Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.07 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒ KHÁNH LY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG
VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số

: 60. 38. 01. 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƢƠNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ
thực tiễn tỉnh Thái Bình” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN HỒ KHÁNH LY



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1. Tỉ lệ độ tuổi viên chức tỉnh Thái Bình tính đến 31/12/2016
Biểu 2.2. Tỉ lệ trình độ chuyên môn viên chức tỉnh Thái Bình tính đến
31/12/2016
Biểu 2.3. Tổng số chỉ tiêu đề nghị tuyển dụng viên chức tỉnh Thái Bình từ
năm 2012 đến năm 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………...……1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HIỆNPHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC ................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức 6
1.2. Nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ........... 15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức.... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN
DỤNGVIÊN CHỨC TẠI TỈNH THÁI BÌNH................................................ 32
2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Thái Bình ảnh hưởng đến thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức .......................................................................... 32
2.2. Cơ sở pháp lý thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái
Bình ................................................................................................................. 38
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình . 41
2.4. Đánh giá chung thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
tại tỉnh Thái Bình............................................................................................. 53
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI BÌNH .......................................................................................... 58
3.1. Quan điểm bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình ..................................................................... 58
3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức

từ thực tiễn tỉnh Thái Bình .............................................................................. 62
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua hơn 30 năm kể từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 của Đảng đã được nhiều thành
công quan trọng. Bên cạnh những mục tiêu, nhiệm vụ đã được đặt ra, một trong
những trọng tâm được nêu trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân
cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc...”,“xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong,
gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá
nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân”, “Đẩy mạnh xã hội hóa,
tách cung ứng dịch vụ công về quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng
quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan quản lý nhà nước;...” [7]. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, sự hội nhập quốc tế cùng với quá trình xã hội hóa các dịch vụ công
của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng được khẳng định
và đòi hỏi nâng cao. Năng lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ viên chức ngày
càng được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm.
Viên chức là một đội ngũ hoạt động nghề nghiệp lớn ở nước ta hiện
nay. Việc lựa chọn đội ngũ viên chức có năng lực tốt, phẩm chất đạo đức tốt,
đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm và nhu cầu của xã hội là một tiền
đề quan trọng để phát triển kinh tế và xã hội. Luật Viên chức được ban hành
vào ngày 15 tháng 11 năm 2010 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01

tháng 01 năm 2012 là một mốc quan trọng đánh dấu một bước tiến mới về sự
điều chỉnh của pháp luật đối với đội ngũ viên chức. Luật Viên chức ra đời đã
tạo nên một hành lang pháp lý mới, cụ thể hơn trong việc phân định, quản lý
và sử dụng viên chức, đã và đang tác động mạnh mẽ đến đội ngũ viên chức
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp ở nước ta hiện nay.

1


Việc thực hiện Luật Viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan trong những năm qua đã tạo nên sự thống nhất, đồng thuận và đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Trước hết, luật đã xây dựng được khái niệm
viên chức hoàn chỉnh, phân biệt với cán bộ, công chức một cách rõ ràng. Từ
đó xây dựng hệ thống các quy định về thẩm quyền quản lý, sử dụng viên
chức, các quyền và nghĩa vụ của viên chức, các chế độ chính sách,... đã được
quy định cụ thể và áp dụng một cách hiệu quả. Chất lượng viên chức được
nâng cao, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn được
đề cao rõ rệt. Để có được kết quả trên, một phần quan trọng là do pháp luật về
tuyển dụng viên chức đã được quy định cụ thể, chặt chẽ hơn, không còn việc
bị đồng hóa với việc tuyển dụng công chức. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức dần xuất hiện không ít những hạn chế,
gây nên sự chồng chéo và khó khăn trong công tác tuyển dụng của các cơ
quan, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng viên chức và cho các thí sinh tham
gia tuyển dụng. Việc này đã gây nên những tác động tiêu cực, ảnh hướng đến
nhiều cơ quan, đơn vị, tạo nên sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân. Vì vậy,
cần có nhiều hơn những nghiên cứu khoa học, làm cơ sở cho việc nâng cao
chất lượng hiệu quả của hoạt động tuyển dụng viên chức. Với những lý do
trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn Cao học Luật là đáp ứng
nhu cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, việc nghiên cứu về pháp luật
viên chức nói chung và việc tuyển dụng viên chức nói riêng đã được nhiều tác
giả quan tâm và đã có nhiều công trình khoa học được công bố. Có thể kể đến
một số công trình như:
-Bộ Nội vụ (2016), “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp
xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”;
- PGS.TS Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật
ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2


