Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC NGỌC

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC NGỌC

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số:

838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Trần Văn Luyện. Các số liệu, tài liệu, kết quả khảo sát nêu
trong luận văn là trung thực, phản ánh đúng đắn số liệu thực tiễn và chưa từng được
công bố một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nào. Tài liệu tham khảo trong luận
văn được trích dẫn từ các nguồn một cách đầy đủ và chính xác, do đó, luận văn đảm
bảo tính chân thực, khoa học, pháp lý của một công trình nghiên cứu.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đức Ngọc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA
BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........................................................................7
1.1. Khái quát lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy ......7
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy theo
pháp luật hình sự Việt Nam ......................................................................................10
1.3. Cơ sở lý luận của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy .......................................................................................................16

1.4. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với một số tội phạm khác .............2626
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
...............................................................................................................................2929
2.1. Khái quát tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk .................................................................................................................2929
2.2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk ...........................................................................................................................322
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk ...............................................................................................400
2.4. Nhận xét, đánh giá ..........................................................................................4646
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ...............................................................................5151
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy ..............5151
3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy 5454
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma
túy ..........................................................................................................................5858
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán
trái phép chất ma túy .............................................................................................6060
3.5. Các giải pháp khác .........................................................................................6262
KẾT LUẬN ..........................................................................................................6565
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

QĐHP

Quyết định hình phạt

CTTP

Cấu thành tội phạm

QPPL

Quy phạm pháp luật

TNHS


Trách nhiệm hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2013 đến năm 2017 .....................2929
Bảng 2.2: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma
túy so với các tội phạm về ma túy và các tội phạm khác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2013 đến năm 2017 .........................................................................................300
Bảng 2.3: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2013 đến năm 2017 ..............300
Bảng 2.4: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2013 đến năm 2017 ...............................311


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa của các quốc gia trên toàn thế giới. Ở nước
ta tệ nạn ma túy vẫn đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội. Theo thống kê đến
tháng 12/2017 nước ta có 210.751 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, số người
nghiện ma túy tiếp tục gia tăng và ngày càng khó kiểm soát. Ma túy không chỉ hủy
hoại sức khỏe của con người, làm mất khả năng lao động, học tập mà còn gây tổn

hại nghiêm trọng về mặt kinh tế, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã
hội, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự,
an toàn xã hội. Những tác hại và hậu quả của tệ nạn ma túy đang tác động và gây
ảnh hưởng đến tất cả chúng ta từng ngày, từng giờ.
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm tây nguyên, phía Đông giáp Phú Yên và
Khánh Hòa, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Tây giáp Campuchia với
đường biên giới dài 193 km, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai. Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị
hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện. Trong đó có 184 đơn
vị hành chính cấp xã, gồm có 152 xã, 20 phường và 12 thị trấn. Kinh tế chủ đạo
của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm
năng về du lịch sinh thái. Đắk Lắk có bản sắc văn hóa đa dạng, đặc biệt Đắk Lắk
được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng không gian văn hóa Cồng Chiêng
Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân
loại. Đắk Lắk đang có lợi thế với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết
hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc
trong tỉnh, hàng năm trong tỉnh tổ chức rất nhiều lễ hội. Đắk Lắk có Sân bay Buôn
Ma Thuột, 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14, 14C, 27, 26, 29. Dân
số tỉnh Đắk Lắk khoảng 1,833 triệu người, trong đó số lượng người nhập cư từ các
tỉnh khác chiếm tỷ lệ cao, hiện nay số thanh niên trong tỉnh đi làm ăn, buôn bán ở
các thành phố lớn chiếm tỷ lệ không nhỏ.
Những đặc điểm này mang lại cho tỉnh Đắk Lắk nhiều ưu thế để phát triển

1


kinh tế - xã hội, tuy nhiên Đắk Lắk cũng là một trong những địa bàn có nhiều điều
kiện để tội phạm nói chung, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng lợi
dụng hoạt động phạm tội và lẩn trốn. Theo thống kê của Công an tỉnh Đắk Lắk, số
người nghiện ma túy tính đến năm 2017 có hồ sơ quản lý là 1.333 người, trong đó
tập trung chủ yếu tại thành phố Buôn Ma Thuột và các huyện Ea Hleo, Krông

