Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497)
A. Cuộc đời và sự nghiệp
Lê Thánh Tông sinh ngày 20
tháng 7 âm lịch (nhằm ngày 25 tháng 8
dương lịch) năm Đại Bảo thứ 3 (Nhâm
Tuất 1442) tên húy là Tư Thành, tên
dùng trong các văn kiện ngoại giao với
nhà Minh là Lê Hạo, hiệu Thiên Nam
động chủ, Đạo Am chủ nhân, Tao Đàn
nguyên súy là con thứ tư và cũng là con
út của vua Lê Thái Tông. Mẹ là bà Ngô
Thị Ngọc Giao con gái của Thái bảo
Ngô Từ một trong những công thần
khai quốc của nhà Lê. Người làng
Động Bàng, huyện Yên Định, phủ
Thanh Hóa.
Lê Tư Thành sinh ra tại chùa
Huy Văn – nay ở phía trong ngõ Văn
Chương, phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ), Hà Nội. Khi Lê Tư Thành được sinh
ra, ông được sách Đại Việt sử ký toàn thư miêu tả: “Thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc
khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông
minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước”.
Sống giữa chốn dân gian cho đến khi lên 4 tuổi. Mẹ vua Nhân Tông khi đó
đang buông rèm nghe chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm
Bình Nguyên vương hằng năm cùng vua Nhân Tông và các vương hầu khác học
tập tại tòa Kinh Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ
hơn người, rất được vua Nhân Tông yêu quý.
Bình Nguyên vương lại sống vô cùng kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra
ngoài, chỉ vui với sách vở cổ kim, nghĩa lý thánh hiền, ưa điều thiện, thích người
hiền, chăm chỉ không biết mệt mỏi.
1
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Ngày 3 tháng 10 âm lịch năm 1459, niên hiệu Diên Ninh thứ 6, Lạng Sơn
vương Lê Nghi Dân đang đêm bắc thang lên tường thành, rồi chia làm ba đường
lẻn vào cung cấm làm binh biến. Vua Lê Nhân Tông và Hoàng thái hậu Nguyễn
Thị Anh bị giết, Lê Nghi Dân lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Hưng. Lê
Nghi Dân phong Bình Nguyên vương Lê Tư Thành làm Gia vương, và sai dựng
phủ Gia Hưng bên trái nội cung để Tư Thành ở.
Lê Nghi Dân lên ngôi, tin dùng nịnh thần, sát hại bề tôi và thay đổi pháp
chế, cho nên không được lòng dân và các đại thần văn võ.
Ngày 8 tháng 6 âm lịch năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi ở điện
Tường Quang, lấy niên hiệu là Quang Thuận và ban chiếu đại xá thiên hạ. Ông
cũng truy tặng miếu hiệu, thụy hiệu cho mẹ con Lê Nhân Tông và lập bài vị thờ hai
người họ trong Thái miếu.
Lê Thánh Tông là hoàng đế thứ năm của nhà Lê sơ nước Đại Việt. Ông trị vì
từ năm 1460 – 1497, kéo dài 38 năm, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Lê sơ và
cũng là một trong những vị vua cai trị trong thời kỳ hòa bình lâu nhất trong lịch sử
Việt Nam. Trải qua hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460 – 1469) và Hồng
Đức (1470 – 1497).
Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài,
khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn
bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ
biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông.
Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho
đến ngày nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất
dưới thời phong kiến nước ta.
Bộ Đại Việt sử kí toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi –
1479 dưới sự chỉ đạo của Lê Thánh Tông.
Ông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 Tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó
gọi là “Tao Đàn nhị thập bát tú” do nhà vua làm nguyên súy.
