Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

luanvan chất lượng hoạt động các trung tâm Bồi dưỡng chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.69 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục LLCT và tuyên truyền miệng là một nhiệm vụ trọng yếu của
công tác tưởng, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng. C.Mác chỉ rõ: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực
lượng vật chất, nhưng lý luận cũng trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng" [35, tr.580]. V.I.Lênin nhấn mạnh: "Không có lý
luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng" [29, tr.30] và "Chỉ
Đảng nào được lý luận tiên phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn
vai trò chiến sĩ tiên phong" [29, tr.32].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của giáo
dục LLCT và tuyên truyền miệng trong công tác đào tạo cán bộ, trong tổ chức
các hoạt động phong trào cách mạng cho quần chúng nhân dân. Ngay từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời, Hồ Chí Minh đã mở nhiều lớp huấn
luyện cho các lớp thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước ánh sáng của chủ
nghĩa Mác- Lênin, những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, tinh thần đấu
tranh, phương pháp cách mạng… đó là bước khởi đầu chuẩn bị về lý luận và
tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gần 80 năm qua, công tác giáo dục LLCT, công tác tuyên truyền
miệng được Đảng ta tiến hành thường xuyên và liên tục, ngày càng sâu rộng
và có bước phát triển mới. Trong những năm gần đây, Đảng ta càng đặc biệt
quan tâm đến vấn đề này, Ngày 3/6/1995 Ban Bí thư Trung ương (Khoá VII)
ban hành Quyết định số 100- QĐ/TW về việc tổ chức Trung tâm Bồi dưỡng
chính trị ở cấp huyện, nhằm tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, thường
xuyên bồi dưỡng các chương trình LLCT; tuyên truyền chủ trương, đường lối


2
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và các


tầng lớp nhân dân để tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân
dân.; bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền và nghiệp vụ
chuyên môn cho HTCT cơ sở trên địa bàn cấp huyện.
Trong thời gian qua, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết chuyên đề về
công tác tưởng lý luận trong tình hình mới, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX, Khóa X), Đảng chỉ đạo các cấp ủy tiến hành tổng kết công tác tuyên
truyền miệng và tăng cường công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới
thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với công tác giáo dục LLCT và công tác
tuyên truyền miệng của Đảng.
Thực hiện Quyết định số 100-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương
(Khóa VII) về tổ chức Trung tâm BDCT ở cấp huyện. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Thanh Hoá ban hành Quyết định số 752-QĐ/TU ngày 07/12/1995 về việc
thành lập Trung tâm BDCT cấp huyện. Các cấp ủy địa phương đã tiến hành
thành lập Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa và tổ
chức hoạt động theo chức năng nhiệm vụ quy định của Trung ương và của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa.
Qua hơn 10 năm hoạt động, các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành
phố ở tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện nhiệm vụ, công tác giáo dục LLCT và
công tác tuyên truyền miệng của Đảng, nâng cao nhận thức chính trị, tư
tưởng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong HTCT cấp huyện và
cơ sở, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực
trên địa bàn cấp huyện. Góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng: Củng cố HTCT, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên vào sự lãnh
đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới; giữ vững ổn định chính trị cơ sở; nâng
cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên; thúc đẩy việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở địa phương ngày càng tốt hơn. Nhiều cấp ủy đảng huyện đã


3
sử dụng Trung tâm BDCT như một công cụ để tuyên truyền, giáo dục LLCT cho

cán bộ, đảng viên có hiệu quả. Các cấp ủy quan tâm, nâng cao trách nhiệm lãnh
đạo, quản lý đối với hoạt động của các Trung tâm BDCT, tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho các Trung tâm BDCT nâng cao chất lượng hoạt động. Bên cạnh những
điểm tích cực trên, hoạt động của Trung tâm BDCT các huyện, thị xã, thành phố
tỉnh Thanh Hóa còn tồn tại những yếu kém, bất cập: các văn bản qui định chức
năng, nhiệm vụ và bộ máy của Trung tâm chưa thật sự phù hợp. Chất lượng hiệu
quả hoạt động nhìn chung chưa cao, nội dung một số chương trình còn nặng về
lý luận, nhẹ về tính thực tiễn, chưa giúp cán bộ, đảng viên có thể xử lý các tình
huống cụ thể đang diễn ra ở cơ sở. Chất lượng đội ngũ giảng viên chuyên trách
còn một số hạn chế, đội ngũ giảng viên kiêm chức còn nhiều bất cập, ngân sách
đầu tư cho Trung tâm BDCT chưa nhiều, một số nơi cấp ủy đảng, chính quyền
chưa vào cuộc, chưa thật sự quan tâm chỉ đạo hoạt động của Trung tâm BDCT
và đầu tư cơ sở vật chất cho Trung tâm BDCT một cách thỏa đáng.
Từ những vấn đề đã nêu trên và là một cán bộ đang làm công tác
giảng dạy tại Trung tâm BDCT Thành phố Thanh Hóa - tỉnh Thanh Hóa, tôi
nhận thấy việc nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm BDCT
huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay là một vấn đề cần đặc biệt
được quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: "Chất lượng hoạt
động của các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa
trong giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ.
Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thiết thực
nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ và giải pháp lớn theo tinh thần văn kiện
Đại hội X: "Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các Trường
chính trị tỉnh, các Trung tâm BDCT cấp huyện và các Trường dân tộc nội trú
để đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức ở cơ sở" [26, tr.300].