Năng, Ea Kar… Từ năm 2013 đến năm 2017, tình hình tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk diễn ra phức tạp và chiếm tỷ trọng gần như
tuyệt đối trong tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh (chiếm 86,6% về số
vụ và 85,9% về số bị cáo), còn xét trong phạm vi chung của tình hình tội phạm trên
địa bàn tỉnh, thì tỷ lệ trung bình trong 5 năm của loại tội phạm này là 16,7% về số
vụ và 11,8% về số bị cáo (xem Bảng 2.2).
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những kết quả nhất định, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả chưa cao, còn có
những sai sót nhất định, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh. Những sai
sót đó chủ yếu là do những quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần phải được bổ sung, sửa đổi,
cùng với đó hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma
túy của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tố tụng vẫn còn những hạn chế, thiếu sót
cần phải được khắc phục.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái
phép chất ma túy theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”
làm luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận
Một số công trình nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy đã được
công bố như:
- “Giáo trình luật hình sự Việt nam - Phần các tội phạm” (2008), GS.TS. Võ

2


Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- “Lý luận chung về định tội danh” (2013), GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội;
- “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung” (2014), GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
- “Hoàn thiện một số quy định về hình phạt và quyết định hình phạt của
BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự”
(2008), PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn, Luật học;
- “Một số vấn đề liên quan đến hướng dẫn áp dụng Điều 194 Bộ luật hình
sự” (2012), TS. Cao Thị Oanh, Luật học.
2.2. Tình hình nghiên cứu thực tiễn
Thực tiễn hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về tội mua bán trái
phép chất ma túy, điển hình như các công trình sau:
- Trần Văn Luyện, “Phát hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, năm 2000, Luận án
tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân;
- Nguyễn Thanh Dung, “Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy” năm
2012, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Thủy Thanh, “Các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn trên địa bàn thành phố Hải Phòng” năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học,
khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Thị Thảo Trang, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma tuý từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” năm
2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Hồ Kim Trình, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” năm
2016, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Minh Đức, “Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các

3



quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án ma túy” năm 2015, Tạp chí kiểm sát,
số 20, tr.7 - 13.
Nhìn chung, các công trình đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của tội
mua bán trái phép chất ma túy ở góc độ Luật hình sự. Tuy nhiên, các công trình trên
mới chỉ nghiên cứu tội mua bán trái phép chất ma túy ở khía cạnh tổng quát, chưa
có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tội mua bán trái phép chất ma túy một
cách đầy đủ và có hệ thống. Trong đề tài này tác giả tiếp tục nghiên cứu trên cơ sở
đánh giá, khái quát những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội mua bán trái phép chất ma túy tại trên bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái
phép chất ma túy; thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất
ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma tuý;
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý về tội mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2013 – 2017 trên cơ sở hướng
dẫn lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt;
- Đề ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự
về tội mua bán trái phép chất ma tuý trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp


4


dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành Luật
hình sự và tố tụng hình sự;
- Về địa bàn: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017;
- Về tội danh: Đề tài nghiên cứu tội mua bán trái phép chất ma túy được quy
định tại Điều 194 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu
tranh phòng chống tội phạm về ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể khi thực hiện luận văn: Phương pháp
lịch sử; phân tích; tổng hợp; thống kê; phương pháp so sánh, khảo sát thực tiễn;
nghiên cứu các bản án điển hình. Trong quá trình thực hiện, các phương pháp này
được áp dụng đan xen lẫn nhau một cách linh hoạt để luận chứng các vấn đề khoa
học và thực tiễn cần nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội mua bán
trái phép chất ma túy trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy, đồng thời chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu
sót, cũng như nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.

5


- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy định của Bộ Luật hình sự
về tội mua bán trái phép chất ma túy, tăng cường chất lượng áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự.
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập và vận dụng vào hoạt động thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất
ma túy.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Khái quát lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất
ma túy

1.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 3/9/1945, trong
phiên họp Chính phủ bàn về “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà” gồm có sáu nhiệm vụ cấp bách trong đó nhiệm vụ thứ năm Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò và
"tuyệt đối cấm hút thuốc phiện".
Tiếp sau đó, ngày 05/3/1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc
phiện. Điều 1, 2, 3, 4 của Nghị định quy định khoanh vùng trồng cây thuốc phiện,
theo đó cây thuốc phiện chỉ được trồng ở thượng du Bắc bộ, Liên khu 4. Người
trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng hiện vật là một phần ba số nhựa
thuốc phiện, phần còn lại phải bán toàn bộ cho mậu dịch quốc doanh. Điều 5 Nghị
định quy định: “Ngoài cơ quan chuyên trách, không ai được tàng trữ và vận chuyển
nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi”.
Trên cơ sở Nghị định 150/TTg, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị
định 225/TTg ngày 22/12/1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ
quản lý thuốc phiện của Nhà nước sẽ bị xử phạt hoặc bị truy tố trước Tòa án nhân
dân. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Sau khi hòa bình lập lại và
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong đó có
công tác đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện và các chất ma túy khác. Ngày
15/09/1955, Chính phủ ban hành nghị định số 580/TTg bổ khuyết Nghị định
7


