VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ QUỲNH TRANG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ QUỲNH TRANG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Quang Huy
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, được
thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp lý thuyết, khảo sát tình hình thực
tiễn ở tỉnh Thái Nguyên và dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần
Quang Huy.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là có cơ sở, dựa trên số liệu thống
kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên và Cục
thống kê tỉnh Thái Nguyên. Luận văn này chưa từng được công bố.
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2017
Học viên
Phạm Thị Quỳnh Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ......... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò bảo hiểm xã hội tự nguyện .......................... 7
1.2. Khái niệm, nguyên tắc, nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.. 12
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN........ 29
2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện .................................... 29
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại tỉnh Thái
Nguyên ............................................................................................................ 43
Chương 3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO 53
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN ........................................................................... 53
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH tự nguyện .... 53
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội
tự nguyện ......................................................................................................... 54
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội tự
nguyện tại tỉnh Thái Nguyên ........................................................................... 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 67
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH
: Bảo hiểm xã hội
BHYT
: Bảo hiểm y tế
NLĐ
: Người lao động
ILO
:Tổ chức lao động quốc tế
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Tên bảng
bảng
Bảng 2.1.
Số người tham gia BHXH tự nguyện (2014 – 6/2017)
Bảng 2.2.
Số người tham gia BHXH tự nguyện theo địa bàn cư trú
(năm 2016)
Bảng 2.3.
Số thu BHXH tự nguyện tại Thái Nguyên (2014 –
6/2017)
Bảng 2.4.
Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của NLĐ
Trang
45
46
47
47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người cả về vật chất
và tinh thần càng đa dạng và phong phú, những khả năng rủi ro xã hội có
chiều hướng gia tăng. Do đó nhu cầu về bảo hiểm an toàn cho cá nhân cũng
tăng lên. Chính vì vậy, việc tiếp cận tới mạng lưới an sinh xã hội thông qua
việc tham gia BHXH tự nguyện là nhu cầu cấp bách đối với những người lao
động. Có thể nói, BHXH tự nguyện là một chính sách mới mang đầy tính
nhân văn xã hội, mở ra cơ hội cho người lao động gia nhập vào mạng lưới an
sinh xã hội giúp cho người dân giảm bớt gánh nặng khi tuổi già, tử tuất. Ở
nước ta, việc phát triển hệ thống BHXH, xây dựng loại hình BHXH tự nguyện
được xác định là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển hệ thống an
sinh xã hội. Tuy nhiên, từ khi Luật Bảo hiểm xã hội ra đời và có hiệu lực năm
2007, trong đó riêng BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008 cho đến
nay là Luật Bảo hiểm xã hội 2014, số người tham gia BHXH tự nguyện vẫn
còn rất thấp chưa đáp ứng được yêu cầu như định hướng của Đảng, Nhà nước.
Nguyên nhân được nêu là do NLĐ chưa xem BHXH là một nhu cầu cấp thiết
trong cuộc sống. NLĐ có thu nhập thấp, chưa quen với việc tích lũy, tiết kiệm,
dự phòng cho tương lai. Điều kiện về thời gian được hưởng chế độ khi tham
gia BHXH tự nguyện dài, công tác chỉ đạo, tuyên truyền vận động nhân dân
tham gia BHXH tự nguyện chưa phát huy tối đa hiệu quả.
Trong vài năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có bước phát triển đột phá
trong phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên sự phát triển lại chưa đồng đều, chủ
yếu tập trung ở 2 thành phố và thị xã nơi có nhiều khu công nghiệp, một số
huyện vùng núi còn gặp nhiều khó khăn, người dân có thu nhập còn thấp.
Việc thực hiện BHXH cho NLĐ trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là phát triển BHXH tự nguyện, chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài “Pháp
1
luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” để làm rõ
hơn nguyên nhân cũng như đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn
tỉnh Thái Nguyên” trong thời điểm BHXH tỉnh Thái Nguyên đã có một thời
gian để thực hiện pháp luật về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói
riêng. Nhìn chung trong những năm gần đây BHXH tỉnh Thái Nguyên đã tổ
chức thực hiện pháp luật về BHXH tự nguyện và đạt được những kết quả nhất
định, góp phần từng bước phát triển an sinh xã hội tại địa phương. Tuy nhiên,
kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế cần có giải pháp để khắc phục. Bên
cạnh đó BHXH tự nguyện mới chỉ được thực hiện được hơn 9 năm nên những
công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực này vẫn còn ít hoặc được thực
hiện khi Luật bảo hiểm xã hội 2014 chưa có hiệu lực. Điều đó cho thấy đây là
một vấn đề mới, một số nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu và tiếp cận
theo nhiều cách với những cấp độ khác nhau:
- Đinh Văn Sơn (2012), “Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp”;
- Nguyễn Thị Lệ Hằng (2014), “Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện
trên địa bàn Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên”;
- Đồng Đức Duy (2015), “Thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội tự
nguyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”.