Lê Thánh Tông được xem là một vị hoàng đế anh minh thời Hậu Lê. Trong
thời kỳ cầm quyền của ông, nhà nước Đại Việt quật khởi mạnh mẽ thực sự, phát
2
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
triển rực rỡ ở mọi phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và quân sự. Ông
cũng mở rộng đáng kể lãnh thổ Đại Việt sau nhiều cuộc chiến với các nước xung
quanh như Chiêm Thành (là tên gọi của vương quốc Chăm Pa trong sử sách Việt
Nam từ năm 877 – 1693. Trước năm 859, Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn
Vương. Đầu thế kỷ thứ XI, Chiêm Thành gồm 4 tiểu vương quốc là: Amaravati
(vùng Quảng Nam, Đà Nẵng, và vùng Bình – Trị - Thiên nhưng sau này bị sáp
nhập vào Đại Việt), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định), Kauthara (vùng Phú
Yên, Khánh Hòa) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay), Ai
Lao (Lào) và Bồn Man (là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng
Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muôn, ở phía đông nước Lào và
một phần các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng từ Nghệ An đến Quảng
Bình). Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như
Đại Việt, Lan Xang, Ayutthaya và sau cùng là Pháp. Khi nằm dưới sự bán cai trị
của Đại Việt vùng đất này có tên là Trấn Ninh, thuộc xứ Nghệ An).
Ngày 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497, Lê Thánh Tông mất, thọ 56 tuổi, an
táng ở Chiêu Lăng.
Các thành tựu về nội trị và đối ngoại của Lê Thánh Tông đã đưa Đại Việt trở
thành một cường quốc lớn mạnh trong khu vực Đông Nam Á, cũng như khiến nền
quân chủ Việt Nam đạt đến đỉnh cao hoàng kim nhất của nó, trước và sau không có
thời vua nào của Việt Nam đạt được sự thịnh vượng như thời này.
B. Tư tưởng giáo dục
Sự nghiệp giáo dục dưới thời Lê Thánh Tông được quan tâm và phát triển
mạnh mẽ hơn hẳn các triều đại trước. Bên cạnh việc sửa sang, mở rộng Văn Miếu
ở kinh đô, nhà vua đặc biệt quan tâm đến việc củng cố và phát triển Quốc Tử
Giám, tổ chức các kỳ thi để đào tạo và tuyển dụng nhân tài.
Lần đầu tiên xuất hiện các thầy giáo chuyên dạy một Kinh (trong 5 Kinh)
nhất định bên cạnh các giáo thụ của Quốc Tử Giám, các huấn đạo ở các huyện phụ
trách việc dạy học cho con em nhân dân.
Lần đầu tiên xuất hiện hệ thống các giám sinh nội trú có học bổng với ba
loại: Thượng xá, Trung xá và Hạ xá và bên cạnh các lớp chung có những lớp riêng
Sùng văn quán, Tú lâm cục. Đó là bộ phận giảng dạy và đào tạo.
3
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Trong thi cử, lần đầu tiên, dưới thời Lê Thánh Tông các kỳ thi Hương (ở đạo
thừa tuyên), thi Hội (ở trung ương) được định ra rất rõ ràng và thực hiện nghiêm
chỉnh. Lê Thánh Tông cho phép đặt ở mỗi đạo thừa tuyên một trường thi Hương và
quy định số lượng người được phép lấy đỗ cũng như được phép lên kinh thi Hội.
Lệ “Bảo kết thi hương” được ban hành. Ngay từ năm 1463, kỳ thi Hội đã
được tổ chức và nhà vua đã tự chọn người làm Đề điệu, Giám thí, Độc quyền,
Khảo thí... cũng như tự mình ra đề thi cho kỳ thi Đình, phân chia thứ bậc.
Điều đáng trân trọng của chế độ thi cử đương thời là theo chủ trương của Lê
Thánh Tông, “Lấy rộng người thực tài, không lo bội số”. Do đó, nhà sử học Phan
Huy Chú đã ca ngợi: “Khoa cử các đời, thịnh nhất là thời Hồng Đức. Cách lấy đỗ
rộng rãi, cách chọn người công bằng...Trong nước không để sót nhân tài, triều
đình không dùng lầm người kém”.
“Dụng nhân duy hiền” của Lê Thánh Tông là như vậy, tuy năm đầu tiên đã
có 1.400 thí sinh, Lê Thánh Tông vẫn khuyến khích việc học hơn nữa bằng hàng
loạt lệ tôn vinh như xướng danh, yết bảng vàng công khai những người đỗ cửa
Đông Hoa, dự yến, vinh quy bái tổ và đặc biệt là dựng bia Tiến sĩ.