- Lê Minh Hương (2012), “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý viên chức theo Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ”, Tạp
chí Tổ chức Nhà nước số 5;
- Hoàng Minh Tuấn (2016), “Đổi mới chính sách tuyển dụng viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp thuộc Trung ương Đoàn”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 5;
- Nguyễn Huy Hoàng (2011), “Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự
nghiệp công lập ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ;
- Nguyễn Ngọc Bích (2016), “Pháp luật về tuyển dụng viên chức ở
nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ; .v.v..
Các công trình nghiên cứu khoa học trên chủ yếu đề cập đến nội dung
viên chức và pháp luật về tuyển dụng viên chức nói chung. Các công trình
nghiên cứu khoa học nêu trên là một nguồn tài liệu quý báu để tác giả học hỏi,
tham khảo để hoàn thiện đề tài tác giả đã lựa chọn. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật
tuyển dụng viên chức một cách hệ thống, đầy đủ. Với mong muốn nghiên cứu
một cách tổng quát về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức và thực tiễn

thực hiện pháp luật ở tỉnh Thái Bình hiện nay, luận văn hy vọng là nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho việc
đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức tại tỉnh Thái Bình nói riêng, trên phạm vi cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những khía cạnh lý luận cơ bản về
thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức.
- Mô tả, đánh giá thực tiễn tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình. Xác
định ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân dẫn tới những ưu điểm, hạn chế đó.

3


- Chỉ ra một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tỉnh Thái Bình; từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức ở tỉnh Thái Bình nói riêng, ở Việt Nam nói chung.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về tuyển dụng viên chức, điều chỉnh pháp
luật và thực hiện pháp luật về viên chức;
- Các quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức;
- Thực tiễn thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức đối với các
viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn và các đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện;

- Phạm vi không gian: Viên chức trong các cơ quan chuyên môn và các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trong
phạm vi tỉnh Thái Bình;
- Phạm vi thời gian: từ khi Luật Viên chức có hiệu lực thi hành vào
ngày 01 tháng 01 năm 2012 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết Mac-Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; những quan điểm, đường lối, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng về viên
chức.
Luận văn cũng vận dụng một số học thuyết phổ biến trong quá trình
nghiên cứu về tổ chức quyền lực nhà nước như: học thuyết nhà nước pháp
quyền, học thuyết về phân chia quyền lực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích: được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
4


chức, chương 3 - Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh: được áp dụng chủ yếu
trong chương 2- Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại
tỉnh Thái Bình, ...
Ngoài ra, luận văn còn áp dụng phương pháp tiếp cận đa ngành, liên
ngành và một số phương pháp thông dụng trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học
xã hội như: phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội
học…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật

về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay. Luận văn là công trình nghiên
cứu một cách tổng thể, đánh giá khái quát về cả phương diện lý luận, pháp
luật và thực tiễn kể từ khi Luật Viên chức có hiệu lực thi hành. Đồng thời chỉ
rõ những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, khó khăn trong quá trình
thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức. Từ đó đưa ra các quan điểm,
giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước
ta nói chung và của tỉnh Thái Bình nói riêng.
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao nhận thức, cung cấp
thêm cơ sở lý luận và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những
người làm công tác nghiên cứu, công tác giảng dạy, cũng như làm công tác tổ
chức, tuyển dụng viên chức.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
phần Nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật về
tuyển dụng viên chức
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại
tỉnh Thái Bình
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình.
5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
1.1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật

Pháp luật là một công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều chỉnh các
quan hệ xã hội, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội, đảm bảo lợi ích của
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Việc ban hành pháp luật không phải chỉ
chú trọng về số lượng, mà cần tập trung vào chất lượng, tức là pháp luật được
ban hành phải được thực hiện một cách nghiêm túc trong xã hội, mang lại
hiệu quả như mục đích đã đặt ra khi xây dựng pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ đó. Do vậy, việc xây dựng và thực hiện pháp luật là hai hoạt động
luôn song hành cùng nhau.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về thực hiện pháp luật:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá
trình có mục đích làm cho những những quy định của pháp luật trở thành
hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”[14,tr.349]. Theo quan điểm này
thì tất cả những xử sự phù hợp với các yêu cầu của các quy phạm pháp luật
đều được coi là sự thực hiện pháp luật. Đó là các xử sự (hành động hay không
hành động) của các cá nhân, tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật,
phù hợp với lợi ích của xã hội, nhà nước và công dân.
Từ một góc nhìn khác, PGS.TS Nguyễn Minh Đoan quan niệm: “Thực
hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định
của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế hợp
pháp của các chủ thể pháp luật”[9,tr.15]. Như vậy, thực hiện pháp luật là việc
xác lập các hành vi hợp pháp, những hành vi không trái với pháp luật, nằm
trong giới hạn quy định của pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

