Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vấn đề bảo vệ an ninh tổ quốc trên báo in ngành công an hiện nay (khảo sát trên 03 tờ báo công an nhân dân, an ninh thủ đô, công an thành phố hồ chí minh, từ tháng 12015 đến tháng 122015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

LỜI CAM ĐOAN

LÊ THỊ HOA
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu ra trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRÊN
BÁO
Tác giả luận
văn IN
NGÀNH CÔNG AN HIỆN NAY
Lê Thị Hoa
(Khảo sát trên 03 tờ báo Công an nhân dân, An ninh Thủ
đô, Công an thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 1/2015
đến tháng 12/2015)

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------



LÊ THỊ HOA

VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRÊN BÁO IN
NGÀNH CÔNG AN HIỆN NAY
(Khảo sát trên 03 tờ báo Công an nhân dân, An ninh Thủ đô,
Công an thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 1/2015 đến tháng
12/2015)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Chí Nghĩa

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu ra trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Lê Thị Hoa


Lời cảm ơn
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình đào tạo Cao học, chuyên ngành Báo chí học khóa

2014 – 2016, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc
gia Hà Nội, những người đã truyền đạt cho tôi rất nhiều kiến thức hữu ích làm
cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PSG.TS Đỗ Chí Nghĩa – Tổng Biên tập báo
Đại biểu nhân dân đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi nhiều kiến thức cũng
như kinh nghiệm quý báu trong thời gian thực hiện luận văn. Tôi xin cảm ơn
đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp….đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ trong
việc quá trình tôi thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRÊN BÁO IN NGÀNH
CÔNG AN HIỆN NAY ................................................................................. 10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài ....................................... 10
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ
quốc trong tình hình mới và trách nhiệm của báo chí về vấn đề bảo vệ an
ninh Tổ quốc .................................................................................................. 19
1.3. Đặc điểm, thế mạnh của báo in ngành Công an trong việc
tuyên truyền bảo vệ an ninh Tổ quốc……………………………………..25
1.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng bài viết vềbảo vệ an ninh Tổ quốc
trên báo in ngành Công an hiện nay ........................................................... 27
1.5. Giới thiệu về 3 tờ báo khảo sát .................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ
QUỐC TRÊN BÁO IN NGÀNH CÔNG AN HIỆN NAY ......................... 35

2.1. Tần suất tin bài về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc trên báo in
ngành Công an hiện nay ............................................................................... 35
2.2. Nội dung thông tin về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc trên báo
in ngành Công an hiện nay ........................................................................... 38
2.2.1. Tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về
vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc…………………………………………….38
2.2.2. Thông tin cảnh báo cho người dân về âm mưu, thủ đoạn của
tội phạm chống phá an ninh Tổ quốc…………………………………….40
2.2.3. Thông tin cách thức phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ an
ninh Tổ quốc………………………………………………………………..47


2.2.4. Tuyên truyền những mô hình, gương sáng trong phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc…………………………………………………….50
2.3. Hình thức thông tin về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc trên báo
in ngành Công an hiện nay ........................................................................... 56
2.4. Đánh giá thành công, hạn chế của báo in ngành Công an hiện
nay trong việc tuyên truyền về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc ............... 62
2.5. Nguyên nhân thành công và hạn chế ......................................... 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THÔNG
TIN VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRÊN BÁO IN
NGÀNH CÔNG AN HIỆN NAY ................................................................. 72
3.1. Tình hình trong nước và thế giới và những tác động đến vấn đề
bảo vệ an ninh Tổ quốc của nước ta ............................................................ 72
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề bảo vệ an
ninh Tổ quốc trên báo in ngành Công an ................................................... 75
3.3. Một số kiến nghị, đề xuất ............................................................ 84
KẾT LUẬN .......................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................... 92
PHỤ LỤC ............................................................................................. 96



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
An ninh Tổ quốc

ANTQ

Công an nhân dân

CAND

An ninh Thủ đô

ANTĐ

Công an Thành phố Hồ Chí Minh

CATPHCM


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tần suất nội dung tuyên truyền về vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc
trên báo in ngành Công an hiện nay ................................................................
Bảng 2.2:Thống kê những chủ đề tuyên truyền về âm mưu, thủ đoạn và cách
phòng, chống tội phạm bảo vệ ANTQ ............................................................
Bảng 2.3: Đánh giá của công chúng trong về vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo in
ngành Công an hiện nay………………………………………………………
Bảng 3.1: Hình thức thể hiện ..........................................................................