Các đề tài nghiên cứu trên địa bàn khác hoặc phạm vi rộng hơn như:
“Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện – thực trạng và giải pháp” của tác
giả Dương Thảo Phương, năm 2014; “Thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện của người lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Phạm
Thị Lan Phương, năm 2014; Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội tự
2
nguyện tại thành phố Đà Nẵng của tác giả Phan Võ Thị Hạnh Thủy, năm
2015; “Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của
Võ Lan Anh, năm 2015.
Ngoài ra còn có các bài báo như: “Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức tại tỉnh
Phú Yên” của tác giả Trương Thị Phương – Nguyễn Thị Hiền, tạp chí Khoa
học – Công nghệ thủy sản; “nâng cao hiệu quả phát triển bảo hiểm xã hội tự
nguyện – bảo hiểm y tế hộ gia đình”, tạp chí bảo hiểm xã hội; “Giảm mức
bảo hiểm xã hội tự nguyện: tín hiệu tốt cho người nghèo” của tác giả Nguyễn
Hạnh, Báo công thương online; “Một số giải pháp nhằm triển khai tốt hơn
Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, TP Hà Nội”,
Đại học Lao động – xã hội online.
Các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên đã góp phần tạo ra những
cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp
luật bảo hiểm tự nguyện. Tuy vậy, các công trình này khi nghiên cứu chưa
làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại tỉnh Thái
Nguyên trong những năm gần đây. Do vậy, luận văn tập trung nghiên cứu và
làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và tình
hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để từ
đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật bảo hiểm
xã hội tự nguyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện, các quy định pháp luật liên quan và thực
tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó đề xuất một số kiến nghị
3
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và nâng cao
hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
trên những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về lĩnh vực này.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã
hội tự nguyện và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ khoa học luật kinh tế.
- Không gian nghiên cứu: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Thời gian nghiên cứu: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng;
4
chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội; về hiệu quả hoạt
động của cơ quan, Nhà nước về bảo hiểm xã hội làm phương pháp luận
nghiên cứu đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng trong một tổng thể phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, logic, thống kê… khai thác thông tin từ văn bản pháp luật của
Nhà nước, thu thập thông tin trên mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và
công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài
ở Chương 2 khi nghiên cứu về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực
tiễn thi hành tại tỉnh Thái Nguyên.
- Luận văn còn sử dụng trong một tổng thể phương pháp phân tích,
đánh giá, tổng hợp kết hợp với phương pháp định tính, phương pháp điều tra
qua bảng hỏi gửi tới những đối tượng là các nhà quản lý và công chức tại các
cơ quan làm công tác bảo hiểm xã hội ở Chương 3 khi đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện tại tỉnh Thái Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội tự nguyện, đặc biệt là các cơ quan bảo hiểm xã hội, các đơn vị tham gia
bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất cứ ai quan tâm
đến các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề xung quanh các quy định
của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện, tìm hiểu thực trạng trên địa bàn tỉnh
5
Thái Nguyên và đưa ra một số giải pháp, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu bao gồm các phần sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp
luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn
thi hành tại tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại tỉnh Thái Nguyên.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải đáp ứng các nhu
cầu tối thiểu của cuộc sống, để làm được điều đó con người phải lao động để
làm ra của cải và những sản phẩm cần thiết. Nhưng trong thực tế, không phải
lúc nào con người cũng có đủ thuận lợi, mà trái lại, sẽ gặp khó khăn, bất lợi
làm cho họ bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác,
như: ốm đau, tai nạn lao động, mất việc làm hay tuổi già thì khả năng lao
động bị suy giảm… Do vậy, Nhà nước đã hình thành nên bảo hiểm xã hội
(BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động (NLĐ) khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm.