6


Theo tư tưởng về thực hiện pháp luật của môn học Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động
có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong

cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật”[32,tr.270].
Mặc dù có những khác biệt nhất định nhưng nhìn chung, các quan điểm
trên đều đồng nhất cho rằng thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích,
làm cho các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành có ý nghĩa thực tế, đi
vào đời sống xã hội, tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho con người
và xã hội. Tất cả những xử sự được tiến hành phù hợp với quy định của các
quy phạm pháp luật trên thực tế đều được coi là sự thực hiện các quy phạm
pháp luật đó.
Tóm lại, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hay không hành
động) có mục đích của cá nhân, tổ chức nhằm hiện thực hóa các quy định của
pháp luật làm cho chúng đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm viên chức
Theo nhiều quan điểm cho rằng “viên chức” được dùng để chỉ những
người làm việc trong các cơ quan, tổ chức công hoặc tư, được hưởng lương
theo ngạch, bậc, trình độ và chức vụ. Cách hiểu như vậy bao trùm lên cả
những cán bộ, công chức, hợp đồng lao động đang làm việc trong bộ máy
công quyền, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm viên chức được thay đổi và hoàn thiện theo
từng thời kỳ. Trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì không đưa ra khái niệm viên chức, mà chỉ sử dụng thuật ngữ “công
chức” để gọi những “công dân Việt Nam được Chính quyền nhân dân tuyển
để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài
nước đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng do Chính phủ
quy định” (Điều 1 Sắc lệnh số 76/SL). Đến đầu những năm 60 đến 80 của thế
7


kỷ XX, nước ta thường sử dụng cụm từ “cán bộ, công nhân viên chức nhà

nước” để chỉ tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp[24,tr.23].
Tại Hiến pháp năm 1980, 1992 thuật ngữ “cán bộ, viên chức nhà nước” đã
được sử dụng.
Pháp lệnh cán bộ công chức 1998, Pháp lệnh Cán bộ công chức sửa
đổi, bổ sung 2003 và các văn bản hướng dẫn có thể thấy khái niệm viên chức
dần được hình thành một cách rõ nét hơn và được khái quát như sau: “Viên
chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội hưởng lương
từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp
luật.” (Điều 2, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính
phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn
vị sự nghiệp Nhà nước). Đến Luật Viên chức năm 2010 được Quốc hội khóa
XII ban hành thì khái niệm viên chức đã được nghiên cứu, xây dựng một cách
riêng biệt, cụ thể và toàn diện. Theo đó, tại Điều 2 Luật Viên chức thì“Viên
chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
các đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, viên chức là công dân Việt Nam, làm việc theo vị trí việc làm
trong các đơn vị sự nghiệp công lập về các lĩnh vực (giáo dục và đào tạo, y
tế, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao,...) theo chế độ hợp đồng làm việc,
nhằm cung cấp dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và xã hội và
phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.
1.1.1.3. Tuyển dụng viên chức
Hiểu một cách đơn giản và khái quát nhất thì “tuyển dụng” là việc lựa
chọn để sử dụng người làm việc phù hợp với vị trí việc làm. Với cách hiểu
như vậy, bất kỳ cơ quan, đơn vị, tổ chức nào có nhu cầu về nhân lực thì đều
phải tiến hành hoạt động tuyển dụng. Tại Điều 3, Luật Viên chức đã nêu rõ
8



tuyển dụng là “việc lựa chọn người có phẩm chất, trình độ và năng lực vào
làm viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập”. Như vậy, tuyển dụng là việc
lựa chọn một thành viên mới đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ để trở thành viên chức.
Tuyển dụng viên chức khác với tuyển dụng công chức. Do công chức là
người đại diện cho nhà nước, thay nhà nước thực hiện quyền lực thông qua
công vụ. Vì vậy, tuyển dụng công chức được tuân theo những điều kiện,
phương thức chặt chẽ hơn. Tuyển dụng viên chức cũng có những khác biệt với
tuyển dụng nhân lực trong các đơn vị, tổ chức ngoài công lập. Tuyển dụng
nhân lực vào các đơn vị, tổ chức ngoài công lập chủ yếu tuân thủ theo Bộ luật
Lao động và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, mà không nhất thiết
phải theo quy định về tuyển dụng viên chức. Việc tuyển dụng viên chức được
thực hiện theo Luật Viên chức và các văn bản khác có liên quan, đồng thời
cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật lao động, vì bản chất viên chức
cũng là người lao động, làm việc cho đối tượng sử dụng lao động đặc biệt.
Tuyển dụng viên chức là một hoạt động quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Hiện nay, các
đơn vị, tổ chức ngoài công lập đang phát triển mạnh mẽ và đang dần chiếm
ưu thế trong xã hội, thì việc tuyển dụng viên chức làm việc trong các đơn vị
sự nghiệp công lập càng cần được chú trọng và thực hiện nghiêm túc hơn nữa.
1.1.1.4. Pháp luật về tuyển dụng viên chức
Xem xét ở nhiều góc độ, thì mối quan hệ trong tuyển dụng viên chức là
mối quan hệ giữa chủ thể quản lý, sử dụng viên chức và người dự tuyển. Do
tính tổ chức trong quản lý hành chính nhà nước cũng như trong các quan hệ
lao động nên đòi hỏi những hành vi của các bên phải được đặt trong một
khuôn khổ đã được quy định. Vì vậy, sự điều chỉnh của pháp luật trong hoạt
động này là cần thiết.
Pháp luật về tuyển dụng viên chức giữ một vị trí quan trọng trong hệ

thống pháp luật về viên chức, là sự thể chế hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước về tuyển chọn, quản lý con người nhằm nâng cao chất lượng
9