\



MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần
đứng lên chiến đấu chống giặc ngoại xâm, đã viết vào những trang sử vẻ
vang, oanh liệt. Với các thế lực xâm lược mạnh hơn gấp nhiều lần, dân tộc ta
đã biết “lấy đại nghĩa để chiến thắng hung tan”, “đem chí nhân để thay cường
bạo”, biết “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”, xây dựng nên truyền thống
chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất. Truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”.
Đây chính là nét nổi bật của lịch sử hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt
Nam.Vì vậy, dựng nước và giữ nước là quy luật của dân tộc Việt Nam. Để
phát huy truyền thống đó, ngày nay dân tộc Việt Nam vẫn luôn coi trọng quy
luật dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn đi đôi với bảo vệ Tổ quốc,
đặt nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc (ANTQ) là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng
liêng của toàn thể nhân dân.
Hiện nay trên thế giới, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động
chống phá ta về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, đẩy mạnh thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, tập trung chống
phá đại hội Đảng các cấp với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc, các loại tội
phạm có xu hướng gia tăng với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, manh
động hơn; vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra gay gắt, phức tạp, đe
dọa đến toàn vẹn lãnh thổ nước ta.


Trong nước, tình hình an ninh chính trị - kinh tế vẫn ổn định, tuy nhiên

vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém, xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp
đe dọa đến an ninh, trật tự và sự ổn định của đất nước như vẫn còn xảy ra rất
nhiều tình trạng mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bọn phản động, bất mãn
đội lốt tôn giáo đã lén lút hoặc công khai truyền bá trái phép, kích động giáo
dân ở một số địa phương gây rối, có trường hợp kẻ địch lợi dụng gây bạo loạn
chính trị. Về mặt xã hội, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm có xu hướng
gia tăng, các tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, xử lý một cách kiên quyết và
có hiệu quả. Đó là những nhân tố không nhỏ tác động đến sự ổn định chính trị
- xã hội và an ninh trật tự của đất nước. Chính vì vậy, công tác bảo vệ an ninh,
trật tự xã hội đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi
hỏi phải có cách suy nghĩ mới, có hướng đi mới. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt
ra trong tình hình hiện nay của nước ta là phải đẩy mạnh vấn đề bảo vệ
ANTQ, góp phần giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện đất nước ta đang tích cực thực hiện công cuộc đổi mới,
tăng cường bảo vệ ANTQ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước ta.Bảo vệ ANTQ là vấn đề cơ bản, hệ trọng của mỗi quốc gia, là
điều kiện đầu tiên để mỗi quốc gia tồn tại và phát triển. Bảo vệ ANTQ là bảo
vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ những giá trị văn hóa
truyền thống; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, bảo vệ ANTQ là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân, nó còn là nghĩa vụ, là trách nhiệm đồng thời là lợi ích
của mọi công dân. An ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội có được bảo vệ tốt
hay không là do sự ngộ giác của nhân dân, quyền làm chủ của toàn dân và
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo

2



của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nhân dân làm chủ, lực lượng công an làm
nòng cốt.
Góp phần quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là báo
chí.Trong những năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ ANTQ. Báo chí đã phát huy tốt vai trò
nòng cốt trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước; báo chí đã phân tích, làm sáng tỏ tính đúng đắn, khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp cách mạng, xây dựng
đất nước giàu mạnh, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc. Hiện nay, báo chí
đã có những đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ ANTQ như báo chí phán
ánh kịp thời đúng bản chất, mưu mô thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù
địch.
Cùng với báo chí trong cả nước, báo chí ngành Công an đã và đang
thực hiện mục tiêu cao cả, đó là tuyên truyền về vấn đề bảo vệ ANTQ và đây
cũng là nội dung trọng tâm phản ánh của báo. Báo chí đã cùng với lực lượng
Công an nhân dân (CAND) nhận thức rõ yêu cầu, nhiệm vụ của mình, phối
hợp tuyên truyền, tăng cường phòng, chống chiến tranh tâm lý, phá hoại tư
tưởng, kịp thời đấu tranh phản bác có hiệu quả những luận điệu sai trái, xuyên
tạc thù địch, giúp nhân dân nhận được đâu là bạn, đâu là thù, góp phần củng
cố xây dựng và bảo vệ ANTQ vững chắc, hòa bình và ổn định.
Những năm qua, vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo ngành Công an đã có
sức lan tỏa cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với hàng trăm mô hình, điển hình
tiên tiến, hàng chục ngàn tấm gương người tốt, việc tốt và rất nhiều đợt
phòng, chống tội phạm đã đạt được kết quả to lớn, đưa công tác bảo vệ
ANTQ trở thành sức mạnh đoàn kết của từng khối, từng ngành, từng lực
lượng và toàn thể nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