Nếu như trước đây, ở nước ta bảo hiểm xã hội bó hẹp về phạm vi đối
tượng, tài chính phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, các chế độ bảo hiểm xã
hội còn đan xen với nhiều chính sách chế độ khác như: ưu đãi xã hội, kế
hoạch hóa dân số… Hiện nay BHXH Việt Nam đã được cải cách và ngày
càng phát huy vai trò của mình đối với đời sống NLĐ. Đối tượng bảo hiểm xã
hội đã được mở rộng tới mọi NLĐ với hai hình thức tham gia bắt buộc và tự
nguyện. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà
nước ban hành và quản lý để vận động, khuyến khích NLĐ tự nguyện tham
gia, nhằm đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho chính bản thân NLĐ và gia
đình họ khi bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập như tuổi già, tử tuất… đồng
thời đóng góp phần đảm bảo công bằng và an sinh xã hội.
7
BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội được xây dựng trên cơ
sở tự nguyện của NLĐ với tư cách là người tham gia cũng như người thụ
hưởng. Giữa loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện và loại hình bảo hiểm xã
hội bắt buộc có những điểm giống nhau về mục tiêu, bản chất, mục đích hoạt
động, sự hình thành và sử dụng quỹ. Tuy nhiên, bảo hiểm xã hội tự nguyện có
những điểm khác so với bảo hiểm xã hội bắt buộc đó là mối quan hệ lao động
của những người tham gia bảo hiểm xã hội ở hai loại hình này. Trong những
năm qua, cùng với BHXH bắt buộc, việc triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện
đã phát huy tác dụng trong việc hỗ trợ NLĐ khi gặp những khó khăn, biến cố
trong cuộc sống, trên cơ sở những đóng góp của NLĐ trước khi xảy ra những
rủi ro đó.
Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải là một khái niệm mới,
nó được hình thành và sử dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Từ điển
Tiếng Việt: “Tự nguyện là theo yêu cầu, đề nghị của chính mình, xuất phát từ
ý muốn của bản thân”. [22]
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Bảo hiểm xã hội tự
nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ
chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có
nhu cầu bảo hiểm”. [38]
Xét dưới góc độ kinh tế: bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm trù
kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập cho NLĐ khi phải đối mặt với
những rủi ro khách quan không thể lường trước được trong cuộc sống, dẫn
đến tình trạng giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm hay những rủi
ro khác.
Xét dưới góc độ pháp lý: bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình
bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức và quản lý mà NLĐ tự nguyện tham gia,
được lựa chọn tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp
8
với thu nhập của bản thân nhằm đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của
NLĐ và gia đình khi họ gặp phải rủi ro làm giảm mất thu nhập, góp phần đảm
bảo an toàn xã hội.
Như vậy, bản chất của BHXH tự nguyện chính là sự tự do ý chí của
người tham gia, xuất phát từ chính nhu cầu và nguyện vọng của NLĐ mà
không có sự bắt buộc tham gia từ các cơ quan quản lý nhà nước hay bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào khác.
Có thể hiểu một cách khái quát về bảo hiểm xã hội tự nguyện như sau:
bảo hiểm xã hội tự nguyện là một hình thức bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ
chức và quản lý hoặc do cộng đồng NLĐ tổ chức với sự tham gia tự nguyện
của các thành viên nhằm đảm bảo thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sinh sống
thiết yếu của NLĐ và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc
mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Hoặc có thể hiểu: bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH mà
NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù
hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội.
Có thể thấy, chủ thể tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện là
Nhà nước thông qua cơ chế đại diện là các cơ quan bảo hiểm xã hội ở các cấp.
Bên cạnh việc giữ nguyên quyền được chọn mức và phương thức đóng phù
hợp với thu nhập của người tham gia thì định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự
nguyện theo Luật năm 2014 còn đề cập đến chính sách hộ trợ của Nhà nước
nhằm khuyến khích thêm nhiều các đối tượng khác trong xã hội tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời thể hiện đây là một chính sách BHXH có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc của Nhà nước nhằm tạo cơ hội cho người tham gia
đều có thể được hưởng hai chế độ (hưu trí và tử tuất) của bảo hiểm xã hội tự
nguyện.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện
9
BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH, do đó mang đầy đủ các đặc
điểm của bảo hiểm xã hội nói chung. Xuất phát từ bản chất của bảo hiểm xã
hội là quá trình tổ chức đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các sự
kiện bảo hiểm (sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ bảo hiểm xã hội;
Nhằm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động
không được sử dụng; Nhằm góp phần bảo đảm an toàn kinh tế cho NLĐ và
gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội), có thể thấy bảo
hiểm xã hội nói chung có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, NLĐ khi tham gia bảo hiểm xã hội được đảm bảo thu nhập
(bảo hiểm) cả trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác, khi tham gia
vào quan hệ bảo hiểm xã hội và đảm bảo các điều kiện luật định, NLĐ được
bảo hiểm cho tới lúc chết.