150/TTg ngày 05/3/1952 quy định những trường hợp có thể bị đưa ra Tòa án nhân
dân xét xử.
Bộ tư pháp còn ban hành Thông tư số 635/VVH-HS ngày 29/3/1958 quy
định về đường lối truy tố đối với việc đặt cọc tiền mua thuốc phiện lậu và Thông tư

số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 hướng dẫn đường lối truy tố và xét xử những vụ án
về buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi miền Nam giải phóng, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 76/CP ngày 25/3/1977 về chống buôn lậu thuốc phiện. Trên cơ sở nghị định này,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ra Thông tư
liên ngành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước.
Trước tình hình tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, BLHS
năm 1985 ra đời đã có thái độ kiên quyết hơn đối với loại tội phạm này theo hướng
cụ thể hóa và tăng cường hình phạt đối với loại tội phạm này.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII (từ ngày 21-6 đến ngày 27-6-1985),
Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được thông qua. Theo BLHS năm
1985 thì chỉ có một điều (Điều 203) quy định riêng về “tội tổ chức dùng chất ma
tuý”, còn hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu TNHS
theo Điều 97 BLHS “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới” và nếu mua bán, vận chuyển trái phép ma túy trong nội địa thì bị truy cứu
TNHS theo Điều 166 BLHS “Tội buôn bán hoặc tàng trữ hàng cấm”. Do không
đánh giá đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn bán, tàng trữ thuốc
phiện và các chất ma túy khác cho nên đã coi ma túy là đối tượng được pháp luật
hình sự điều chỉnh ngang hàng với ngoại tệ, kim khí đá quý và chỉ quy định mức
hình phạt cao nhất đối với tội này là 20 năm tù. Bên cạnh đó, Điều 166 BLHS cũng
chỉ đề cập về TNHS đối với các hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy
nên hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy trong nội địa không bị truy
cứu TNHS. Trước tình hình đó, ngày 28/12/1989 Quốc hội đã thông qua luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS, trong đó quy định Điều 96a - Tội sản xuất, tàng

8


trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, đặt trong Chương các tội xâm

phạm an ninh quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao
nhất có thể bị áp dụng là tử hình; Điều 203 “Tội tổ chức dùng chất ma túy” có mức
hình phạt cao nhất đến mười năm tù [23].
Đến khi ban hành Hiến pháp năm 1992, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
đã đánh giá được đúng mức tính chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng lớn
của các hành vi sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy đến
đời sống của toàn nhân dân, việc đấu tranh ngăn chặn ma túy cũng được quy định
trong Hiến Pháp 1992 tại Điều 61: “…Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán,
tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định
chế độ cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm khác” [29].
Cụ thể hóa những tư tưởng trong Hiến pháp 1992, Đảng và Nhà nước tiếp tục
đổi mới chính sách hình sự đối với các tội phạm về ma túy. Trong lần sửa đổi, bổ
sung năm 1997, BLHS có thêm một chương mới – Chương VIIA các tội phạm về
ma tuý với 14 điều luật, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan đến ma tuý thay
thế Điều 96a và Điều 203, trong đó các hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận
chuyển trái phép chất ma túy được quy định thành 4 tội riêng biệt; 9/13 tội có khung
hình phạt cao nhất là tử hình. Cụ thể các tội danh gồm: Tội trồng cây thuốc phiện
hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 185a); Tội sản xuất trái phép chất
ma tuý (Điều 185b); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185c); Tội vận chuyển
trái phép chất ma túy (Điều 185d); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 185đ);
Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 185e); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185g); Tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản
xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185h); Tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy (Điều 185i); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều
185k); tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185l); Tội cưỡng, bức lôi kéo người
khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185m); Tội vi phạm quy định về quản lý,
sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 185n) [24].