4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

- Vũ Ngọc Am, Tăng cường cơ sở vật chất- yếu tố đảm bảo nâng cao
chất lượng các Trung tâm BDCT cấp huyện, Tạp chí Công tác tư tưởng lý
luận, Số 6, năm 2007.
- Phương Kiến Quốc, Đổi mới phương pháp dạy và học LLCT ở Trung
tâm BDCT huyện Cầu Giấy, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số4, năm 2007.
- Trần Thị Tâm, Xác định tính đặc thù của các Trung tâm BDCT
huyện để nâng cao chất lượng giảng dạy, Tạp chí Thông tin công tác tư
tưởng, lý luận, năm 2006.
- Thùy Linh, Bắc Giang- mười năm thực hiện quyết định 100-QĐ/TW,
Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, lý luận, năm 2006.
- Trần Thị Tâm, Đôi điều suy nghĩ khi lựa chọn nội dung và phương
pháp giảng dạy chương trình giáo dục LLCT ở Trung tâm BDCT cấp huyện,
Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, lý luận, năm 2006.
- Mai Yến Nga, Một vài kinh nghiệm trong hoạt động ở Trung tâm
BDCT huyện Kiên Lương, Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, lý luận, số 3,
năm 2006.
- Vũ Thùy Linh, Công tác giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên ở cơ
sở của tỉnh Hải Dương- thực trạng và kinh nghiệm, Tạp chí Thông tin công
tác Tư tưởng, lý luận, số 4, năm 2006.
- Đặng Thanh Long, Tiếp tục nâng cao hiệu quả của Trung tâm BDCT
huyện ở tỉnh Kom Tum, Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng- lý luận, số 4,
năm 2006.
- Lê Ngọc Dính, Đôi điều về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
Trung tâm BDCT cấp huyện, Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng- lý luận,
năm 2006.


5
- Ly Mí Lử, Hà Giang nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ
báo cáo viên và tuyên truyền miệng, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, tháng 8 năm

2006.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm BDCTTổng kết 10 năm thực hiện quyết định 100-QĐ/ TW khóa VII, Tạp chí Tư
tưởng - Văn hóa, số 2- 2006.
- Báo cáo kết quả thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh: Nâng cao chất
lượng công tác giáo dục LLCT tại các Trung tâm BDCT cấp huyện, thị, thành
phố ở tỉnh Thanh Hóa trong tình hình mới, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy làm chủ
biên, năm 2008.
- Đề án: Về tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao chất lượng toàn diện
Trung tâm BDCT cấp huyện trong tình hình mới, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy chủ trì.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng động của các Trung
tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung
tâm BDCT này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quan niệm và
tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của các Trung tâm BDCT huyện, thị
xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động của các Trung tâm BDCT
huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa, chỉ rõ nguyên nhân và kinh
nghiệm rút ra từ thực trạng đó.


6
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng
hoạt động của các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nhiên cứu luận văn

- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về LLCT, vai trò của
giáo dục LLCT và công tác tuyên truyền miệng.
- Luận văn được thực hiện bởi phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng hoạt động của các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành
phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu chất lượng hoạt của tất cả các Trung tâm BDCT huyện, thị
xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa từ 2001-2015.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng hoạt động của
các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
hiện nay và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động của những Trung tâm BDCT này.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Kết quả đạt được của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm BDCT cấp


7
huyện, trong việc giáo dục, bồi dưỡng LLCT và tuyên truyền miệng ở trong
một số trường học.
- Luận văn có thể góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của
cấp ủy huyện, thị, thành phố trong việc bồi dưỡng LLCT, tuyên truyền miệng
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Chất lượng hoạt động của các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị
xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn chủ yếu
1.1. Vị trí, VAI TRÒ, chức năng, nhiệm vụ của các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện, Thị xã, Thành phố (Trung tâm Bồi dưỡng chính trị cấp huyện) ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay

1.1.1. Khái quát về các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, thị
xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa
Trung tâm BDCT huyện, thị, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa được thành
lập trên nền của Trường Đảng cấp huyện, hoặc Trung tâm Giáo dục chính trị
cấp huyện trước đây.
Ngày 28/6/1973 Tỉnh ủy Thanh Hóa ban hành Nghị quyết số 02 NQ/TU về việc thành lập các Trường chính trị nhằm đào tạo giảng viên và bồi
dưỡng LLCT cho cán bộ, đảng viên của tỉnh Thanh Hóa. Nghị quyết nêu rõ:


8
"Tách Trường đảng huyện ra khỏi Ban Tuyên giáo huyện và có vị trí như một
ban của Đảng ở cấp huyện dưới sự lãnh đạo trực tiếp của huyện ủy. Trường
đảng có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở theo chương trình
nội dung kế hoạch hướng dẫn của Trung ương và tỉnh" [48].
Thực hiện nhiệm vụ Trường Đảng huyện trong những năm qua,
Trường đã đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ LLCT, tuyên truyền chủ
trương, cơ chế, chính sách của địa phương cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân trên địa bàn cấp huyện. Tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân tích cực sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở

miền Bắc, đóng góp sức người, sức của cho miền Nam ruột thịt với tinh thần
"thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", xứng đáng là hậu
phương lớn cho tuyền tuyến lớn, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà. Hiệu quả của công tác giáo dục LLCT đã
góp phần không nhỏ vào thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của
Đảng: Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nam- Bắc hai miền thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng CNXH.
Được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, qui mô, chất lượng
Trường Đảng cấp huyện không ngừng được củng cố và tăng cường. Nhưng
đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, tình hình chính trị của thế giới có nhiều biến động phức
tạp, đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nước đi theo con đường CNXH,
trong đó có Việt Nam. Trong nước, tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân lo lắng, băn khoăn, thậm chí hoài nghi, dao động
về vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, về con đường đi lên xây dựng CNXH ở
nước ta. Trong thời gian đó, Trường Đảng cấp huyện ở Thanh Hoá gặp
nhiều khó khăn và thử thách, nhiều nơi không mở được các lớp bồi dưỡng