3



toàn xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh. Để thấy được những đóng góp
quan trọng của báo chí trong việc bảo vệ ANTQ, tác giả đã được sự đồng ý
vàhướng dẫn của PGS. TS Đỗ Chí Nghĩa mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vấn
đề bảo vệ an ninh Tổ quốc trên báo in ngành Công an hiện nay” làm đề
tài bảo vệ luận văn thạc sỹtại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
chuyên ngành Báo chí học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, báo chí có vai trò rất quan trọng trong đời
sống. Do vậy, đã có rất nhiều cuốn sách lý luận ra đời viết về vai trò của báo
chí như Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, hay những cuốn sách lý luận về
nghiệp vụ báo chí như “Các thể loại báo chí thông tấn”, “Các thể loại báo chí
chính luận”, “Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật”… Để báo chí thực
sự phát huy được vai trò là lực lượng tiên phong trong việc phán ánh đời sống
kinh tế, xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần giữ gìn an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề bảo vệ ANTQ. Như luận văn “Báo CAND với công cuộc đấu tranh
chống các tư tưởng thù địch hiện nay” tác giả Vũ Mạnh Hà. Thành công của
luận văn nói lên ưu, nhược điểm của việc chống các tư tưởng thù địch và tìm
ra biện pháp, hướng giải quyết trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch
hiện nay.
Luận văn “Thông tin về điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ
ANTQ” tác giả Nguyễn Kim Anh năm 2013 (Học viện báo chí tuyên truyền).
Luận văn chỉ ra những ưu, nhược điểm của thông tin về điển hình tiên tiến; sự
tác động của các thông tin về điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ
ANTQ đến quần chúng nhân dân; đưa ra các giải pháp, đề xuất để nâng cao
chất lượng, hiệu quả của thông tin được báo phản ánh, đáp ứng nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi của phong trào bảo vệ ANTQ trong tình hình mới; phát huy mọi

4



nguồn lực của xã hội cũng như sức mạnh dồi dào của báo chí đến phong trào
bảo vệ ANTQ.
Luận văn “Báo chí công an nhân dân với việc giáo dục pháp luật cho
lực lượng công an nhân dân” của Nguyễn Thị Thu Phương, năm 2006 (Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn). Luận văn nói về công tác xây dựng lực
lượng CAND, trong đó yếu tố giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ trọng tâm.
Đồng thời, tác giả muốn tìm hiểu những hạn chế, nhược điểm khi đăng tải
những vấn đề liên quan đến pháp luật trên các ẩn phẩm được khảo sát. Đưa ra
một số giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trên hệ thống báo chí công an.
Luận văn “Những đóng góp của báo CAND trong sự nghiệp đổi mới và
xây dựng lực lượng CAND” tác giả Nguyễn Trí Dũng. Tác giả nghiên cứu,
phân tích vấn đề đổi mới, xây dựng và đóng góp của báo CAND, đồng thời
đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của tờ báo.
Luận văn thạc sĩ báo chí học có tên “Chương trình truyền hình vì an
ninh Tổ quốc ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long”. Khảo sát chương trình
An ninh ở các tỉnh Cà Mau, An Giang và Đồng Tháp từ tháng 1/2012 đến
tháng 6/2012 của tác giả Lê Hoàng Giang.
Luận văn thạc sĩ báo chí học có tên “Vấn đề phòng, chống tội phạm
công nghệ cao trên Báo Công an nhân dân” (giai đoạn 2009 – 2011), tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Vinh; hay khóa luận “Báo CAND với vấn đề thực hiện
NĐ 87CP về việc phòng, chống tệ nạn xã hội” (Khóa luận tốt nghiệp năm
1998 của tác giả Ngô Thị Hải Yến), “Báo CAND với công tác tuyên truyền
chống tệ nạn mại dâm” (Khóa luận tốt nghiệp năm 1998 của tác giả Vũ Thị
Kiều Oanh), trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả thấy tất cả những luận
văn trên chỉnghiên cứu, khảo sát trên một phạm vi nhỏ hẹp của vấn đề bảo vệ