9



BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam, là công
cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự
quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và
sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao.
Tuy nhiên, qua 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhưng
BLHS năm 1985 đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và không còn phù hợp với điều
kiện, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội hiện tại, yêu cầu cần phải được sửa đổi một
cách toàn diện. Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua
BLHS 1999, có hiệu lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma túy
được quy định thành một chương riêng là Chương XVIII, gồm 10 tội, từ Điều 192
BLHS đến Điều 201 BLHS, trong đó Điều 194 quy định tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý [25].
Ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII ban hành BLHS 2015 theo đó tội mua
bán trái phép chất ma túy được tách thành tội riêng và được quy định tại Điều
251 BLHS [27].
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức;
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân; xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp

luật xã hội chủ nghĩa” [25].

10


Theo Thạc sĩ Đinh Văn Quế: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán
lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt,
trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy” [21, tr.78].
Theo mục 3.3 phần II, Thông tư số 17/ 2007/TTLN ngày 24/12/2007 thì hành
vi mua bán trái phép chất ma túy bao gồm: Bán trái phép chất ma túy cho người
khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc
bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác; mua
chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; xin chất ma túy nhằm bán trái phép
cho người khác; dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có); dùng tài sản không phải là tiền
đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; vận chuyển chất ma túy
nhằm bán trái phép cho người khác [1].
Từ những quy định trên, tác giả đưa ra khái niệm tội mua bán trái phép chất
ma túy như sau: Tội mua bán trái phép chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội, bao gồm các hành vi: Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma
túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác; mua chất ma túy
nhằm bán trái phép cho người khác; xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người
khác; dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có); dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi,
thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác; tàng trữ chất
ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái
phép cho người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ thống nhất quản lý của Nhà
nước về các chất ma túy.

11


1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy
1.22.1. Khách thể của tội phạm
Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015 có
khách thể trực tiếp là chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.
Đối tượng tác động của tội phạm: Đối tượng của tội mua bán trái phép chất
ma túy là các chất ma túy. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần,
được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành. Như vậy chỉ những chất gây
nghiện, chất hướng thần, được quy định trong danh mục do chính phủ ban hành thì
mới bị coi là ma túy. Theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP Chính phủ ban hành các
danh mục các chất ma túy và tiền chất thì hiện nay các chất ma túy bao gồm 235
chất chia thành 3 danh mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất,
điều chế ma túy.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan được hiểu là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Việc
nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm có vai trò rất quan trọng trong việc định
tội và định khung hình phạt, và thông qua mặt khách quan chúng ta cũng có thể xác
định được mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm biểu hiện rõ nét nhất các yếu tố của tội phạm
mà con người có thể nhận biết trực tiếp được bao gồm các yếu tố: Hành vi khách
quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm
tội (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm phạm tội…).
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:
Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc

chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để
hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Bán trái phép chất ma túy cho người khác là
dùng ma túy mình có được dưới bất kỳ hình thức nào như: Mua được, xin được,
nhặt được, người khác gửi bán hộ hoặc chiếm đoạt được ma túy… để bán cho người
khác lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích khác. Trường hợp bán hộ chất ma túy cho người

12


khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác cũng đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điều 251 của BLHS năm 2015 là để tránh một số trường hợp trên thực
tế người phạm tội khi bị phát hiện, bắt giữ khai bán hộ chất ma túy cho người khác
nhằm phủ nhận hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Là dùng tiền, tài sản
hoặc lợi ích khác để đổi lấy chất ma túy và dùng chất ma túy đó để bán lại cho
người khác nhằm thu tiền hoặc tài sản. Chỉ khi nào xác định được rõ hành vi mua
chất ma túy nhằm mục đích bán lại cho người khác thì mới được truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Việc xác định hành vi mua chất
ma túy có nhằm mục đích bán trái phép hay không cần được xác định rõ bởi đó là
căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Việc
xác định mục đích người mua chất ma túy có nhằm bán trái phép hay không cũng
chỉ phức tạp trong trường hợp ma túy có trọng lượng (thể tích) ít và người phạm tội
khai nhận mua là để sử dụng. Còn đối với trường hợp người mua lượng ma túy lớn
thì việc xác định mục đích đơn giản hơn và căn cứ vào những tình tiết xung quanh
vụ án, có thể xác định được tội mua bán trái phép của người phạm tội. Việc xác
minh người phạm tội có mục đích bán chất ma túy cho người khác hay không là
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đây là nhiệm
vụ quan trọng bởi nếu không chứng minh được mục đích mua bán của người phạm
tội thì tùy trường hợp chỉ có thể truy tố người phạm tội về tội tàng trữ hoặc vận
chuyển trái phép chất ma túy, mà trên thực tế thì đó là những tội có mức độ nguy

hiểm thấp hơn tội mua bán trái phép chất ma túy.
Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi xin chất ma túy
nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người khác
cho mình chất ma túy, rồi sau đó đem chất ma túy đó bán cho một người thứ ba để
lấy tiền hoặc tài sản.
Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có).