9
LLCT vì không chiêu sinh được học viên, có nơi Trường Đảng phải sát
nhập với Ban Tuyên giáo cấp huyện và chỉ là một bộ phận của Ban Tuyên
giáo. Mô hình tổ chức thay đổi tạo ra sự lúng túng trong việc tổ chức thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của công tác giáo dục chính trị và công tác tuyên
truyền miệng.
Trước tình hình đó, để duy trì hoạt động của Trường Đảng huyện phù
hợp với yêu cầu của tình hình mới, Ban Bí thư Trung ương đã chủ trương
thành lập Trung tâm Giáo dục chính trị cấp huyện trên nền của Trường Đảng
huyện và giao cho Ban Tổ chức Trung ương Đảng hướng dẫn việc thành lập

Trung tâm BDCT cấp huyện. Trên cơ sở Hướng dẫn số 729-TC/TW của Ban
Tổ chức Trung ương Đảng. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ban hành
Hướng dẫn số 83-HD/TU ngày 7/7/1989 về việc thành lập Trung tâm Giáo
dục chính trị huyện, thị xã, thành phố. Trong hai năm, 1989 và 1990 các
Trung tâm Giáo dục chính trị huyện, thị xã, thành phố lần lượt ra đời và đi
vào hoạt động. Mô hình trung tâm Giáo dục chính trị lúc đó là một bộ phận
trực thuộc Ban Tuyên giáo cấp huyện, do đồng chí phó Ban Tuyên giáo kiêm
nhiệm làm giám đốc. Khi mới thành lập các Trung tâm Giáo dục chính trị
huyện, thị xã đều gặp khó khăn trong tổ chức hoạt động theo chức năng,
nhiệm vụ được giao.
Sau gần 10 năm hoạt động, các Trung tâm Giáo dục chính trị huyện đã
bộc lộ một số bất cập, mọi hoạt động của Trung tâm BDCT phụ thuộc vào
Ban Tuyên giáo, Văn phòng cấp uỷ huyện nên không thể chủ động thực hiện
nhiệm vụ được giao. Trung ương đã tổng kết mô hình hoạt động của các
Trung tâm Giáo dục chính trị cấp huyện trên địa bàn cả nước, đánh giá đúng
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Giáo dục chính trị cấp
huyện và nhận thức rõ những yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới. Một lần nữa
Ban Bí thư Trung ương ban hành Quyết định số 100-QĐ/TW ngày 3/6/1995
về việc thành lập Trung tâm BDCT cấp huyện (quận, thị xã, thành phố).


10
Căn cứ Quyết định của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh
Hoá ban hành Quyết định số 752 ngày 07/12/1995 về việc thành lập Trung
tâm BDCT cấp huyện. Thực hiện quyết định trên, năm 1995 có 6 Trung tâm
BDCT, năm 1996 có 15 Trung tâm BDCT, năm 1995 có 4 Trung tâm BDCT
cấp huyện ra đời và đi vào hoạt động.
Bộ máy tổ chức của Trung tâm BDCT do cấp ủy quyết định theo
hướng dẫn của Trung ương, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Cấp uỷ huyện, trực
tiếp là Ban Thường vụ cấp huyện lãnh đạo về chuyên môn, UBND cấp huyện

quản lý về cơ sở vật chất và cấp kinh phí hoạt động; Ban Tuyên giáo huyện ủy
có trách nhiệm giúp cấp ủy kiểm tra về phương hướng chính trị, tư tưởng
trong giảng dạy tất cả các chương trình giáo dục LLCT, tuyên truyền nghị
quyết và thông tin, định hướng cho cán bộ, đảng viên cơ sở; Ban tổ chức chủ
trì phối hợp với Ban Tuyên giáo và Trung tâm BDCT xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng trên cơ sở quy hoạch cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, xây
dựng bộ máy biên chế, cán bộ và thực hiện chế độ chính sách đối với người
dạy và người học; các phòng, ban chuyên môn của cấp ủy và UBND huyện
theo chức năng, phối hợp tạo điều kiện để các Trung tâm BDCT hoạt động có
hiệu quả; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì phối hợp với các ban, ngành của tỉnh
hướng dẫn kế hoạch hoạt động hàng năm cho Trung tâm BDCT, kiểm tra việc
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức sơ kết tổng kết hoạt động của Trung tâm BDCT;
Trường chính trị tỉnh chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh có kế hoạch bồi
dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho lãnh đạo, giảng viên chuyên trách và kiêm chức
của Trung tâm BDCT; hướng dẫn giúp đỡ Trung tâm BDCT về chuyên môn
nghiệp vụ.
Hiện nay, 27 Trung tâm có bộ máy bộ máy tổ chức ổn định, 27 giám
đốc Trung tâm đều là giám đốc chuyên trách, không có trường hợp nào giám
đốc là trưởng Ban Tuyên giáo kiêm nhiệm, giám đốc chịu trách trước cấp ủy


11
về tất cả các hoạt động, giám đốc tham gia giảng dạy hầu hết các loại chương
trình bồi dưỡng và tham gia hoạt động báo cáo viên.
Trung tâm BDCT có 1 phó giám đốc, phó giám đốc thường được phân
công phụ trách hành chính, phụ trách công tác giáo vụ (có nơi phân công phụ
trách công tác báo cáo viên). Phó giám đốc tham gia giảng dạy hầu hết các
chương trình bồi dưỡng của Trung tâm BDCT. Một số nơi cấp ủy bổ nhiệm 2
phó giám đốc (trước có huyện Thường Xuân, Nông Cống; hiện nay là Thành
phố Thanh Hóa).