đội ngũ viên chức [24,tr.21]. Hiện nay, về cơ bản, pháp luật về tuyển dụng viên
chức đã được quy định chặt chẽ về thẩm quyền tuyển dụng, hình thức tuyển
dụng, các bước thực hiện tuyển dụng việc ký hợp đồng lần đầu, chế độ tập
sự,... Theo quy định của pháp luật hiện nay, việc tuyển dụng viên chức phải
căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
Tóm lại, có thể hiểu pháp luật về tuyển dụng viên chức là tổng thể các
quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành và được bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình lựa chọn người có
đủ các điều kiện, tiêu chuẩn vào làm viên chức trong các đơn vị sự nghiệp
công lập.
1.1.1.5.Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
Như đã phân tích ở các nội dung trên, thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức là giai đoạn quan trọng thứ hai sau khi văn bản pháp luật được
ban hành, là quá trình mang tính ý chí chủ quan của các chủ thể pháp luật
trong tuyển dụng viên chức nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về tuyển
dụng viên chức. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là quyền và
nghĩa vụ của mọi tổ chức, các nhân khi tham gia quan hệ về tuyển dụng viên
chức. Có nhiều quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức bắt buộc các chủ
thể pháp luật phải tuân thủ, thi hành. Bên cạnh đó có những quy định của
pháp luật về tuyển dụng viên chức, trong quyền hạn cho phép của pháp luật,
các chủ thể có thể tự do thực hiện các hành vi của mình nhằm đạt được mục
đích trong hoạt động tuyển dụng viên chức.
Từ những nhận định trên có thể hiểu: Thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức là hoạt động thực tiễn, có mục đích của các cá nhân, tổ chức

làm cho các quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức được đi vào đời
sống, xã hội và trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật trong
lĩnh vực tuyển dụng viên chức.

10


1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức mang những đặc điểm cơ
bản của thực hiện pháp luật nói chung và những đặc điểm riêng. Những đặc
điểm chung cơ bản của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức thể hiện
như sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là giai đoạn
quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật nhằm đưa quy
phạm pháp luật thực định về tuyển dụng viên chức vào đời sống thực tiễn.
Pháp luật về tuyển dụng viên chức chỉ phát huy được giá trị và vai trò của
mình chỉ khi nó được tôn trọng và được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ trong
cuộc sống. Hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức đưa kết
quả của hoạt động xây dựng pháp luật viên chức vào thực tế và được các chủ
thể khác nhau thực hiện một cách hợp pháp trong đời sống xã hội. Do vậy,
xây dựng và ban hành pháp luật nhiều hay ít không quan trọng bằng việc tổ
chức thực hiện pháp luật một cách chính xác, triệt để. Thực hiện pháp luật về
tuyển dụng viên chức là một giai đoạn quan trọng để việc điều chỉnh các quan
hệ trong tuyển dụng viên chức của Nhà nước nhằm đạt được hiệu quả như đã
đặt ra. Bằng việc thực hiện các quy phạm pháp luật, các cá nhân,tổ chức tham
gia hoạt động tuyển dụng viên chức đã đưa các quy phạm pháp luật về tuyển
dụng viên chức vào đời sống, xã hội, tạo nên giá trị và hiệu quả của pháp luật
về lĩnh vực này.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là hành vi hợp
pháp của các chủ thể pháp luật. Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư

xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. Hành vi
thực hiện pháp luật là hành vi được xem xét dưới góc độ có ích cho tập thể và
xã hội. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là hành vi (hành động
hay không hành động) được tiến hành phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi và trong
phạm vi quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức, do vậy nó là hành vi
hợp pháp [9,tr.12]. Thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức là hành vi hợp
pháp mà trong đó pháp luật đã cho quy định quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể đối
11


với từng chủ thể khác nhau. Nếu vượt quá những quy định này thì hành vi đó
là vi phạm pháp luật.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là nghĩa vụ của tất
cả các tổ chức và cá nhân. Hiện nay, chủ thể thực hiện pháp luật được coi là
mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Pháp luật mang tính bắt buộc chung, không
phân biệt một cá nhân hay tổ chức riêng biệt nào, mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật [9,tr.13]. Do vậy, tất cả các cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ
tuân thủ, thực hiện pháp luật. Đây là một đặc điểm thể hiện về quyền bình
đẳng trước pháp luật đã được ghi nhận trong đạo luật cơ bản. Thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức là nghĩa vụ của tất cả các chủ thể khi tham gia,
không ai có một đặc quyền ưu tiên hay bị hạn chế thực hiện các hành vi mà
pháp luật về tuyển dụng viên chức không cho phép.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức được tiến hành
thông qua nhiều hình thức và với những quy định khác nhau. Mỗi loại quy
phạm pháp luật khác nhau có cách thức và quy trình thực hiện khác nhau. Các
hình thức thực hiện pháp luật được sử dụng một cách phù hợp, đan xen, hỗ trợ
cho nhau để nâng cao hiệu quả tuyển dụng viên chức. Pháp luật về tuyển dụng
viên chức được thực hiện với nhiều quy trình, có thể được tiến hành thông
qua thủ tục đơn giản hoặc cũng có thể phải thực hiện thông qua các quy trình
phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau theo