Thứ hai, các sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm xã hội tự nguyện liên
quan đến thu nhập của NLĐ bao gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết…
Thứ ba, NLĐ khi tham gia bảo hiểm xã hội có quyền được hưởng trợ
cấp BHXH, tuy nhiên quyền này chỉ có thể thực hiện được khi họ thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội.
Bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, bảo hiểm xã hội tự nguyện
còn mang những nét đặc trưng riêng như:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất rộng rãi, thường
không có quan hệ lao động chính thức, đa phần là những NLĐ tự tạo việc
làm, nông dân, ngư dân và lao động tự do… kể cả đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc nếu có nhu cầu và đủ điều kiện cũng có thể tham gia.
10
- Việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mang tính chất tự nguyện,
phụ thuộc vào ý chỉ của chủ thể tham gia.
- BHXH tự nguyện còn có tính linh hoạt trong chế độ, cách thức đóng
phí phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của người tham gia.
- Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện hình thành do sự đóng góp của NLĐ,
sự hỗ trợ của Nhà nước, từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các nguồn
thu khác. Do xuất phát từ đặc điểm của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện nên quỹ BHXH tự nguyện không có sự đóng góp của NSDLĐ. Đây là
đặc điểm khác biệt so với loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc có sự tham gia
của phía NSDLĐ.
- BHXH tự nguyện không thực hiện tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội
mà chỉ thực hiện một số chế độ nhất định phù hợp với điều kiện của NLĐ và
tình hình kinh tế - xã hội của nước ta. Hiện nay bảo hiểm xã hội tự nguyện có
hai chế độ là chế độ hưu trí và tử tuất (bảo hiểm xã hội bắt buộc có năm chế
độ). [39]
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH là trụ cột chính, là xương sống trong hệ thống an sinh xã hội, đã
đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của NLĐ, góp phần đảm bảo an
toàn xã hội. Vì vậy, cùng với các loại hình BHXH khác, BHXH tự nguyện có
vai trò quan trọng đối với NLĐ cũng như sự phát triển bền vững của xã hội
nói chung. Từ đó bảo hiểm xã hội tự nguyện có một số vai trò nổi bật như
sau:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng đối với NLĐ. Do đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là những NLĐ tự do, hầu như
không có quan hệ lao động với người sử dụng lao động, thu nhập thường
không ổn định như: nông dân, người kinh doanh, buôn bán tự do…
11
Thứ hai, việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn giúp NLĐ có ý
thức trong việc tiết kiệm đầu tư những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự
phòng cần thiết chỉ dùng khi già yếu, mất sức lao động, góp phần ổn định
cuộc sống cho bản thân và gia đình. BHXH tự nguyện có vai trò phân phối, sử
dụng hiệu quả nguồn quỹ dự phòng, tạo cơ chế chia sẻ, nhằm giảm bớt những
rủi ro, góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản
xuất và đời sống xã hội và tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Quỹ bảo
hiểm xã hội tự nguyện được hình thành từ sự đóng góp của NLĐ và từ sự hỗ
trợ của Nhà nước để chi trả các chế độ cho người tham gia. Quỹ bảo hiểm xã
hội phát triển sẽ góp phần tạo nguồn lực tài chính, cung ứng vốn cho việc đầu
tư phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện góp phần
ổn định tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, bảo hiểm xã hội tự nguyện tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng
cao tính cộng đồng xã hội, cùng truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành
phần trong xã hội và góp phần thực hiện công bằng xã hội, phân phối lại thu
nhập xã hội trên cơ sở sự tương trợ để thiết lập hệ thống an sinh xã hội bền
vững. Ở các nước phát triển và đang phát triển, trong điều kiện kinh tế thị
trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng. Chính phủ các nước đều
đưa ra các chính sách để giảm dần khoảng cách giàu, nghèo, chính vì vậy,
chính sách BHXH tự nguyện là một trong những chính sách tạo sự bình đẳng
cho NLĐ, góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo. [9], [39]
1.2. Khái niệm, nguyên tắc, nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội tự
nguyện
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày,
mặc dù không muốn nhưng NLĐ không thể tránh khỏi hết những rủi ro bất
12
ngờ xảy ra như: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Tất cả
những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng đến đời sống vật
chất và tinh thần cho bản thân cũng như gia đình; người thân của họ. Muốn
khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, NLĐ cần phải được
sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để NLĐ yên tâm tham gia sản xuất
tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước thì Nhà nước cần phải can thiệp vào
nhằm làm giảm bớt những khó khăn cho NLĐ trong các trường hợp: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về
già…Từ đó BHXH được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành
viên trong xã hội đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội
này.