Số giảng viên còn lại thường được phân công, 1 giảng viên đồng thời
là báo cáo viên phụ trách giáo vụ kiêm thủ quĩ, 1 giảng viên phụ trách báo cáo
viên, 1 cán bộ kế toán kiêm hành chính. Như vậy, 4 đồng chí giảng viên
Trung tâm vừa là giảng viên, vừa là báo cáo viên, đồng thời kiêm nhiệm các
nhiệm vụ khác để đảm bảo cho công tác tổ chức lớp học của Trung tâm
BDCT thực hiện theo đúng kế hoạch đề ra.
Ngoài đội ngũ giảng viên chuyên trách, Trung tâm BDCT còn có đội
ngũ giảng viên kiêm chức. Giảng viên kiêm chức chủ yếu là các đồng chí
trong Ban Thường vụ cấp uỷ cấp huyện, lãnh đạo các ban xây dựng Đảng, các
phòng của UBND, các tổ chức đoàn thể nhân dân cấp huyện. Đây là những
người có đủ tiêu chuẩn về: Phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; có trình độ
đại học về chuyên môn, trình độ cử nhân chính trị, hoặc cao cấp LLCT; có
khả năng giảng bài tại Trung tâm BDCT cấp huyện.
1.1.2. Vị trí, vai trò của các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện,
thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa là một
đơn vị sự nghiệp, trực thuộc cấp ủy đảng và UBND cấp huyện, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ cấp huyện. Trung tâm


12
BDCT có một vai trò hết sức quan trọng trong công tác tư tưởng nói riêng và
xây dựng Đảng nói chung, thể hiện trên những mặt sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn cấp
huyện về tầm quan trọng của việc học tập LLCT để từ đó nêu cao ý thức tự
giác học tập của cán bộ, đảng viên.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đặc biệt
quan tâm đến vấn đề giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên, trong đó có thế
hệ trẻ. Tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn TNCS Nga (1920) V.L.Lênin đã trả
lời câu hỏi: "Dạy cái gì?" đối với nền giáo dục của chế độ mới. Ông nói với

hai ý lớn: Một là, dạy chủ nghĩa cộng sản; Hai là, dạy kiến thức - tất cả những
kiến thức phổ thông cơ bản nhất mà nhân loại thu được từ trước cho đến nay.
Vấn đề học chủ nghĩa cộng sản Người chỉ rõ:
Học chủ nghĩa cộng sản là học đấu tranh giai cấp, học đấu tranh
cách mạng, học phấn đấu quên mình để góp phần cho đất nước, cho sự
nghiệp chung. Học chủ nghĩa cộng sản là học lý tưởng cộng sản, đạo
đức của người cộng sản, cái dũng cảm của người cộng sản để tiếp tục
sự nghiệp của những người cách mạng đi trước [30, tr.354, 377].
Mặt khác, V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: "phải dạy tất cả những kiến thức
mà nhân loại thu được từ trước", đấy chính là nhiệm vụ của việc dạy - học, bởi
vì "Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của
mình bằng sự hiểu biết của tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại tạo ra"
[30, tr.362]. Do đó, phải gắn liền với giáo dục LLCT, giáo dục chủ nghĩa cộng
sản với giáo dục văn hóa khoa học kỹ thuật. V.I. Lênin nhấn mạnh: "Thật là sai
lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản, những kết luận
của khoa học cộng sản chứ không thấm nhuần tổng số những kiến thức mà chính
bản thân chủ nghĩa cộng sản cũng phải là kết quả" [30, tr.390].


13
Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công
tác lý luận nói chung và công tác giáo dục lý luận nói riêng. Bác nói: "Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [37, tr.268].Và: "Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam" [40, tr.234]. Chủ nghĩa mà Người nói ở đây là chủ
nghĩa Mác - Lênin, đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng
sản Việt Nam bổ sung thêm tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của

Đảng. Muốn cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào
đời sống xã hội trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
toàn Đảng, toàn nhân, do đó Đảng ta phải chủ động tiến hành công tác giáo dục
LLCT. Giáo dục LLCT có vai trò trực tiếp trong công tác xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Báo cáo tại Đại hội III của Đảng nêu rõ:
Vấn đề nâng cao trình độ Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên là
một vấn đề thường xuyên của Đảng, bởi vì lý luận chủ nghĩa Mác Lênin soi đường cho toàn Đảng trong công tác lãnh đạo cách
mạng... cho nên công tác giáo dục và nghiên cứu lý luận là một công
tác quan trọng bậc nhất của mỗi chính Đảng Mác - Lênin. Hiện nay
việc nâng cao trình độ Mác - Lênin trong cán bộ, đảng viên là điều
kiện chủ yếu để tăng cường sự thống nhất trong Đảng ta, làm cho sự
đoàn kết thống nhất ấy có cơ sở thật vững chắc. Xuất phát từ đó,
mỗi cán bộ, đảng viên sẽ thấy rõ thái độ của mình đối với việc học
tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin là vấn đề thuộc tính Đảng, một
vấn đề có quan hệ đến sinh mạng của Đảng [20, tr.140-141].