những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật đã quy định [9,tr.15].
Bên cạnh những đặc điểm chung thì thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức còn có những đặc điểm riêng biệt sau:
Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức chịu tác động của nhiều
yếu tố, trong đó yếu tố con người đóng vai trò quan trọng. Hoạt động tuyển
dụng nói chung và tuyển dụng viên chức nói riêng luôn chịu sự tác động từ
nhiều yếu tố khác nhau. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước, sự phát triển của nền kinh tế thị trường,... đã và đang
là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến quá trình thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức. Tuy nhiên, con người là yếu tố có vai trò quan trọng, ảnh
12


hưởng trực tiếp đến quá trình tuyển dụng. Con người bao gồm cả các chủ thể có
thẩm quyền tuyển dụng và những người tham gia dự tuyển. Hiệu quả việc tuyển
dụng viên chức cao hay thấp, khách quan hay chủ quan phụ thuộc vào người
tham gia hoạt động tuyển dụng viên chức. Con người cũng là mục đích cuối
cùng của việc tuyển dụng, là tuyển chọn người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đáp
ứng yêu cầu của vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp.
Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức phải đồng thời phù hợp
với các quy định pháp luật viên chức và pháp luật lao động. Hiện nay, viên
chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp và ký kết hợp đồng làm việc. Có thể
hiểu viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng, và được coi là một kiểu lao
động hợp đồng đặc biệt, đây là một đặc điểm khác với công chức. Do vậy,
trong quá trình thực hiện tuyển dụng viên chức ngoài việc phải thực hiện
đúng theo các quy định của pháp luật viên chức còn phải phù hợp với các quy
định của pháp luật lao động.
1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần kiểm
nghiệm các quy định pháp luật trong thực tiễn, là cơ sở cho quá trình hoàn

thiện pháp luật về viên chức. Bất kỳ quy phạm pháp luật được xây dựng và
ban hành thì phải được kiểm nghiệm thông qua việc thực hiện pháp luật.
Thông qua quá trình tổ chức thực hiện, mới có thể nhận định pháp luật về
tuyển dụng viên chức được đón nhận, phù hợp với yêu cầu của xã hội và đạt
được mục đích khi xây dựng và ban hành pháp luật hay không. Pháp luật về
tuyển dụng viên chức luôn cần được thực hiện một cách đầy đủ, linh hoạt và
phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh. Nhưng trong thực tế, pháp luật về
tuyển dụng viên chức không thể bao quát để điều chỉnh được tất cả các tình
huống cụ thể có thể xảy ra, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện. Tuy nhiên những tồn tại, khó khăn trong thực hiện pháp luật
là một cơ sở, kinh nghiệm quý báu để góp phần vào việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tuyển dụng viên chức trong tương lai cho phù hợp với yêu
cầu của xã hội và sự phát triển của đất nước.
13


Thứ hai, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của nhà nước. Pháp luật được xây dựng để nhà nước
tham gia điều chỉnh mối quan hệ xã hội một cách hiệu quả. Thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của
nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để quyền và nghĩa vụ của các cá nhân dự
tuyển viên chức được đảm bảo, đồng thời các đơn vị sự nghiệp công lập được
tự do trong khuôn khổ pháp luật cho phép để lựa chọn những người có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc. Việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về
tuyển dụng viên chức làm cho hoạt động này luôn được phát triển ổn định
dưới sự quản lý của nhà nước, thể hiện hiệu quả hoạt động của nhà nước trong
lĩnh vực tuyển dụng viên chức.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần bảo đảm
các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Pháp luật nước ta nói
chung và pháp luật về người lao động nói riêng luôn là sự cụ thể hóa các quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Bất kỳ một cá nhân nào, đều có quyền lao động,
sáng tạo và phát triển, được cạnh tranh một cách công bằng, công khai. Pháp
luật về tuyển dụng viên chức được xây dựng không trái với đạo luật cơ bản và
quy định khác về người lao động. Vì vậy, nội dung của pháp luật tuyển dụng
viên chức luôn hướng tới bảo vệ các quyền cơ bản cho người lao động, quyền
công dân, quyền con người. Do vậy, thực hiện nghiêm túc pháp luật về tuyển
dụng viên chức là hành vi thiết thực nhất để góp phần bảo đảm các quyền cơ
bản của con người, quyền công dân, tạo sự công bằng trong xã hội.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức được thực hiện
hiệu quả sẽ giúp tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của đội
ngũ viên chức và nhân dân. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức sẽ
làm tác động đến nhiều mặt của xã hội như các quyền và nghĩa vụ của công
dân, kinh tế, an ninh xã hội,... Việc tổ chức, thực hiện pháp luật không
nghiêm minh, sẽ dẫn đến quyền của nhiều cá nhân không được đảm bảo, làm
mất sự công bằng trong xã hội, tạo nên sự không đồng thuận trong nhân dân.
14