BHXH tự nguyện có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời, nó
được thực hiện rộng rãi trên thế giới, xuất phát đầu tiên từ ở Đức và ở Anh,
với những quỹ khác nhau do các hội nghề nghiệp, hội tương tế quản lý. Ở mỗi
quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển dân trí khác nhau thì chính
sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội cũng có những điểm khác nhau. Dù trình
độ dân trí có khác nhau nhưng loại hình BHXH tự nguyện là loại hình được
xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia, bằng cách đóng
góp một phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo hiểm nhằm giảm
bớt những rủi ro, biến cố của người tham gia như mất việc làm, ốm đau, tai
nạn, tử tuất...
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006:
“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động
tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp
với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì
BHXH tự nguyện được định nghĩa: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình
13
bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức
đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có
chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ
hưu trí và tử tuất”. So với định nghĩa được đưa ra tại Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2006 thì Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã có nhiều nét cụ thể và rõ
ràng hơn như: do Nhà nước tổ chức và hỗ trợ người tham gia khi đóng bảo
hiểm xã hội tự nguyện.
Qua khái niệm này, có thể thấy NLĐ tự nguyện tham gia hoặc không
tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với khả
năng kinh tế và thu nhập của mình, điều này đã tạo điều kiện cho người tham
gia có thể cân đối nguồn tài chính trong gia đình để lựa chọn mức đóng phù
hợp và có điều kiện để tham gia BHXH tự nguyện nhằm giảm bớt những rủi
ro khi xảy ra cho bản thân và gia đình. Nhà nước đã đề ra các quy định về
mức đóng, quy định các chế độ của bảo hiểm xã hội tự nguyện, điều kiện để
hưởng và mức hưởng để đảm bảo bù đắp những rủi ro cho người tham gia
BHXH tự nguyện. Như vậy, Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một công cụ bảo
đảm tối thiểu để người lao động duy trì và tái tạo khả năng lao động mà
không phải là các khoản chi trả trực tiếp để người lao động khi tạm thời mất
sức lao động, khi về già hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống có thể tự lo được
phần nào cho cuộc sống của mình.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia.
Việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đều tuân theo những nguyên tắc
nhất định. Nguyên tắc BHXH là những quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt
động bảo hiểm xã hội diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong muốn của
nó. BHXH tự nguyện là một trong những bộ phận cấu thành nên bảo hiểm xã
hội, vì vậy BHXH tự nguyện tuân thủ theo những nguyên tắc chung của bảo
14
hiểm xã hội và tuân theo những nguyên tắc riêng. Những nguyên tắc chung
của BHXH được tổng hợp từ những văn bản của tổ chức lao động quốc tế
(ILO) về bảo hiểm xã hội và từ những chính sách của các quốc gia có hệ
thống an sinh tiên tiến trên thế giới. Theo đó, nguyên tắc chung bảo hiểm xã
hội cụ thể như sau:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia. Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự
nguyện. Nguyên tắc này thể hiện sự tự nguyện của NLĐ có quyền tự do lựa
chọn tham gia hoặc không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Họ có quyền
được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng BHXH tự nguyện phù hợp với
thu nhập của mình. Phí đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện dựa hoàn toàn vào sự
đóng góp của NLĐ mà không có sự đóng góp nào khác của người sử dụng lao
động. Nguyên tắc này xuất phát từ đối tượng của loại hình bảo hiểm xã hội tự
nguyêṇ, những người tham gia bảo hiểm xã hội thường là những NLĐ có thu
nhập thấp và không ổn định nên họ cần được tạo điều kiện phù hợp với nhu
cầu để thuận lợi hơn cho họ khi tham gia BHXH tự nguyện.