14
Từ Đại hội III đến nay, trong các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị
quyết, các chỉ thị của Đảng đều đề cập đến vai trò quan trọng của công tác
giáo dục LLCT, công tác tuyên truyền miệng. Đồng thời yêu cầu phải tăng
cường công tác giáo dục LLCT, công tác tuyên truyền miệng trong tình hình
mới.
Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Quy định số 54 QĐ/TW ngày
12/5/1999 về chế độ học tập LLCT trong Đảng, quy định nêu: "Mọi cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải thường xuyên học tập,
nâng cao trình độ thực tiễn. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ,
đảng viên và phải quy định thành chế độ học tập, lười suy nghĩ, không thường

xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những biểu hiện mới, cũng là sự biểu
hiện của sự thoái hoá". Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao trình độ
LLCT cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.
Hai là, trang bị cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở những kiến thức cơ bản
về LLCT.
Thông qua các chương trình bồi dưỡng, Trung tâm BDCT đã giúp cho
cán bộ, đảng viên tiếp cận với những kiến thức ban đầu, những kiến thức cơ
bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam, cơ chế, chính
sách của địa phương; truyền thống lịch sử Đảng, tinh thần yêu nước của dân
tộc Việt Nam, các chính sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, của địa phương…cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn cấp
huyện. Đặc biệt là cho đối tượng đảng và đảng viên mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về thế giới quan, phương pháp
luận khoa học và nhân sinh quan CNCS, là hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân. Do đó, Trung tâm BDCT tiến hành hoạt động giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin là một trong những nội dung quan trọng nhất của giáo dục LLCT. Thực
tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam cho thấy, công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho cán bộ, đảng viên và quần chúng


15
nhân dân đều "Phải tiến hành trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - lênin, với tư
cách là một thế giới quan khoa học chân chính, hiện đại" [43, tr.10].
Chủ nghĩa Mác- Lênin là một học thuyết khá hoàn chỉnh, nó luôn
được bổ sung và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của xã hội.
Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên ở các Trung tâm
BDCT là thực hiện một quá trình đồng bộ ba môn học gồm: Triết học MácLênin; Kinh tế chính trị Mác- Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là ba bộ
phận cấu thành môn học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một trong những nội dung vô cùng
quan trọng của công tác giáo dục LLCT, tuyên truyền miệng của các Trung
tâm BDCT nhằm làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng thấm sâu vào đời sống tinh thần xã hội và chi phối toàn bộ mọi hoạt
động của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng
an ninh, mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên đều dựa trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa còn tập trung
vào nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; chủ trương, cơ chế, chính sách của địa phương cho cán bộ, đảng


16
viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn cấp huyện. Đây là một nội dung
quan trọng trong công tác giáo dục LLCT và tuyên truyền miệng tại các Trung
tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa. Hồ Chí Minh giải
thích: "Vì sao phải học tập đường lối của Đảng, vì có nắm vững đường lối cách
mạng, mới hiểu rõ cần phải làm gì và đi theo phương hướng gì để thực hiện mục
đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay" [40, tr.231]. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn cho thấy, cán bộ, đảng viên nào học tập
nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước thì giải quyết công việc khá hiệu quả và ngược lại cán bộ, đảng viên nào

không nắm vững đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì lúng túng,
bị động khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Cán bộ, đảng viên không nắm
vững nên không dám làm, không dám giải quyết công việc, dẫn đến tình trạng
những những khó khăn, vướng mắc tại đơn vị, địa phương mình. Thậm chí có
trường hợp cán bộ, đảng viên giải quyết công việc trái với chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và trái với nguyện vọng của nhân
dân. Việc làm đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của cán bộ, đảng viên
đó mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, đến sự tồn tại và phát triển
của Đảng, của chế độ ta. Cho nên việc bồi dưỡng nâng cao trình độ trí tuệ, trong
đó có nhiệm vụ nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ, đảng viên cơ sở tại các
Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa ngày càng là hết
sức quan trong, cần được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt hiệu quả tốt hơn.
Ngoài các nội dung trên, Trung tâm BDCT cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa
còn bồi dưỡng các chuyên đề về truyền thống của Đảng, của dân tộc, các chính
sách về tôn giáo, chính sách dân tộc, về hội nhập kinh tế quốc tế, các nghị quyết
của các tổ chức đoàn thể nhân dân… giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận
thức đầy đủ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu rõ tình


17
hình trong nước, quốc tế, xu hướng vận động và phát triển của thời đại, từ đó
hành động phù hợp với tình hình của địa phương, của đất nước và thế giới.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng của Trung tâm BDCT nhằm nâng cao
nhận thức về LLCT, trang bị cho cán bộ, đảng viên cơ sở một thế giới quan
khoa học, một nhân sinh cộng sản, một phương pháp luận đúng đắn để cho
cán bộ, đảng viên có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện các vấn
đề thực tiễn ở cơ sở đặt ra và giải quyết đúng đắn, khoa học và đạt hiệu quả.
Ba là, giáo dục, tuyên truyền lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân
tộc ta; giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn cấp huyện.

Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa không
những trang bị những kiến thức LLCT ban đầu cho cán bộ, đảng viên, mà còn
chú trọng giáo dục, tuyên truyền mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc ta:
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây là mục tiêu xuyên suốt trong đường
lối cách mạng của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu đó được diễn đạt
là: Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu hiện
nay là sớm đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Muốn đạt được mục tiêu trên, trước hết Đảng ta phải tiến
hành giáo dục, tuyên truyền nhằm hình thành các lớp thế hệ Việt Nam có
phẩm chất đạo đức, có trí tuệ, có sức khỏe mới hoàn thành tốt mục tiêu,
nhiệm vụ của Đảng, của dân tộc đề ra. Trong công cuộc đổi mới đi lên xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được
phát triển một cách toàn diện. Con người phải có cái tâm trong sáng, có trí tuệ
mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới, thời kỳ CNH, HĐH đất
nước.


18
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Trong quá trình hội
nhập bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế thị trường, thời cơ của quá trình
hội nhập thì mặt trái của nó đã và đang gây cho chúng ta không ít khó khăn,
thách thức, đó là bệnh chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội thực dụng chạy theo
lợi ích vật chất tầm thường chà đạp lên lợi ích của tập thể, của cộng đồng;
bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng… ngày càng diễn ra
nghiêm trọng. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị thoái hóa biến
chất, trong đó có cả đảng viên có chức, có quyền đang là lực cản rất lớn đến
bước đường phát triển của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức
sâu sắc những vấn đề trên và xác định đó là một trong những nguy cơ, thách

thức lớn ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của Đảng, của chế độ. Để khắc
phục tình trạng trên, Đảng đã đề ra nhiều biện pháp, song trên thực tế những
biểu hiện đó đang còn diễn biến hết sức phức tạp, chúng ta vẫn chưa ngăn
chặn và đẩy lùi kịp thời. Một trong những nguyên nhân đó là, trong thời gian
trước chúng ta quá tập trung chăm lo phát triển kinh tế, chưa thật sự quan tâm
đúng mức đến công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Trong những năm gần đây, Đảng nhận thức rõ tầm quan trọng của
công tác giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên, Đảng đã tổ chức rất
nhiều đợt học tập về đạo đức cách mạng, đặc biệt triển khai học tập đạo đức Hồ
Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Và coi đó là
một trong những giải pháp để khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức cách mạng, lối sống
cho quần chúng nhân dân, mà trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn
được các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa đặc
biệt quan tâm, chú trọng triển khai thực hiện. Trong những năm qua các Trung


19
tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa đã mở hàng ngàn lớp
"Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh" theo tinh thần Chỉ thị 23 của Bộ Chính trị;
"Giáo dục đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước"; các chuyên đề: "Học tập và làm theo tấm gương và
đạo đức Hồ Chí Minh" theo tinh thần Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị; Học tập 2
tác phẩm: "Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân" và tác
phẩm "Di chúc"; Học tập chuyên đề: "Tư tưởng của Hồ Chí Minh về thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu" và tác phẩm "Sửa đổi lối
làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài các tác phẩm và các chuyên đề học tập theo sự hướng dẫn của
Ban Tuyên giáo Trung ương, các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố

đã lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức vào tất cả các chương trình bồi
dưỡng, tuyên truyền như: Chương trình bồi dưỡng đối tượng Đảng; Chương
trình bồi dưỡng LLCT cho đảng viên mới; Chương trình sơ cấp LLCT, các
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ trong HTCT cơ sở,
trong các buổi tổ chức hội nghị báo cáo viên.
Qua học tập, mỗi cán bộ, đảng viên đều nhận thức sâu sắc vai trò của
đạo đức, các phẩm chất đạo đức mới của người Việt Nam, nội dung rèn luyện
của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
nguyên tắc xây dựng đạo đức mới; ý nghĩa của việc rèn luyện đạo đức… Từ
đó, mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thường
xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng. Tự giác xây dựng chương trình, kế
hoạch rèn luyện cụ thể, sát thực, phù hợp với truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam, phù hợp với chuẩn về những phẩm chất đạo đức theo tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những phẩm chất của người Việt Nam theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII. Nhờ vậy, đã tạo sự chuyển biến


20
trong công việc cũng như trong rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên.
Đức và tài là hai tiêu chuẩn không thể thiếu trong mỗi một con người,
dù người đó sống ở thời đại nào, ở đâu và làm bất cứ việc gì đều cần phải có
đạo đức. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Có đức mà không có tài làm
việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô dụng. Đối với những người
cộng sản đức và tài là hai tiêu chuẩn vô cùng cần thiết, bởi theo quan điểm
của Người "Đảng phải là đạo đức là văn minh" thì mới hoàn thành được sứ
mệnh vẻ vang mà nhân dân tin tưởng giao cho. Người thường nhắc đi nhắc lại
ý của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương
tâm của dân tộc mình và của thời đại. Nếu xét đến cùng thì văn minh tức là trí
tuệ, trong đó chủ yếu là những hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin,

những tri thức hiện đại của nhân loại, qui luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ
vang. Còn đạo đức chính là những phẩm chất đòi hỏi con người cần phải có
để tham gia vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH, để cống hiến
được nhiều cho cuộc đấu tranh đó. Hồ Chí Minh quan niệm: Đạo đức là gốc,
là nền tảng, bởi vì muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có cái
tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, với cả dân tộc mình. Cái tâm cái đức ấy lại phải được thể hiện trong
mối quan hệ hàng ngày, với dân với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với
những người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức, có tầm mới giữ vững và
thực hiện được chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chủ trương cơ chế chính sách
của địa phương, mới giữ vững được lập trường quan điểm, không dao động
trước khó khăn, thử thách.
Đối với cán bộ, đảng viên cơ sở, đức - tài là hai phẩm chất không thể
thiếu, bởi vì mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của