Sự lựa chọn nguồn nhân lực chất lượng kém trong các đơn vị sự nghiệp công
lập làm giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị, dẫn đến các dịch vụ công không
được cung cấp đầy đủ, phúc lợi của nhân dân không được đảm bảo, gây bất
bình trong xã hội. Thực hiện pháp luật một cách công bằng, công khai, minh
bạch và đúng pháp luật giúp cho đội ngũ viên chức và nhân dân có nhận thức
rõ ràng hơn, nghiêm túc hơn về pháp luật về tuyển dụng viên chức, góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của nhiều thành phần trong xã hội.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần tạo
lập nguồn nhân lực chất lượng cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Xuất
phát từ khía cạnh đơn vị sự nghiệp công lập, một phần của bộ máy nhà nước,
nơi cung cấp các dịch vụ công, thì thực hiện đầy đủ pháp luật về tuyển dụng

viên chức là việc tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, qua đó, mới
thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao, lựa chọn được nhiều người
đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, của đơn vị. Đội ngũ viên chức có chất
lượng lao động tốt, hiệu quả hoạt động cao, là một sự phát triển đi lên của đơn
vị sự nghiệp công lập. Từ góc độ người dự tuyển, do xã hội phát triển, ngày
càng có nhiều tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước cung cấp dịch vụ, việc cạnh
tranh giữa các tổ chức, đơn vị trong và ngoài nhà nước ngày càng mãnh liệt,
nên người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với năng lực của mình.
Những người có năng lực làm việc cao, kinh nghiệm tốt sẽ lựa chọn vào
những đơn vị sự nghiệp tuyển dụng công bằng, khách quan, bảo đảm các
quyền và sự phát triển của mình. Việc thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
chức một cách nghiêm minh là một lợi thế quan trọng để các đơn vị sự nghiệp
công lập có thể thu hút, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng tốt, nâng cao
hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.2. Nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
1.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
Hiện nay, pháp luật về tuyển dụng viên chức được quy định chủ yếu tại
Luật Viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Thông tư số 15/2012/TT-BNV
15


ngày 25/12/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng
làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức; Thông tư số
16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012 của Bộ Nội vụ Ban hành quy chế thi
tuyển, xét tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối
với viên chức và nội quy kỳ thi tuyển và thi thăng hạng chức danh nghề
nghiệp đối với viên chức. Pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta đang
tập trung vào những nội dung, đó là: căn cứ tuyển dụng; nguyên tắc tuyển
dụng; điều kiện dự tuyển; thẩm quyền tuyển dụng; phương thức tuyển dụng;

thủ tục tuyển dụng viên chức.
1.2.1.1. Căn cứ tuyển dụng viên chức
Luật Viên chức đã quy định tại Điều 20 về căn cứ tuyển dụng viên
chức, cụ thể: “Việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc,
vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn
vị sự nghiệp công lập.” Theo quy định này, việc tuyển dụng viên chức cần
phải căn cứ vào 04 yếu tố sau: nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhu cầu công việc là bước đầu tiên để xây dựng kế hoạch tuyển dụng,
khi đó, các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ phải xác định những công việc có nhu
cầu cần tuyển người làm việc, yêu cầu của công việc đó cần những gì. Từ đó có
thể xác định cụ thể về trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và các yêu
cầu khác có liên quan nhằm đưa ra yêu cầu đối với người dự tuyển. Việc xây
dựng vị trí việc làm là một khâu quan trọng trong tuyển dụng viên chức.
Theo quy định pháp luật tại Khoản 1 Điều 7 Luật Viên chức thì vị trí
việc làm được hiểu là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề
nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người
làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý
viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo khoản 1 Điều 8 Luật Viên chức thì: “Chức danh nghề nghiệp là
tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức
trong từng lĩnh vực nghề nghiệp.” Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là trình
16


độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một viên chức ít nhất cần đạt được
để đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm. Đặc thù trong từng công việc là yếu tố
quyết định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Do đó, mỗi công việc cần
những trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm nhất định để có thể hoàn
thành và đáp ứng được nhu cầu pháp triển của đất nước, của xã hội.

Quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập là cơ sở để xem xét việc
thanh toán các chế độ tiền lương cho viên chức. Các chế độ tiền lương của
viên chức không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến đời sống của bản thân viên
chức cũng như ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập đó.
Như vậy, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là đơn vị sự
nghiệp công lập phải thực hiện cả bốn yếu tố trên thì mới đủ căn cứ để tuyển
dụng viên chức. Để làm được điều này, cần có sự kết hợp sử dụng các hình
thức thực hiện pháp luật một cách phù hợp. Các đơn vị sự nghiệp công lập,
phải tiến hành xác định nhu cầu công việc dựa trên chức năng, nhiệm vụ của
đơn vị là một hình thức sử dụng pháp luật. Việc xây dựng vị trí việc làm, tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp đã được pháp luật quy định cụ thể, vì vậy các
đơn vị sự nghiệp phải tuân thủ, thi hành. Quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp
công lập được báo cáo hàng năm và được kiểm soát đối với hoạt động của
đơn vị theo quy định, đây cũng là một hình thức thi hành pháp luật. Việc sử
dụng quỹ tiền lương trong việc tuyển dụng viên chức là cách sử dụng pháp
luật tùy thuộc vào người đứng đầu đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
1.2.1.2. Nguyên tắc tuyển dụng viên chức
Hiện nay, pháp luật quy định có 05 nguyên tắc tuyển dụng viên chức,
đó là: Bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng, khách quan và đúng pháp
luật; Bảo đảm tính cạnh tranh; Tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu của
vị trí việc làm; Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công
lập; Ưu tiên người có tài năng, người có công với cách mạng, người dân tộc
thiểu số (Điều 21 Luật viên chức). Nhìn chung, các nguyên tắc tuyển dụng
viên chức đáp ứng được yêu cầu của người tuyển dụng cũng như nhu cầu của
xã hội. Các nguyên tắc tuyển dụng viên chức có nhiều tương đồng với các
17


nguyên tắc tuyển dụng công chức được quy định tại Điều 38 Luật Cán bộ,
công chức. Điểm mới, khác biệt rõ ràng trong tuyển dụng viên chức và tuyển

dụng công chức là việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu sự nghiệp
công lập. Các nguyên tắc tuyển dụng viên chức là những quy định có tính bắt
buộc mà các đơn vị sự nghiệp phải thi hành, không được vi phạm những quy
định này.
1.2.1.3. Điều kiện dự tuyển viên chức
Theo quy định hiện hành thì điều kiện dự tuyển viên chức được quy
định cụ thể tại Điều 22 Luật Viên chức, bao gồm:
Thứ nhất, có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam. Theo quy định
này, thì người nước ngoài, người Việt Nam cư trú ở nước ngoài sẽ không là
đối tượng được dự tuyển viên chức. Quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 5
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính Phủ về tuyển
dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước thì điều kiện dự tuyển “Là công dân Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại
Việt Nam”. So với Luật Viên chức, thì điều kiện dự tuyển này đã được mở
rộng hơn.
Thứ hai, từ đủ 18 tuổi trở lên. Đối với một số lĩnh vực hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, tuổi dự tuyển có thể thấp hơn theo quy định
của pháp luật; đồng thời, phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện
theo pháp luật. Luật Viên chức không quy định độ tuổi tối đa của người được
dự tuyển viên chức. Đây là quy định phù hợp với các quy định về độ tuổi lao
động hiện nay. Ngoài ra, pháp luật còn quy định độ tuổi dự tuyển cho một số
lĩnh vực đặc thù có thể thấp hơn 18 tuổi, nhưng phải có sự đồng ý của người
đại diện theo quy định.
Thứ ba, có đơn đăng ký dự tuyển. Đơn đăng ký dự tuyển là sự thể hiện
nguyện vọng của người dự tuyển muốn làm việc tại vị trí việc làm nào, từ đó
đơn vị sự nghiệp công lập mới có những phương án tiến hành tuyển dụng phù
hợp.

18



Thứ tư, có lý lịch rõ ràng. Căn cứ vào lý lịch đã được cấp có thẩm
quyền xác nhận, người tuyển dụng có thể xác định được những thông tin cơ
bản và chính xác về nhân thân, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm,... của
người dự tuyển.
Thứ năm, có văn bằng, chứng chỉ đào tạo, chứng chỉ hành nghề hoặc có
năng khiếu kỹ năng phù hợp với vị trí việc làm. Các văn bằng, chứng chỉ thể
thiện cụ thể nhất về trình độ chuyên môn của người dự tuyển. Căn cứ vào điều
kiện này, đơn vị sự nghiệp công lập có thể xác định trình độ, năng lực của người
dự tuyển có đáp ứng được nhu cầu của vị trí việc làm cần tuyển hay không.
Thứ sáu, đủ sức khoẻ để thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ. Sức khỏe
là điều kiện tất yếu và cơ bản nhất để thực hiện và hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao. Không phải chỉ cần lúc tuyển dụng viên chức mới có sức khỏe tốt,
mà trong quá trình làm việc lâu dài, sức khỏe cũng phải luôn cần được đảm
bảo ở tình trạng tốt.
Thứ bảy, đáp ứng các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí việc làm do
đơn vị sự nghiệp công lập xác định nhưng không được trái với quy định của
pháp luật. Do đặc thù mỗi ngành nghề khác nhau, yêu cầu của mỗi nhiệm vụ
khác nhau, nên không thể quy định cứng điều kiện dự tuyển của tất cả các vị
trí đều như nhau. Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy việc quy định này còn khá
chung chung, mà có nhiều ngành, lĩnh vực đòi hỏi, yêu cầu các điều kiện làm
việc khác nhau. Nếu như những điều kiện trên là những quy định phải thực
hiện, không được cắt lược, thì tại điều kiện cuối cùng có thể coi là quy định
mở để các đơn vị sự nghiệp công lập có thể vận dụng để lựa chọn người phù
hợp nhất đáp ứng mọi yêu cầu của vị trí việc làm. Tuy nhiên, vì quy định
chưa cụ thể nên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều ý kiến trái chiều,
thậm chí có người lợi dụng quy định này để đưa ra điều kiện tuyển dụng viên
chức mang tính chủ quan, gây khó khăn cho người đăng ký dự tuyển.
Bên cạnh đó, Luật Viên chức có quy định những người không được
đăng ký dự tuyển, đó là những người mất hành vi dân sự; bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành bản án,
19