82 tấm bia còn lại ở Văn Miếu Hà Nội ngày nay là kết quả của sự tôn vinh
đó ở thời Lê Thánh Tông, cũng như không có thời kỳ nào mà qua 12 kỳ thi Hội
(dưới triều Lê Thánh Tông), đã đỗ được 501 Tiến sĩ, trong đó có 10 Trạng nguyên,
nhiều Bảng nhãn và Thám hoa.
Chế độ khoa cử ngày xưa gắn liền với vấn đề nhân sự của bộ máy nhà nước.
Triều đại vua Lê Thánh Tông đã đánh dấu bước mở đầu quyết định của chế độ đào
tạo quan chức bằng giáo dục.
Đó cũng là bước khẳng định sự chuyển đổi từ chế độ quan liêu thân tộc sang
chế độ quan liêu tri thức, mở rộng cửa quan trường cho mọi tầng lớp nhân dân.
Lê Thánh Tông giao Đông Các đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Lại Thân
Nhân Trung soạn một bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, để nói về ý nghĩa
của khoa thi Hội năm 1442 dưới thời Lê Thánh Tông.
4
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Từ khi nhà Lê dựng nước đến năm này, đây là khoa thi đầu tiên được tổ chức
với quy mô rộng lớn với nguyên tắc chặt chẽ, với sự tham gia chấm thi của nhiều
bậc hiền tài như: Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân...
Khoa thi đã chọn được 33 người đỗ. Trong số đó có Nguyễn Trực đỗ Trạng
Nguyên, Nguyễn Như Đỗ đỗ Bảng nhãn và Lương Như Học đỗ Thám hoa.
Theo Thân Nhân Trung trong văn bia 1484 và văn bia 1487 thì việc coi trọng
khoa thi, quý trọng hiền tài, được thực hiện từ Lê Thái Tổ.
Tuy nhiên, đến đời vua Lê Thánh Tông thì việc này được nhà vua đặc biệt
quan tâm và được tổ chức chu đáo nhất. Thân Nhân Trung nhận định rằng: “Phàm
những điều triều trước đã làm thì noi theo mà giữ lấy. Việc mà những triều trước
chưa làm được thì bổ sung và cho mở rộng thêm. Sau khi loa truyền yết bảng, lại
cho dựng đá đề tên, cốt để lưu truyền mãi mãi. Phép hay ý đẹp đều làm đến nơi
đến chốn”.
Lê Thánh Tông thấy cần thiết phải dựng thêm bia đã đề tên Tiến sĩ. Ý tốt đẹp
của nhà vua là nêu lên vai trò của hiền tài là đem lại hưng thịnh cho đất nước.
Vâng mệnh nhà vua, Thân Nhân Tông thảo bài văn bia 1484 và bài văn bia
1487, qua đó ông nêu lên những điều cơ bản trong chính sách hiền tài của nhà
nước. Ông viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất
nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp”.
Ông còn viết: “Nhân tài phồn thịnh vốn có quan hệ đến khí hóa của trời đất và cốt
ở cái gốc giáo hóa của thánh nhân” (Văn bia 1487).
Có khí hóa của trời đất tức là nói hoàn cảnh thịnh trị của đất nước trong đó
mọi sự vật đều phát triển tốt đẹp. Theo Thân Nhân Trung đó là thời đại Lê Thánh
Tông. Có sự giáo hóa của thánh nhân là nói về sự quan tâm đặc biệt của nhà vua
đối với việc giáo dưỡng tuyển chọn và đãi ngộ hiền tài.
C. Nhận xét
Lê Thánh Tông không chỉ là một vị vua giỏi giữ vị trí hàng đầu trong công
cuộc xây dựng đất nước, củng cố nhà nước phong kiến mà còn là một nhà chính trị
tài ba, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, có công lao vô cùng to lớn trong sự nghiệp
giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
5
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, thời kỳ Lê Thánh Tông chính là
giai đoạn giáo dục, khoa cử được coi trọng bậc nhất. Chế độ khoa cử ngày xưa gắn
liền với vấn đề nhân sự của bộ máy nhà nước. Triều đại Lê Thánh Tông đã đánh
dấu bước mở đầu quyết định của chế độ đào tạo quan chức bằng giáo dục.
Đó cũng là bước khẳng định sự chuyển biến từ chế độ quan liêu thân tộc
sang chế độ quan liêu tri thức, mở rộng của quan trường cho mọi tầng lớp nhân
dân. Đây cũng là giai đoạn trí thức được đề cao.