21
Nhà nước có đi vào thực tiễn cuộc sống hay không, dân chúng có tin tưởng
vào Đảng và thực hiện đường lối của Đảng hay không một phần phụ thuộc
vào chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở. Cán bộ, đảng viên cơ sở
là người trực tiếp triển khai thực tổ chức hiện mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời cán bộ, đảng viên cơ sở
cũng là người cung cấp những cơ sở thực tiễn để Đảng hoạch định đường lối
cho cách mạng Việt Nam. Cán bộ, đảng viên cơ sở chính là cầu nối, nối liền
mối quan hệ giữa Đảng với dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là gốc
của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém" Hồ Chí Minh ví cán bộ như dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền
không tốt, không chạy, thì động cơ dù tốt, thì toàn bộ bộ máy cũng bị tê liệt,

cán bộ là người đem chính sách của Đảng và Chính phủ thi hành trong dân
chúng, nếu cán bộ dở thì chính sách hay mấy cũng không thực hiện được. Đối
với đội ngũ đảng viên lại càng quan trọng, bởi đảng viên là người tiền phong
gương mẫu trong cả lời nói và việc làm, chất lượng của đội ngũ đảng viên ảnh
hưởng rất lớn đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bởi "Đảng
mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên tốt". Nhận thức rõ tầm quan
trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên là người đầu tàu gương mẫu trong mọi
hoạt động, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cấp ủy tỉnh Thanh Hóa đã
tập trung dồn sức nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở,
trong đó tập trung chỉ đạo các Trung tâm BDCT cấp huyện tăng cường giáo
dục, tuyên truyền, nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở theo
tinh thần lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta thực hiện lời dạy của
V.I.Lênin: Học, học nữa, học mãi! phải cố gắng học, học nhiều, không học thì
không tiến bộ được, không học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình
đào thải mình.


22
Bốn là, phối hợp với Trường chính trị tỉnh đào tạo lớp trung cấp
LLCT cho cán bộ chủ chốt cơ sở; phối hợp với các ban, phòng, đoàn thể cấp
huyện bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho HTCT cơ sở.
Để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cho cơ sở theo Quy định số 54-QĐ/TW
của Bộ Chính trị ngày 12/5/1999 về chế độ học tập chính trị trong Đảng và để
tạo nguồn cán bộ cho cơ sở, các Trung tâm BDCT huyện đã phối hợp với
trường chính trị tỉnh mở hàng trăm lớp trung cấp LLCT, trung cấp hành chính,
trung cấp pháp lý đảm bảo số lượng và chất lượng. Hình thức đào tạo cán bộ
chủ chốt ở cơ sở là hình thức đào tạo không tập trung, hệ thống này phù hợp
với tình hình ở cơ sở hiện nay, giúp cho cán bộ chủ chốt cơ sở vừa có thể học
tập nâng cao trình độ cho cán bộ, đồng thời đảm bảo đủ chuẩn cho cơ sở có
người làm việc để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Qua đào

tạo, đội ngũ cán bộ đã vận dụng những kiến thức đã học vào quá trình công
tác đem lại năng suất, chất lượng ngày càng tốt hơn.
Cùng với việc phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở lớp, các Trung
tâm BDCT đã chủ động phối hợp với các phòng, ban, đoàn thể cấp huyện mở
các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ trong HTCT cơ sở như:
Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng (Kiểm tra, Dân vận, Tuyên giáo, Văn
phòng, Tổ chức); bồi dưỡng kiến thức nhà nước cho cán bộ trưởng phố, thôn,
HĐND, giáo dục pháp luật; bồi dưỡng nghiệp vụ cho đoàn thể chính trị- xã
hội như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội
Phụ nữ, Hội Nông dân... Qua bồi dưỡng cán bộ chủ chốt trong HTCT cơ sở,
nắm vững chủ trương, nghiệp vụ chuyên môn của tổ chức mình để thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao.
Nội dung, hình thức, phương pháp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ
trong HTCT hiện nay phù hợp, tạo điều kiện cho cán bộ trong HTCT có điều
kiện học hỏi kinh nghiệm hay cách làm tốt của đơn vị bạn, học viên được giải


