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ)....lãnh đạo thực
hiện nghị quyết đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên"[26, tr.32].
Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Trung ương, xuất phát
từ chức năng của Tỉnh uỷ, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, Tỉnh uỷ Hà
Tĩnh có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Lãnh đạo và tổ chức thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, bao gồm
quán triệt, xây dựng chương trình kế hoạch thực hiện các nghị quyết của
Trung ương về công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đảng
cấp dưới thực hiện.
- Quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và các
nghị quyết của Tỉnh uỷ trong nhiệm kỳ. Thảo luận, quyết định chương trình
công tác của Tỉnh uỷ hàng quý, sáu tháng, một năm và cả nhiệm kỳ.


23
- Chuẩn bị và ra các nghị quyết chuyên đề về các tổ chức trong hệ
thống chính trị, các lĩnh vực đời sống xã hội và tổ chức thực hiện các nghị
quyết ấy. Tỉnh uỷ có nhiệm vụ lãnh đạo tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội,
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh (HĐND, UBND)
triển khai thực hiện các nghị quyết của Tỉnh uỷ về kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh. Lãnh đạo các Ban tham mưu và các cơ quan chức năng triển
khai thực hiện các nghị quyết của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng Đảng, xây
dựng các đoàn thể nhân dân.
- Phê duyệt quy hoạch cán bộ của cấp dưới theo phân cấp quản lý cán bộ.

- Tuyên truyền giáo dục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên trong
Đảng bộ tỉnh, trước hết là các tổ chức đảng trực thuộc (cấp dưới trực tiếp) và
những đảng viên là cán bộ thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý.
- Chuẩn bị báo cáo chính trị, nhân sự và tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh
nhiệm kỳ tới.
* Đặc điểm chủ yếu của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh:
- Đặc điểm về truyền thống cách mạng
Tỉnh uỷ có truyền thống cách mạng hào hùng, được thành lập sớm so
với các địa phương khác, ra đời cùng với Đảng bộ Hà Tĩnh trong phong trào
chống Pháp những năm 30 của thế kỷ trước, trải qua quá trình cách mạng:
phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, phong trào cách mạng 1936-1939
và trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo
Đảng bộ và nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp không đứng chân được trên 24
giờ. Tỉnh uỷ đã được tôi luyện và trưởng thành từng bước trong thời chiến,
ngày nay trong thời bình dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng,
Tỉnh uỷ đang phát huy truyền thống cách mạng, đổi mới phương thức lãnh
đạo đưa Hà Tĩnh đi lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.


24
- Đặc điểm về bộ máy cán bộ
Cơ cấu tổ chức của Tỉnh uỷ gồm: Ban Tuyên giáo, Uỷ ban Kiểm tra,
Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Văn phòng. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI (nhiệm kỳ 2005-2010), đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 49
đồng chí, trong đó Ban Thường vụ có 13 đồng chí. Độ tuổi bình quân của các
đồng chí trong Ban Chấp hành đầu nhiệm kỳ 48 tuổi; trình độ học vấn 100%
là 10/10; trình độ chuyên môn: tiến sỹ 1 đồng chí, chiếm 2,04%, thạc sỹ 8
đồng chí chiếm 16,32%, còn lại là trình độ đại học; trình độ lý luận chính trị:

10 đồng chí có trình độ cử nhân, còn lại là cao cấp chính trị.
- Đặc điểm về nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh mà Tỉnh uỷ phải
lãnh đạo thực hiện:
Tỉnh uỷ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an
ninh và các hoạt động của đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh. Trước hết là lãnh
đạo công tác chính trị tư tưởng; tổ chức cán bộ và xây dựng chính quyền; lãnh
đạo chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; lãnh đạo công tác
vận động quần chúng của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể để thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn của tỉnh.
- Đặc điểm về địa bàn, môi trường hoạt động:
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh hoạt động trên địa bàn và môi trường có nhiều thuận
lợi đó là, nhân dân có truyền thống cách mạng, đây là cái nôi của tinh thần
chống giặc bất khuất, nơi đã sinh ra nhiều nhà nhà cách mạng lỗi lạc: Trần
Phú, Hà Huy Tập, Lý Tự Trọng...là nơi của nhiều phong trào cách mạng, mà
nổi bật là: phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (những năm 1930-1931), phong trào
cách mạng 1936 - 1939, khởi nghĩa 1945... Nhân dân Hà Tĩnh thông minh,
cần cù, chịu khó. Tỉnh có điều kiện tự nhiên (miền núi, đồng bằng, ven biển)
để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Trong
những năm tới công nghiệp và dịch vụ của tỉnh sẽ phát triển nhanh vì có các


25
dự án trọng điểm quốc gia và của tỉnh đang và sẽ triển khai. Cán bộ, đảng
viên Hà Tĩnh nhìn chung có kiến thức và nhận thức tốt, nhân dân một lòng
theo đảng là cơ sở để thực hiện và vận động nhân dân toàn tỉnh thực hiện tốt
các các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như
của Tỉnh uỷ.
Bên cạnh những thuận lợi thì địa bàn và môi trường hoạt động của
Tỉnh uỷ cũng gây nên không ít khó khăn; là một tỉnh có điều kiện tự nhiên

khắc nghiệt, bão lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra; kinh tế - xã hội so với các
tỉnh Bắc Trung Bộ và cả nước đang còn yếu kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
thấp, đời sống của nhân dân đang gặp nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội yếu kém, là địa bàn xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, dân trí
thấp, có những tập quán sản xuất lạc hậu, manh mún, nhận thức về kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế của nhân dân hạn chế. Chính những điều
này đòi hỏi Tỉnh uỷ phải có một phương thức lãnh đạo sáng tạo, phù hợp với
điều kiện thực tiễn để hạn chế tối đa những bất lợi do khó khăn gây nên và
phát huy các thế mạnh để đạt được hiệu quả cao trong công tác lãnh đạo chỉ
đạo của mình.
- Đặc điểm về đối tượng lãnh đạo của Tỉnh uỷ:
Trong giai đoạn hiện nay, Tỉnh uỷ tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế
nông nghiệp. Hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao,
dân cư nông thôn chiếm 87,8%; các tiềm năng về kinh tế nông nhiệp còn đang
rất lớn nhưng chưa được khai thác tốt; công nghiệp và dịch vụ đang ở giai
đoạn thu hút đầu tư, mới bắt đầu thực hiện một số dự án lớn; cùng với vai trò,
vị trí chiến lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong các quá trình
cánh mạng là rất quan trọng và cơ bản đã được Nghị quyết Trung ương bảy
(Khoá X) khẳng định; chính vì vậy, đối tượng lãnh đạo của Tỉnh uỷ là kinh tế
nông nghiệp rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội
của tỉnh và sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ.


×