5


ANTQ hoặc đi sâu nghiên cứu về công tác tuyên truyền chung trong lực
lượng CAND; một số luận văn nghiên cứu về tình hình xây dựng lực lượng
CAND trong thời kỳ đổi mới nhưng lại chưa có đề tài nghiên cứu về vấn đề
bảo vệ ANTQ trên báo in ngành Công an hiện nay.
Như vậy, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu, đánh giá một
cách toàn diện và thấu đáo về vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo in ngành Công
an, nhằm góp phần nâng cao chất lượng nội dung thông tin về vấn đề bảo vệ
ANTQ. Đồng thời, nghiên cứu sẽ giúp cho các nhà báo có những chiến lược
truyền thông nhằm tuyên truyền đến lực lượng nòng cốt là những chiến sỹ
Công an và toàn dân “đồng sức, đồng lòng” tham gia giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về báo chí và vai trò của báo chí đối
với việc bảo vệ ANTQ, luận văn phân tích, đánh giá làm sáng tỏ thực trạng
vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo chí ngành Công an, chỉ rõ thành công, hạn chế
và nguyên nhân thành công, hạn chế của báo chí ngành Công an trong lĩnh
vực này và đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền về vấn
đề bảo vệ ANTQ nhằm bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội góp
phần vào xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề tuyên truyền về bảo vệ
ANTQ trên báo in ngành Công an hiện nay.
Phân tích thực trạng vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo in ngành Công an
hiện nay, chỉ ra những thành công và hạn chế của vấn đề bảo vệ ANTQ.


6


Đề xuất giải pháp, kiến nghị để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng
tuyên truyền về vấn đề bảo vệ ANTQ trên báo in ngành Công an hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả các tin, bài phán ánh, bài
bình luận, phóng sự, điều tra…đề cập đến vấn đề bảo vệ ANTQ trên 03 tờ báo
Công an nhân dân, An ninh Thủ đô, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những tin, bài viết về đề tài bảo vệ ANTQ được
đăng tải trên các báo CAND, ANTĐ, CATPHCM
Về thời gian: khảo sát từ tháng 1/2015 đến 12/2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về vấn đề bảo vệ ANTQ.
Phương pháp nghiên cứu văn bản: Tác giả sẽ nghiên cứu văn bản, chỉ
thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác bảo
vệ ANTQ;chủ trương của Đảng ủy Bộ Công an về công tác xây dựng lực
lượng công an và những yêu cầu đổi mới báo chí CAND, từ đó có những định
hướng chiến lược phát triển báo chí CAND, đáp ứng yêu cầu công tác tuyên
truyền về nhiệm vụ bảo vệ ANTQ.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá để lý giải những vấn đề, xác
định những luận điểm, luận cứ, thấy được ưu điểm và hạn chế trong việc
tuyên truyền về vấn đề bảo vệ ANTQ. Đồng thời sử dụng phương pháp này,
giúp tác giả thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài
liệu liên quan đến vấn đề bảo vệ ANTQ để rút ra các kết luận khoa học cần