Lê Thánh Tông đã mất cách đây 520 năm nhưng những gì Lê Thánh Tông đã
làm trong việc trọng dụng hiền tài vẫn gợi cho chúng ta rất nhiều điều đáng suy
nghẫm. Tất nhiên, dùng thực tiễn của lịch sử cách chúng ta khá xa để nói về bài
học cho ngày nay là một điều không hề đơn giản. Mỗi thời mỗi khác, không thể
sao chép máy móc kinh nghiệm quá khứ để áp cho hiện tại. Mặc dù vậy, nhưng tấm
gương và kinh nghiệm lịch sử Lê Thánh Tông với việc trọng dụng hiền tài vẫn gợi
cho chúng ta những điều rất cần học ở vị minh quân này:
Thứ nhất, muốn trọng dụng hiền tài trước tiên phải thật sự hiểu sâu sắc tầm
quan trọng của hiền tài đối với sự phát triển của quốc gia và sự vững mạnh của chế
độ. Đặc biệt, nhân tài rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia. Điều đó lại
càng trở nên rõ nét trong bối cảnh thế giới bước vào thời đại cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 ở đó đổi mới, sáng tạo, cùng hệ thống công nghệ cao, công nghệ
tự động hóa, trí thông minh nhân tạo trở thành nhân tố then chốt quyết định sức
mạnh của mỗi quốc gia và sức cạnh tranh của mỗi nền kinh tế.
Thứ hai, đối với hiền tài cần thực sự tin tưởng và giao trọng trách tương
xứng với tài năng và đạo đức của người được giao cùng chế độ đãi ngộ thỏa đáng.
Thứ ba, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ đội ngũ cán bộ, công chức bởi đây là
lực lượng có thể góp phần rất lớn cho sự phát triển của đất nước khi đó là đội ngũ
tiên tiến nhưng cũng có thể gây nhiều vấn đề phức tạp khi bị tha hóa, biến chất.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức, bảo
đảm thực sự không có vùng cấm trong kiểm soát quyền lực, không ai đứng trên
luật pháp, cao hơn pháp luật.
Thứ tư, đầu tư mạnh cho giáo dục và khoa học công nghệ theo hướng coi
trọng hiệu quả, đề cao thực lực, học đi đôi với hành, dùng thực tiễn để kiểm tra tài
6
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
năng, năng lực của người được đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động giáo dục,
đào tạo, khoa học công nghệ với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
và nhu cầu quản trị của quốc gia.
Thứ năm, thực hiện nghiêm chủ
trương của Đảng và Nhà nước về công
tác cán bộ.
Chu Văn An (1292 – 1370)
A. Cuộc đời và sự nghiệp
Chu Văn An – ngôi sao sáng của nền giáo dục đời Trần.
7
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy
là Văn Trinh. Ông sinh ngày 25/8/1292 (năm Nhâm Tuất) và mất năm 1370 (năm
Canh Tuất). Người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là
huyện Thanh Trì), Hà Nội. Ông vừa là một nhà giáo, một thầy thuốc và cũng là
một đại quan đời Trần dưới thời vua Trần Anh Tông, được phong tước Văn Trinh
Công nên đời sau quen gọi ông là Chu Văn An.
Thuở nhỏ, ông sống với mẹ, được mẹ cho ăn học và nổi tiếng là thần đồng.
Sức học của ông không ai bì kịp, tiếng tăm vang dội xa gần. Ngay từ nhỏ, Chu Văn
An đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không
cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Thế nhưng sau khi thi đậu Thái học sinh Chu Văn
An không tiến thân bằng con đường khoa cử, mà ở nhà mở trường dạy học ở làng
Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo
dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam.
Ông không phân biệt học trò giàu hay nghèo, đều áp dụng quy chế học tập
như nhau. Học trò kéo đến học với ông rất đông.
Khoa thi năm 1314, hai học trò của ông là Phạm Sư Mạnh và Lê Quát đã đổ
Thái học sinh, gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử. Khi về thăm thầy vẫn giữ lễ,
được thầy nói ít lời thì rất lấy làm mừng. có những học trò cũ không tốt, ông thẳng
thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách
thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm của ông ngày càng lan xa. Đức độ
và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các
loại. Ngôi trường mang tên Cung Hoàng của ông đã góp phần không nhỏ trong
việc đào tạo nhân tài.