13


Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy
nhằm bán lại trái phép cho người khác.
Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Là hành vi cất giữ
chất ma túy (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) sau đó đem
bán chất ma túy đó cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản.
Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Là hành vi
chuyển dịch ma túy bằng bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác,
với mục đích để bán chất ma túy cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản. Nếu không
chứng minh được mục đích vận chuyển là để bán cho người khác thì chỉ có thể định
tội danh là vận chuyển trái phép chất ma túy. Việc chứng minh mục đích mua bán
chất ma túy của người phạm tội là trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành
tố tụng.
Với hành vi bán trái phép chất ma túy, dùng chất ma túy nhằm trao đổi, thanh
toán trái phép đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 251 BLHS năm 2015,
không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy đó do đâu mà có. Còn lại các hành vi
khác như mua, xin, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy… thì cần phải chứng
minh được mục đích thực hiện hành vi này là bán trái phép chất ma túy đó. Như
vậy, khi xác định hành vi mua bán trái phép chất ma túy cần chú ý một số vấn
đề sau:

Thứ nhất, chất ma túy mà người phạm tội có để bán cho người khác không
phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có; không phụ thuộc vào chất ma
túy đó là thật hay là giả, hàm lượng cao hay thấp. Tức là hành vi mua bán trái phép
chất ma túy tự nó đã xác lập tội danh cho người phạm tội, các yếu tố về chất hay về
lượng và các vấn đề liên quan khác chỉ góp phần định khung hình phạt.
Thứ hai, trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép
chất ma túy kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt
chất ma túy thì tùy từng trường hợp cụ thể mà định tội là “Tội tàng trữ, mua bán trái
phép chất ma túy”, “Tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”, “Tội chiếm
đoạt, mua bán trái phép chất ma túy” hay tội danh đầy đủ “Tội tàng trữ, vận chuyển,

14


mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”.
Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn về trách nhiệm hình sự cho một số trường hợp về tội mua bán trái phép
chất ma túy như sau:
Điểm e mục 2 phần II quy định: Người nào bán trái phép chất ma tuý cho
người khác và còn cho họ sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc
quản lý của mình để họ sử dụng trái phép chất ma tuý, thì ngoài tội mua bán trái
phép chất ma tuý, người đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội chứa chấp sử
dụng trái phép chất ma tuý [36].
1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là lỗi cố ý, người
phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện,
biết rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được hậu quả của hành vi
nhưng vẫn quyết tâm thực hiện. Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy chỉ
có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp, không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp
[21, tr.399].

1.2.2.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là bất kỳ ai có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt đến độ tuổi nhất định. Đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015,
vì khoản 1 Điều 251 là tội phạm nghiêm trọng mà theo quy định thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người từ đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều
251. Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều
251 BLHS 2015.

15


1.3. Cơ sở lý luận của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy
1.3.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy
1.3.1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh
- Khái niệm định tội danh.
“Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ
các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung
quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ
tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định” [49,
tr.26, 27].
Từ khái niệm định tội danh, căn cứ Điều 251 của BLHS 2015 và những dấu

hiệu đặc trưng cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy, tác giả đưa ra khái niệm
định tội danh đối với tội mua bán trái phép chất ma túy như sau: “Định tội danh tội
mua bán trái phép chất ma túy là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội mua bán trái phép chất ma túy đã được quy
định trong Bộ luật Hình sự”.
- Đặc điểm của định tội danh.
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra phức tạp và đa
dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết
định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba
giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến
hành ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố đến
giai đoạn thi hành án. Trong khi đó, bước quyết định hình phạt chỉ được tiến hành ở
giai đoạn xét xử.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa BLHS vào đời sống xã hội,
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm qua đó góp phần thực

16


hiện đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Định tội danh tội mua
bán trái phép chất ma túy là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp, thống nhất giữa
các hành vi nguy hiểm cho xã hội thực hiện trong thực tế khách quan với dấu hiệu
trong CTTP tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 BLHS
năm 2015. Hay nói cách khác, định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là
việc xác định hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội
mua bán trái phép chất ma túy đã được quy định trong BLHS. Về phương pháp định
tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp,
phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cả là phương pháp loại trừ. Từ các
vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy có 4 đặc

điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là hoạt động tiến
hành tố tụng được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác theo thẩm quyền. Trên cơ sở xác
định đúng đắn, đầy đủ tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức
đầy đủ, đúng đắn nội dung của các QPPL.
Thứ hai, định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là quá trình nhận
thức có tính logic giữa lý luận và thực tiễn. Thể hiện dưới hai khía cạnh: Xác định
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp với dấu hiệu CTTP tội
mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 BLHS 2015 và đưa ra sự đánh
giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy
trong thực tiễn. Quá trình định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy phải tuân
thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật nội dung là Điều 251 BLHS 2015 cũng
như các quy phạm pháp luật của luật hình thức là BLTTHS.
Thứ ba, hoạt động định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là hoạt
động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm và dấu
hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả trong BLHS.
Thứ tư, sau khi đối chiếu sự phù hợp giữa dấu hiệu thực tế của cấu thành tội
phạm và dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả trong luật hình sự thì

17


cơ quan có thẩm quyền sẽ đưa ra kết luận người đó phạm tội gì theo điều luật nào
của BLHS bằng một quyết định cụ thể.
1.3.1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh
BLHS và BLTTHS là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội
danh. Pháp luật hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình định tội danh. Bản
chất hoạt động định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu CTTP tương ứng do BLHS

quy định.
Khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự, các nhà làm luật đã nghiên
cứu các dấu hiệu đặc trưng, cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay được lặp lại nhiều
nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hóa và quy định trong BLHS với tính
chất là các dấu hiệu trong CTTP. Điều luật về từng tội phạm cụ thể trong BLHS đã
chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng, điển hình bắt buộc không thể thiếu được
của một loại CTTP. Tất cả các dấu hiệu đó tập hợp thành một hệ thống liên quan
chặt chẽ với nhau trở thành khuôn mẫu pháp lý (mô hình tội phạm), làm cơ sở cho
người định tội danh so sánh, đối chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra. Với ý nghĩa
là cơ sở pháp lý của định tội danh, pháp luật hình sự quy định, liệt kê các hành vi
nguy hiểm cho xã hội được đánh giá là hành vi tội phạm đã được quy định trong
BLHS và các đạo luật hình sự khác. Đó là sự liệt kê đầy đủ, thể hiện nguyên tắc
“chỉ người nào phạm tội đã được Luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự” [49, Tr.61].
BLTTHS chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định về các trình tự, thủ
tục, thời hạn, chứng cứ… đảm bảo cho quá trình định tội danh diễn ra đúng đắn,
chính xác và hợp pháp. Các văn bản pháp luật khác như: Văn bản pháp luật chuyên
ngành, Nghị định, Thông tư liên ngành chứa đựng các quy phạm pháp luật về nội
dung chỉ là sự tiếp tục, cụ thể hóa các quy phạm đã được quy định trong BLHS là
mô hình CTTP. Có tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ cho quá trình định tội danh.

18


1.3.1.3. Ý nghĩa của định tội danh
Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là một giai đoạn cơ bản của
việc áp dụng QPPL hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo
đức và pháp luật rất lớn. Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo hai xu
hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
- Đối với hoạt động định tội danh đúng.

Định tội danh đúng tội mua bán trái phép chất ma túy là một biểu hiện của
việc thực hiện đúng đắn đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước, thực thi đúng
ý chí của nhân dân được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
hội, của Nhà nước và của con người.
Định tội danh đúng tội mua bán trái phép chất ma túy là tiền đề cho sự phân
hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh và có căn cứ
pháp luật. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc
tiến bộ trong Nhà nước pháp quyền như: Nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi,
trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự…
Định tội danh đúng tội mua bán trái phép chất ma túy là một trong những cơ
sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều
tra, xét xử, tạm giam qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do
dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Định tội danh đúng tội mua
bán trái phép chất ma túy là sự thể hiện hoạt động có hiệu quả, ý thức thủ pháp triệt
để và ý thức trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của cơ quan có thẩm quyền.
- Đối với hoạt động định tội danh sai.
Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy sai sẽ không thuyết phục
được người phạm tội về tính đúng đắn và nghiêm minh của bản án, làm giảm hiệu
quả giáo dục của bản án, đồng thời làm giảm uy tín và hiệu lực của cơ quan bảo vệ
pháp luật. Mặt khác, định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy sai sẽ dẫn đến
một loạt các hậu quả tiêu cực như: Truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ
lọt tội phạm, không bảo đảm được tính công minh, tính răn đe của pháp luật. Những

19


×