Thứ hai, các quy định BHXH tự nguyện phải linh hoạt trong giới hạn
hợp lý của toàn hệ thống, nhằm đảm bảo cân đối, hài hoà lợi ích của các chủ
thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đa phần NLĐ có nhu cầu thiết
yếu về bảo hiểm xã hội. Song nhu cầu đó phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa
lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ BHXH. Trong bảo hiểm xã hội tự
nguyện, tính linh hoạt được thể hiện rõ nét nhất ở quy định về mức đóng,
phương thức đóng và mức hưởng bảo hiểm. NLĐ khi tham gia BHXH tự
nguyện thường có quan hệ lao động không ổn định. Hằng tháng, NLĐ có thể
làm nhiều công việc khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau, với nhiều chủ sử dụng
lao động, do đó mức thu nhập giữa các tháng cũng khác nhau. NLĐ khi sử
dụng thu nhập của mình, trước hết họ dành phần lớn chi cho các nhu cầu sinh
15
sống hằng ngày của bản thân và gia đình, phần còn lại họ xem xét để đóng phí
BHXH tự nguyện. Phương thức đóng cũng cần phải linh hoạt để NLĐ có thể
đóng bảo hiểm hằng tháng, hằng quý, hoặc sáu tháng một lần, thậm chí một
năm một lần. Tuy nhiên, mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở
mức thu nhập do NLĐ lựa chọn, nhưng mức thu nhập này theo quy định của
pháp luật Việt Nam thì mức đóng thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của
khu vực nông thôn (trước đây là mức lương tối thiểu chung) và cao nhất
không quá 20 lần mức lương cơ sở (trước đây mức là 20 lần mức lương tối
thiểu chung). Việc quy định mức thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu
vực nông thôn và mức cao nhất bằng hai mươi lần lương cơ sở nhằm tạo sự
cân đối lợi ích của các chủ thể trong quan hệ BHXH tự nguyện. NLĐ đóng
bảo hiểm xã hội ở mức thấp thì đương nhiên chỉ nhận được trợ cấp thấp;
muốn được hưởng trợ cấp BHXH cao, điều đương nhiên NLĐ sẽ phải đóng
phí cao hơn. Nếu người tham gia bảo hiểm xã hội đóng phí bảo hiểm xã hội
thấp mà hưởng trợ cấp BHXH cao, sẽ ảnh hưởng đến an toàn của quỹ bảo
hiểm xã hội và tính lâu dài của chính sách BHXH sẽ không có khả năng thực
thi. Hiện nay nước ta đang ở trong tình trạng bội chi ngân sách, Nhà nước cần
có những chính sách phù hợp để đảm bảo sự an toàn của quỹ bảo hiểm xã hội,
đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. NLĐ tham
gia BHXH tự nguyện thường có thu nhập không ổn định, bấp bênh nên không
thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện không cần có lý do. Vì vậy, NLĐ có quyền tự chọn mức đóng,
phương thức đóng phù hợp với khả năng của họ. Mức hưởng bảo hiểm xã hội
tự nguyện cần đa dạng hơn và cần được tính toán trên cơ sở mức đóng, thời
gian tham gia BHXH. Quy định mức hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện như
vậy mới đảm bảo cân đối được lợi ích của người tham gia bảo hiểm và đảm
bảo cân đối nguồn quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện.