7


thiết, không ngừng bổ sung, phát triển làm phong phú nội dung, hình thức
tuyên truyền về vấn đề bảo vệ ANTQ của nước ta.
Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn lãnh đạo các cơ quan báo chí,
lãnh đạo ngành Công an, các chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong lực lượng CAND. Dựa trên kết quả hay những lời nhận xét của người
được phỏng vấn, luận văn sẽ thể hiện được vai trò báo chí đối với nhiệm vụ
bảo vệ ANTQ, từ đó tác giả đánh giá được chất lượng nội dung, hình thức
tuyên truyền và đưa ra những giải pháp cụ thể, nhất là trong tình hình hiện
nay.
Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả sử dụng 200 phiếu câu hỏiđể
đánh giá những nhận xét của công chúng khi tiếp nhận những thông tin liên
quan đến tình hình ANTQ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
– LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những văn kiện, chỉ thị của Đảng và Nhà
nước về vấn đề bảo vệ ANTQ, các báo cáo tổng kết, chỉ thị thống kê của các
bộ, ngành, kết quả điều tra nghiên cứu thực tế có liên quan đến đề tài là cơ sở
lý luận, thực tiễn của đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài là tài liệu tham khảo, bổ ích cho các nhà nghiên
cứu lý luận báo chí và những người làm báo.Luận văn không chỉ là tài liệu
tham khảo cho loại hình báo in mà nó còn là tài liệu tham khảo cho các loại
hình báo chí khác trong việc tuyên truyền về vấn đề bảo vệ ANTQ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần quan trọng giúp
Đảng, Nhà nước, ngành Công an, các cơ quan báo chí, phóng viên, nhà báo,

toàn dân nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn, chính xác hơn nữa về tầm quan trọng

8


của vấn đề bảo vệ ANTQ, từ đó có cách thức truyền tải thông điệp tốt hơn,
thiết thực hơn trong công tác bảo vệ ANTQ.
Những kiến nghị, giải pháp mà đề tài đưa ra cũng sẽ góp phần tăng
cường và phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền vấn đề
bảo vệ ANTQ, đặc biệt là báo in ngành Công an. Dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào, thời điểm nào, tất cả nhân dân cả nước đều phải cùng chung tay và tích
cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động, bảo
vệ cái đúng, cái tốt...đó chính là động lực để phát triển sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vững chắc, hùng mạnh.
7. Bố cục của luận văn
Dựa trên nội dung chính mà luận văn đặt ra, tác giả chia luận văn làm 3
chương lớn và có thêm phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo.
Mở đầu: Gồm các nội dung: Lý do chọn đề tài, Lịch sử vấn đề nghiên
cứu, Đối tượng nghiên cứu, Phạm vi nghiên cứu, Phương pháp nghiên cứu...
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo vệ an ninh
Tổ quốc trên báo in ngành Công an hiện nay.
Chương 2: Thực trạng vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc trên một số tờ
báo in ngành Công an hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề
bảo vệ an ninh Tổ quốc trên báo in ngành Công an hiện nay.

9


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

VẤN ĐỀ BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRÊN BÁO IN NGÀNH
CÔNG AN HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. An ninh Tổ quốc, bảo vệ An ninh Tổ quốc
An ninh hiểu theo nghĩa rộng là sự an toàn, ổn định chung của một đất
nước, một xã hội. Hoặc hiểu theo cách nói đơn giản hơn, đó là khả năng có
thể giữ vững sự an toàn trước các mối đe dọa. Mỗi một quốc gia có quan niệm
khác nhau về An ninh Tổ quốc (ANTQ) tùy thuộc vào vị thế cũng như đặc
điểm, hoàn cảnh, điều kiện của quốc gia nhưng điểm chung nhất đều đề cập
đến sự an toàn của những lợi ích, quan điểm sống còn của Nhà nước, xã hội
và cá nhân trước những nguy cơ đe dọa đến sự an toàn, ổn định của chế độ
Nhà nước và xã hội [34, tr. 222].
Từ điển bách khoa Công an nhân dân (CAND) Việt Nam năm 2005
định nghĩa An ninh Tổ quốc là “Sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ
xã hội, độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan
trọng khác của một quốc gia”[34, tr. 222].
Thuật ngữ An ninh Tổ quốc đã được đề cập trong nhiều văn bản của
Đảng, Nhà nước như: các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
IX, X, XII; Chỉ thị số 60 CT/TW ngày 26/5/1990 của Bộ Chính trị về nhiệm
vụ bảo vệ An ninh quốc gia trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay. Nghị quyết số
40/NQ – TW ngày 08/11/2004 về nâng cao chất lượng hiệu quả công tác công
an trong tình hình mới…[34, tr. 222].
Đặc biệt trong Luật An ninh quốc gia được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004
quy định:“An ninh Tổ quốc là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã

10



hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.An
ninh Tổ quốc bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng –
văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại…trong đó an ninh chính trị là cốt lõi,
xuyên suốt [34, tr. 223].
Từ điểnbách khoa CAND Việt Nam năm 2005 định nghĩa: Bảo vệ An
ninh Tổ quốc là “Tổng hợp các hoạt động nhằm đảm bảo sự ổn định và phát
triển bền vững của một chế độ xã hội, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và các lợi ích quan trọng khác của một quốc gia”[34, tr. 225].
Theo quy định của Luật An ninh quốc gia, bảo vệ ANTQ là phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại đến
An ninh quốc gia [34, tr. 225].
Bảo vệ ANTQ là vấn đề hệ trọng nhất của mỗi quốc gia bởi nó liên
quan trực tiếp đến vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Bảo vệ ANTQ ở nước
ta luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị cũng như của toàn dân nhằm làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
xâm phạm An ninh quốc gia. Theo Điều 3 Luật An ninh quốc gia “hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia là hành vi xâm hại chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hoạt động xâm phạm ANTQ của các thế lực thù địch, tội phạm khác là hành
vi xâm hại tới ANTQ từ nhiều phía, cả bên trong và bên ngoài, tới mọi mặt
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tới hầu hết những lĩnh vực
an ninh, quốc phòng, đối ngoại của an ninh quốc gia. Điều này cũng cho thấy
mọi mặt của đời sống đều trực tiếp tác động đến an ninh quốc gia, chính vì
vậy người ta ví ANTQ như hệ thần kinh của một cơ thể sống. Chính lẽ đó,bảo

11



vệ ANTQ là bảo vệ khách thể quan trọng bậc nhất của chế độ nhà nước ta
hiện nay [34, tr. 225].
Hoạt động bảo vệ ANTQ không chỉ là đấu tranh ngăn chặn những
hành vi xâm hại tới ANTQ mà còn phải ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ đe
dọa tới ANTQ. Nguy cơ đe dọa đến ANTQ bao gồm những nguy cơ phát sinh
trong nội bộ, nội địa, từ sự sai lầm trong hoạch định đường lối chính sách,
trong tổ chức thực hiện.Những nguy cơ bên ngoài thường xuất phát những âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài.Nguy cơ từ bên ngoài đặc
biệt nguy hiểm đối với ANTQ trong tình hình hiện nay khi Việt Nam ra nhập
ngày càng sâu rộng với thế giới. Các thế lực thù địch triệt để khai thác những
khó khăn, yếu kém của ta để lợi dụng thâm nhập sâu vào nội địa, xã hội gây
sức ép về chính trị, kinh tế, gây chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, tạo dựng các
tổ chức đối lập nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tiến hành
bạo loạn chính trị lật đổ Nhà nước ta [34, tr. 226].
Nội dung bảo vệan ninh Tổ quốc gồm:
Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ: Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ
chính trị và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng
Cộng sản Việt Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ
chức Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và
người lao động Việt Nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngoài.
Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá hệ thống chính trị gây chia rẽ mất đoàn kết làm tha hóa
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ luôn là nhiệm vụ
trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của
các ngành, các cấp.
Bảo vệ an ninh kinh tế: Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh
của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
12



nghĩa. Chống các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật
chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác
hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, các nhà
khoa học, các nhà kinh doanh giỏi không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc
gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng: An ninh văn hóa, tư tưởng là sự ổn
định và phát triển bền vững của văn hóa, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa
Mac – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội; bảo
vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ
đội ngũ văn nghệ sỹ, những người làm công tác văn hóa, văn nghệ. Đấu tranh
chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ
nghĩa Mác – Lê ninh và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động
truyền bá văn hóa phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù hợp
với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.
Bảo vệ an ninh dân tộc: Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước; ngăn
ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm
việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Bảo vệ an ninh biên giới: Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý ngăn
cách chủ quyền quốc gia và không gian hợp tác phát triển với các nước mà
trước hết là với các nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền
biên giới quốc gia đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ
chiến lược cực kỳ quan trọng. Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh,
trật tự của Tổ quốc ở khu vực Biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên biển,
chống các hành vi xâm phạm chủ quyền biên giới từ phía nước ngoài, góp
13



phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng
theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển,
đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhập cảnh, quá cảnh Việt
Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Bảo vệ an ninh thông tin: An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng,
chính xác và bí mật của thông tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu
nhận, xử lý và lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là một bộ phận quan trọng
của công tác bảo vệ an ninh quốc gia nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện
và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn
tội phạm khác nhằm khai thác, sử dụng hệ thống thông tin liên lạc hoặc tiến
hành các hoạt động phá hủy công trình, phương tiện thông tin liên lạc hoặc
tiến hành các hoạt động phá hủy công trình, phương tiện thông tin liên lạc gây
thiệt hại cho ANQG của nước ta; chống lộ lọt những thông tin bí mật của nhà
nước; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông tin trái phép, dò tìm mật mã,
mật khẩu để đánh cấp thông tin trên mạng.
Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội: là trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương
trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và
chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. Giữ gìn trật tự an toàn xã hội là hoạt
động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự nơi
công cộng, bài trừ tệ nạn xã hội, phòng ngừa tai nạn, bảo vệ môi trường [24,
tr. 163].
1.1.2. Báo in và báo in ngành Công an
Báo chí là một hiện tượng xã hội có quá trình phát triển lâu đời, ngày
càng chi phối rộng rãi và mạnh mẽ đến mọi tiến trình xã hội. Do đó trong quá
trình phát triển, khái niệm báo chí được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp .

14



Báo chí được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm báo in, báo phát thanh, báo
truyền hình, báo mạng internet là những kênh truyền thông đại chúng sản
xuất, và quảng bá thông tin thường xuyên, liên tục nhất, trên phạm vi rộng lớn
nhất, có tác động đến nhiều người nhất, đa dạng và phong phú. Theo nghĩa
hẹp, đó là báo, tạp chí – báo in và các sản phẩm in ấn khác, bao gồm nhật báo,
báo tuần, tạp chí...
Vậy báo in là gì? Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dũng, trong cuốn “Cơ sở
lý luận báo chí”, xuất bản năm 2012, cho rằng, báo in là một ấn phẩm xuất
bản định kỳ, bằng ký hiệu chữ viết, hình ảnh và các ngôn ngữ phi văn tự,
thông tin về các sự kiện và vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi và định kỳ nhằm
phục vụ công chúng – nhóm đối tượng nào đó với mục đích nhất định [7,
tr.101].
Trong cuốn “Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí, xuất bản
(tài liệu bồi dưỡng chức danh biên tập viên, phóng viên) – tập 2, các tác giả
tham gia biên soạn đã thống nhất, báo in gồm báo và tạp chí, những ấn phẩm
định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành
rộng rãi trong xã hội thông qua các công cụ như máy in, mực in và giấy [5,
tr.37].
Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn “Truyền thông đại chúng” xuất
bản năm 2001, báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin
mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp
này, thuật ngữ báo in được dùng để chỉ hai bộ phận: báo và tạp chí [33, tr.81].
Tóm lại, báo in là thể loại báo chí được thể hiện bằng ngôn ngữ chữ
viết, và phương tiện in ấn, có tính định kỳ, chuyển tải nội dung thông tin đến
với công chúng.
Báo in là loại hình truyền thông ra đời sớm nhất, đặt nền móng cho sự
phát triển của báo chí. Tuy nhiên, với sự ra đời của báo phát thanh, truyền