Năm Khai Thái đời vua Trần Minh Tông (1314 – 1369) ông mới nhận chức
Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám, dạy học cho Thái tử Trần Vượng (Thái tử là vua Trần
Hiến Tông trong tương lai). Ông đã cùng với Mạc Đỉnh Chi, Phạm Sư Mạnh,
Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần
vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Trong thời gian giữ chức Tư nghiệp trường
Quốc Tử Giám và dạy học, ông đã soạn tác phẩm “Tứ thư thuyết ước” gồm 10
quyển, đời sau ghi nhận đây là sách giáo khoa giảng dạy Nho giáo do người Việt
Nam biên soạn. Đây là bộ sách được ông tóm lược tinh túy của bốn tập sách: Luận
ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung để giảng dạy cho môn sinh.
8
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Năm 1329, vua Trần Minh Tông nhường ngôi cho Trần Hiến Tông, vị vua
này được thầy Chu Văn An quan tâm dạy dỗ, nhưng chỉ mới 23 tuổi đã qua đời.
Khi vua Trần Dụ Tông lên ngôi thì triều Trần bắt đầu suy thoái, chính sự bắt đầu
nhiễu nhương. Bọn quyền thần, cận thần nhiều người bất tài, o bế vua để lộng
quyền, hà khắc, tham nhũng, làm nhiều điều vô đạo. Dân tình đói khổ.
Chu Văn An vốn là người điềm đạm, thẳng thắn, cương trực, có uy tín cao
trong triều. Nhìn trung thần nghĩa sĩ bị hãm hại, các quan Ngự sử chuyên việc can
giáng vua giờ chỉ biết ăn lộc (ai có định can vua, gia đình phải phát tang làm ma
sống rồi mới vào triều) ông đã dũng cảm dâng “Thất trảm sớ” xin chém đầu bảy
tên nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Nhưng vua không nghe. Sớ
thất trảm ấy bị thất truyền, không rõ nội dung như thế nào, người đương thời cũng
ít người được biết ông đã xin chém những ai. Có thể Dụ Tông muốn tránh rắc rối
cho triều đình và giữ yên cho Chu Văn An nên đã hủy đi. Dù thế, thất trảm sớ đã
gây chấn động dư luận, nói như người xưa “làm kinh động quỷ thần” trở thành
biểu tượng chói sáng của thái độ trí thức trước thời cuộc. Do “Thất trảm sớ” không
được thực hiện ông bèn “treo mũ ở cửa Huyền Vũ” rồi từ quan về ở ẩn tại núi
Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, lấy hiệu là
Tiều Ẩn (người đi hái củi ẩn dật). Trong thời gian này ông làm nhiều bài thơ nói
lên tâm sự của mình qua 2 tập “Tiều Ẩn thi tập” và “Quốc ngữ thi tập”. Để đào tạo
nhân tài cho đất nước, ông lại mở trường dạy học cho nhân dân quanh vùng và lấy
đó làm niềm vui.
“Nhấp nhô sen nước xa mùi tục
Ngay thẳng măng đồng át giậu tre
Lặng dựa cành ngô người tựa biếng
Gió đâu giở sách, ý khôn dè”.
(Đầu mùa hạ - Đinh Văn Chấp dịch)
Khi ông ở ẩn, vua Trần Dụ Tông có lúc tỉnh ngộ, nhiều lần ép ông trở lại làm
quan nhưng ông khéo léo từ chối. Biết quyền lực và danh vọng không khuất phục
được ông. Hiền Từ thái hậu khuyên vua: “Người ấy là bậc cao hiền, Thái tử không
bắt làm bầy tôi được nữa là chực đem chính sự bắt ép người ta sao được!”.
9
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Vua không nghe, sai đem áo mũ ban cho ông, ông nhận lấy nhưng đem cho
người khác. Người thời đó ai cũng khen ông là người cương trực, thanh cao. Vua
Trần Dụ Tông băng hà, vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, lúc đó ông tuổi đã cao
nhưng vẫn chống gậy về kinh chúc mừng vua mới. Trần Nghệ Tông mời ông ra
làm quan nhưng ông vẫn một lòng từ chối.