16
Thứ ba, người vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có
thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất
trên cơ sở tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự
nguyện. Thông thường, người tham gia BHXH bắt buộc được hưởng nhiều
chế độ hơn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trên thực tế, tùy thuộc
vào tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà NLĐ có thể có thời gian
tham gia BHXH bắt buộc vừa có thời gian tham gia BHXH tự nguyện. Pháp
luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết về việc chuyển đổi giữa hai loại hình
bảo hiểm này và NLĐ trong cùng một thời điểm chỉ có thể tham gia đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc hoặc bảo hiểm xã hội tự nguyện. Sự liên thông giữa bảo
hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng cho NLĐ khi họ vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện, vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để họ có thể
hưởng chế độ hưu trí, chế độ tử tuất theo quy định của pháp luật trên cơ sở
thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện. [40],
[42]
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của quốc gia
như các chính sách về an sinh xã hội và các chính sách xã hội. Trong hệ thống
an sinh xã hội của một quốc gia thường bao gồm các chính sách về bảo hiểm
xã hội, trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình, các quỹ tiết kiệm xã hội, các dịch vụ
xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng… Trong đó, bảo hiểm xã
hội là một trụ cột cơ bản nhất và có mối quan hệ mật thiết với các bộ phận
khác, nhằm góp phần thực hiện an sinh xã hội đất nước. Việc thực hiện chính
sách BHXH còn chịu tác động của nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, khả năng tài chính, các yếu tố về cơ chế, chính sách,
17
thể chế, pháp luật và trình độ nhận thức của người dân. Chính sách bảo hiểm
xã hội có mối quan hệ hữu cơ với các chính sách xã hội khác như chính sách
dân số, chính sách lao động - việc làm, chính sách chăm sóc sức khỏe dân
cư… Khi dân số tăng hoặc giảm sẽ làm cho cơ cấu dân số thay đổi. Điều này
sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu, quy mô của đối tượng tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện về nguyên tắc là mọi
NLĐ có nhu cầu tham gia, về cơ bản là mọi đối tượng lao động là công dân,
đang trong độ tuổi lao động. Có thể không hoạt động kinh tế như: người làm
nội trợ trong gia đình hoặc đang tham gia hoạt động kinh tế trong các lĩnh
vực, ngành nghề như: lao động tự do, lao động nông thôn… có nhu cầu và có
khả năng tham gia BHXH tự nguyện
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là người đóng góp phí
bảo hiểm xã hội để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác để được BHXH.
Đối tượng chủ yếu đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện là NLĐ.
Người sử dụng lao động không đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện,
đây là điểm khác biệt so với BHXH bắt buộc có sự tham gia của phía người
sử dụng lao động.
Đối với BHXH tự nguyện, người sử dụng lao động chỉ có thể tham
gia gián tiếp BHXH tự nguyện bằng hình thức là trả một khoản cố định với
tiền lương tháng cho NLĐ để họ tham gia BHXH tự nguyện. Chủ thể tham
gia bảo hiểm xã hội chủ yếu là NLĐ. NLĐ là tất cả những người trong độ tuổi
lao động, kể cả những người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể
gồm các đối tượng chính sau đây:
- Người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng
thực tế họ lại không được tham gia vì nhiều lý do khác nhau.
- Lao động làm việc trong các đơn vị không có quan hệ lao động, có
nguyện vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
18
- Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có quan hệ lao động,
không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; những người làm công ăn
lương theo hình thức hợp đồng lao động dưới 1 tháng.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014,
Điều 2 Nghị định số 134/2015/NĐ-CP và Thông tư số 01/2016/TTBLĐTBXH: Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ
đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Như vậy, đối tượng
NLĐ không thuộc diện BHXH bắt buộc chiếm tỷ lệ khá cao. Do đó, đòi
hỏi chính sách BHXH tự nguyện cần phù hợp với nhu cầu và khả năng tham
gia đóng góp của những NLĐ. Đồng thời, cần nghiên cứu cụ thể
hơn những đặc điểm của từng ngành nghề, tính chất và mức độ thu nhập của
NLĐ để xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện phù hợp nhằm mở
rộng hơn nữa các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
1.2.3.2. Mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH tự nguyện bao gồm nhiều loại hình lao động tham gia, với mức
thu nhập của NLĐ khác nhau, nên mức đóng cần tính toán sao cho phù hợp
với thu nhập và khả năng của đa số NLĐ nhằm thu hút nhiều đối tượng lao
động tham gia và đảm bảo cho việc hạch toán cân đối thu chi BHXH tự
nguyện.
Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện có vai trò quan trọng trong việc
cân đối thu chi để đảm bảo tổ chức và hoạt động quỹ BHXH tự nguyện. Mức
đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được xây dựng dựa trên cơ sở đáp ứng được
các nhu cầu trợ cấp bảo hiểm xã hội trong hiện tại và tương lai; đồng thời phải
phù hợp với mức sống và điều kiện thu nhập của số đông NLĐ trong từng
thời kì phát triển của đất nước.
19