23
đáp những vướng mắc băn khoăn của cơ sở, tạo ra sự thống nhất trong ý chí
và hành động, giúp cán bộ cơ sở thành thạo trong công việc được phân công.
Năm là, hàng tháng tổ chức thông tin định hướng cho cán bộ, đảng viên
cơ sở thông qua đội ngũ báo cáo viên thành phố và tuyên truyền viên cơ sở.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh như vũ bão, đặc biệt là
khoa học công nghệ thông tin. Sự phát triển đó đã đem lại cho chúng ta không
ít những thành tựu, những cơ hội để phát triển, mặt khác nó cũng gây cho
chúng ta những khó khăn. Hiện nay có rất nhiều phương tiện thông tin: đài,
báo, ti vi... nội dung thông tin phong phú, đa chiều, thông tin đến với người
dân rất nhanh. Có những nội dung thông tin chúng ta kiểm soát được, có
những nội dung thông tin ngoài luồng chúng ta chưa kiểm soát hết. Do đó,
công tác tổ chức thông tin định hướng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là

hết sức quan trọng, giúp cho cán bộ, đảng viên phân luồng thông tin, lựa chọn
thông tin đúng để quyết định hành động của mình đúng với định hướng của
Đảng và Nhà nước. Nội dung định hướng thông tin tại các Trung tâm BDCT
huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa rất phong phú và đa dạng, đó là
những thông tin định hướng trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, chính sách đối ngoại... của Đảng, Nhà
nước, của địa phương. Đồng thời Trung tâm BDCT cấp huyện cũng tiếp nhận
các thông tin từ cơ sở phản ánh ngược trở lại để giúp cấp ủy huyện nắm bắt
tình hình diễn biến ở cơ sở, từ đó có biện pháp giải quyết các vấn đề của cơ sở
đặt ra, không để tình trạng bức xúc và khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt
cấp. Chính việc làm này đã tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Sáu là, thườmg xuyên tuyên truyền những tấm gương điển hình tiên
tiến trong thời kỳ mới. Nêu cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên trong đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực trong cơ quan,
đơn vị. Chống lại các luận điệu xuyên tạc, âm mưu diễn biến hòa bình của


24
các thế lực thù địch, Bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ ta, bảo vệ công
cuộc đổi mới.
Trung tâm BDCT huyện ở Thanh Hóa có một vai trò quan trọng việc
giáo dục LLCT, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, nghiệp vụ chuyên môn cho
cán bộ, đảng viên cơ sở. Giúp cho đội ngũ đảng viên vừa trí tuệ, có năng lực,
vừa có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục
tiêu lý tưởng của Đảng. Nắm vững và vận dụng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn địa phương, góp phần
thúc đẩy kinh tế, văn hoá, xã hội địa phương phát triển. Kiên quyết đấu tranh
với hiện tượng sai trái tiêu cực, các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch,
đặc biệt là âm mưu diễn biến hòa bình.

Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa có một
vai trò quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng nói riêng và trong công
tác xây dựng Đảng nói chung. Chính vì tầm quan trọng của nó Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X yêu cầu: " Kiện toàn tổ chức nâng cao chất
lượng hoạt động của các Trường chính trị tỉnh, các Trung tâm BDCT cấp
huyện và các Trường dân tộc nội trú để đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở". Trên
tinh thần đó, Nghị quyết Trung ương 6 khóa X khẳng định: " Tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao" Nghị quyết yêu cầu: " Hàng năm cán bộ chuyên trách,
cấp ủy viên cơ sở xã phường, thị trấn phải được bồi dưỡng để cập nhật kiến
thức tại Trung tâm BDCT cấp huyện hoặc Trường chính trị tỉnh" [27].
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của các Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay


25
Ngày 3/6/1995 Ban Bí thư Trung ương ban hành quyết định 100QĐ/TW về việc tổ chức Trung tâm BDCT ở cấp huyện, Ban Tổ chức Trung
ương và Ban Tuyên giáo Trung ương đã kịp thời có hướng dẫn số 08-TCTTVH/TW, ngày 26/8/1995 về việc thực hiện quyết định 100-QĐ/TC-TTVH/
TW. Hướng dẫn đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của Trung tâm BDCT cấp huyện, việc ban hành hướng dẫn này đã tạo sự
thống nhất trong tổ chức hoạt động của Trung tâm BDCT và giúp các Trung
tâm BDCT đi vào hoạt động thường xuyên và có nề nếp.
Thực hiện hướng dẫn số 08-TC-TTVH/TW được 7 năm, Ban Tổ chức
Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã nhận thức rõ những
bất cập và tiếp tục ban hành hướng dẫn số 2098- TC-TTVH/TW ngày
28/8/2002, hướng dẫn sửa đổi bổ sung Hướng dẫn số 08-TC-TTVH/TW.
Ngoài 2 hướng dẫn trên, Ban Tuyên giáo Trung ương còn có một loạt
các hướng dẫn khác nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm

BDCT cấp huyện như: Qui định 183-QĐ/TT-VH/TW ngày 26/7/2002 của Ban
Tư tưởng- Văn hóa Trung ương về giảng dạy và học tập của Trung tâm
BDCT, qui định đã xác định rõ tiêu chuẩn, quyền lợi, nhiệm vụ của người dạy
và người học, giúp cho đội ngũ giảng viên của các Trung tâm BDCT ngày
càng được chuẩn hóa, đồng thời bản thân giảng viên, học viên cũng nhận thức
rõ trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy và học; Qui
định số 184-QĐ/TT-VH ngày 26/7/2002, của Ban Tuyên giáo Trung ương về
việc tổ chức kiểm tra, thi tốt nghiệp, cấp giấy chứng nhận cho người học tại
Trung tâm BDCT cấp huyện, qui định các chương trình cấp giấy chứng nhận,
điều kiện cấp giấy, việc tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả học tập, xếp loại,
mẫu giấy chứng nhận.
Cùng với các qui định về công tác giáo dục LLCT nêu ở trên các
Trung tâm BDCT còn thực hiện một số các văn bản của Trung ương về nâng
cao chất lượng hoạt động của công tác tuyên truyền miệng: Chỉ thị số 14-


×