15



hình và đặc biệt là báo internet, đã khiến cho báo in ngày càng thu hẹp quy
mô sản xuất, số lượng phát hành. Dù luôn phải cạnh tranh với các loại hình
báo chí khác nhưng báo in không mất đi mà vẫn song song tồn tại cùng với
các thể loại báo chí khác, bởi các thế mạnh và đặc trưng mà các loại hình báo
chí khác không thể thay thế được.
Thông tin có độ tin cậy, chính xác, chuyên sâu và tính tư liệu cao: Khác với
các loại hình báo chí khác, thông tin của báo in luôn được bảo đảm do việc kiểm
duyệt, biên tập được thực hiện chặt chẽ kỹ lưỡng, khiến các thông tin trên báo in
được đảm bảo về tính chính xác, tính chính thống, tính khách quan. Các vấn đề
của đời sống, kinh tế, văn hóa… được thông tin một cách chuyên sâu, có chọn lọc.
Hiện nay, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão nên nhiều thông tin trên báo
mạng, phát thanh, truyền hình không thể chuyên sâu như báo in do vậy nhiều độc
giả không thích những tin bài giật gân, câu khách, sơ sài, đơn điệu. Hơn nữa, do
nhu cầu thông tin của công chúng nên thông tin của báo chí luôn được cập nhật
hàng giờ, vì vậy chất lượng tin bài thường ẩu, không có tính chiều sâu mà độc giả
cần, do đó rất nhiều công chúng vẫn tìm đến báo in.
Người đọc có thể hoàn toàn chủ động về địa điểm, thời gian và tư thế
trong việc tiếp nhận thông tin: So với các loại hình báo chí như phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử, đối với báo in, công chúng hoàn toàn có thể
chủ động về địa điểm, thời gian và tư thế trong việc tiếp nhận thông tin. Các
sản phẩm báo in rất thuận tiện khi mang theo vì nó gọn nhẹ, độc giả có thể
đọc bất cứ khi nào mình rảnh, mình thích. Độc giả có thể chủ động trong cách
thức đọc tác phẩm, họ có thể đọc lướt qua, có thể đọc phần đầu, hay phần
cuối, hoặc chi tiết vào phần nào họ thích, trong khi phát thanh, truyền hình thì
công chúng có thể xem bất cứ khi nào nhưng phải theo dõi hết chương trình
thì họ mới có thể hiểu nội dung, thông tin mà biên tập viên mang đến cho
công chúng là gì.

16



Khả năng lưu trữ cao: Với khả năng lưu trữ dạng vật chất (nhân bản trên
giấy và mực), khó có cách nào thay thế được dù là tiến bộ công nghệ thông tin và
khoa học ngày càng phát triển. Trong xu thế hiện nay, việc cung cấp thông tin qua
Internet gần như là một chiến lược tương đối với các báo.Nhưng nhiều độc giả đã
quen thuộc với báo in, họ sẽ thoái mãi khi đọc tờ báo in hơn so với phiên bản
online. Do vậy, nhiều độc giả vẫn chọn đọc thông tin trên báo in. Chính vì vậy,
đây là thế mạnh của báo in mà không loại hình báo chí nào có thể thay thế được.
Người đọc dễ dàng chuyền tay nhau các ấn phẩm báo in: Do đặc điểm
nhỏ gọn, nên người đọc dễ dàng mang đi bất cứ đâu, công chúng này đọc
xong có thể chuyền cho công chúng khác đọc, trong khi phát thanh, truyền
hình không thể có được điều đó.
Tính thông tin thời sự thấp hơn so với các loại hình báo chí khác, chu
kỳ xuất bản ngắn: Do báo in có tính định kỳ nên thông tin thời sự thường thấp
hơn loại hình báo chí khác.Vì vậy, việc cập nhật thời sự và độ nhanh của báo
in còn hạn chế.
Ký hiệu thông tin của báo in đơn điệu, chỉ có vài chữ và hình ảnh, thiếu
tính hấp dẫn. Sự đơn điệu đã giảm công chúng theo dõi bài báo. Thêm vào đó
người biết chữ mới có thể đọc được.Sự tương tác của độc giả phải trải qua rất
nhiều khâu mới đến được tòa soạn, trong khi đó phát thanh, truyền hình, báo
điện tử thì sự tương tác lại rất cao.
Phát hành tốn kém, chậm chạm, cồng kềnh, phụ thuộc vào phương tiện
và tác phong làm việc.Trong khi đó, phát thanh, truyền hình và báo điện tử,
việc phát hành khá thuận lợi chỉ đưa lên mạng phát sóng là có thể đến với độc
giả.
Báo in ngành Công an là một thể loại báo chí thuộc ngành Công an. Vì
vậy, theo tác giả hiểu thì báo in ngành Công an “là một thể loại báo chí,
chuyển tải nội dung các vấn đề, sự kiện bằng văn bản, chữ viết, ký tự, hình


17


×