quyết định về hình sự của Tòa án; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Quy định này
hoàn toàn phù hợp với pháp luật hiện hành cũng như điều kiện thực tế ở nước
ta và cần phải được chấp hành nghiêm túc trongquá trình tuyển dụng.
1.2.1.4. Thẩm quyền tuyển dụng viên chức
Theo pháp luật viên chức hiện nay, thẩm quyền tuyển dụng viên chức
được quy định như sau: Đối với đơn vị sự nghiệp công lập giao quyền tự chủ
quy định tại đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về
thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự thì người đứng đầu
đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức; quyết
định tuyển dụng viên chức qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Đối với đơn vị sự
nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ quy định tại đơn vị sự nghiệp
công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, nhân sự thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm,
miễn nhiệm người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức thực hiện hoặc
phân cấp tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức cho đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc quyền quản lý; quyết định hoặc ủy quyền quyết định tuyển
dụng viên chức qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Đối với tổ chức sự nghiệp thuộc
Chính phủ, người đứng đầu các tổ chức sự nghiệp này tổ chức hoặc phân cấp
tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức; quyết định tuyển dụng viên chức
qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
Có thể nhận thấy, pháp luật về tuyển dụng viên chức được đổi mới theo
hướng phân cấp, đề cao trách nhiệm người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công
lập. Đây là quy định mà để thực hiện được cần sử dụng hình thức sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật. Tùy thuộc vào đặc điểm và thẩm quyền của
người đứng đầu sự nghiệp công lập được giao thì việc thực hiện tuyển dụng

viên chức sẽ khác nhau.
1.2.1.5. Phương thức tuyển dụng
Thi tuyển viên chức

20


Phương thức thi tuyển viên chức được quy định cụ thể tại Mục 2
Chương II Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ bao gồm các nội dung:
nội dung và hình thức thi; điều kiện miễn thi một số môn; cách tính điểm; xác
định người trúng tuyển trong kỳ thi tuyển viên chức. Các bài thi đều được tính
theo thang điểm 100. Nội dung và hình thức thi được quy định khá cụ thể, theo
đó, người dự tuyển phải thực hiện bốn bài thi: môn kiến thức chung, môn
chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành, môn ngoại ngữ, môn tin học văn phòng.
Môn ngoại ngữ và môn tin học văn phòng là hai môn thi điều kiện, tức là
không tính điểm của hai môn thi này vào tổng điểm để xác định người trúng
tuyển. Bên cạnh đó pháp luật có quy định ưu tiên có lợi cho người dự tuyển, đó
là điều kiện để được miễn thi môn ngoại ngữ, môn tin học trong trường hợp
đặc biệt tại Điều 8 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Đây là những
môn thi mà pháp luật đã đề ra, yêu cầu những đơn vị tổ chức thi tuyển viên
chức thực hiện theo các quy định này. Căn cứ vào điều kiện, nhu cầu, người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp có thể quyết định tổ chức thực hiện thi những môn
thi trắc nghiệm trên giấy hoặc thực hành qua máy tính.
Việc xác định người trúng tuyển được căn cứ vào kết quả thi: mỗi môn
thi đạt từ 50 điểm trở lên và tổng số điểm gồm bài thi kiến thức chung và các
bài thi chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành. Người trúng tuyển có kết quả
thi cao hơn, lấy theo thứ tự từ cao xuống thấp cho đến hết chỉ tiêu tuyển dụng
của từng vị trí việc làm. Pháp luật đã đưa ra những dự kiến trong trường hợp
có từ 02 người trở lên có kết quả thi bằng nhau ở chỉ tiêu cuối cùng cần tuyển
dụng để quy định thứ tự ưu tiên người trúng tuyển tại Điều 10 Nghị định

29/2012/NĐ-CP. Những ưu tiên này thể hiện được phần nào chính sách của
Đảng và nhà nước ta trong thời kỳ hiện nay: trọng dụng người có năng lực,
kinh nghiệm khi ưu tiên những đối tượng có điểm thực hành cao hơn, có thời
gian công tác tình nguyện; thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn đối với
những người có công trong cách mạng, với xã hội; đảm bảo bình đẳng giới
khi ưu tiên người trúng tuyển là nữ. Để xác định đúng người trúng tuyển, đơn
vị sự nghiệp công lập đang có nhu cầu tuyển dụng viên chức cần sử dụng các
21


×