Dù ở ẩn nhưng học trò cũ vẫn không quên lui tới thăm ông. Những học trò
của ông như: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, dù làm quan cao chức lớn, khi đến thăm
ông vẫn cúi đầu lạy dưới giường và không dám ngồi chung chiếu trò chuyện với
ông. Thấy ông nghèo túng, có người kín đáo để lụa là, châu báu ngầm tặng ông,
khi biết được ông sai tiểu đồng đem tặng lại cho người nghèo khổ khác.
Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất đời Trần Nghệ Tông ngày 26/11 năm
Canh Tuất 1370, thọ 79 tuổi. Được vua Trần Nghệ Tông thương tiếc ban cho tên
thụy là Văn Trinh, hiệu Khang Tiết tiên sinh và đưa vào Văn miếu thờ cùng các bậc
tiên nho.
B. Tư tưởng giáo dục
Hiện nay, nghiên cứu về tư tưởng, nội dung và phương pháp giáo dục của
Chu Văn An là rất khó khăn, bởi những tác phẩm của ông không còn được lưu giữ
một cách đầy đủ. Tuy nhiên, trong tâm thức dân tộc, ông luôn được thừa nhận là
một nhà giáo dục hành động chứ không phải là một nhà giáo dục thuần lí và triết lí,
giáo dục của ông là triết lí hành động, triết lí thực tiễn.
Trước hết, triết lí giáo dục của Chu Văn An thể hiện ở việc đem nhiệt tình
và tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Quế
Đường thi tập” cho biết Chu Văn An dạy học trò là Tú Sĩ rằng: “Phàm học thành
đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau,
đấy đều là phận sự của nhà Nho chúng ta”. Ở đây, có lẽ tư tưởng của Khổng Tử
được Chu Văn An thể hiện một cách rõ ràng và mang tính tiến bộ vượt bậc khi ông
coi nhiệm vụ của nhà Nho là phải “công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau”. Việc
ông không hề có tham vọng đem tài năng thi thố làm quan mà lại được mời ra làm
một chức quan trông coi việc giáo dục cho triều đình đã thể hiện rõ tinh thần của
Thánh hiền đạo Nho: “Không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có
10
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
tài đức để người ta biết đến.” Chu Văn An đã dùng chính thực học và tài đức của
mình mà ảnh hưởng tới nền giáo dục đương thời.
Thứ hai, triết lí giáo dục của Chu Văn An thể hiện rõ ở chủ trương giáo dục
không phân biệt đối tượng. Thời nhà Trần đã có một số trường công do triều đình
mở ra như Quốc Tử Giám, trường học ở phủ Thiên Trường,... nhưng phần lớn các
trường này chỉ dành cho con em quý tộc. Chu Văn An đã mở trường tư thục Cung
Hoàng ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo có ý chí trau đồi kinh sử để thi thố tài
năng giúp nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh
thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính
phủ”. Thực hiện tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử, ông nhận dạy tất cả
những người cầu học: Thái tử con vua (sau này làm vua); các học trò đỗ đạt cao,
làm quan trong triều (như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh) và biết bao nhiêu học trò khác
tuy không thành đạt được như vậy nhưng chí ít cũng thấm đẫm tư tưởng và tinh
thần của ông mà đem ảnh hưởng đó tác động đến sự thay đổi của xã hội đương
thời. Với tình cảm thương yêu học trò, không phân biệt đối xử, ông nhận được ở họ
sự trân trọng, khâm phục và kính yêu.
Thứ ba, về nội dung giáo dục, Chu Văn An chủ yếu truyền đạt tư tưởng Nho
gia. Việc ông giảng giải và viết “Tứ thư thuyết ước” đã chứng tỏ cho mục đích cao
nhất của ông là “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, dạy sự
trung hậu, dạy sự văn nhã. Tuy có ảnh hưởng triết học Phật giáo và Lão giáo nhưng
khuynh hướng Nho học ở ông là chủ đạo. Các học trò của ông đều thể hiện rõ tư
tưởng “sùng Nho”, “bài Phật” (sùng bái đạo Nho, bài bác đạo Phật). Nội dung tư
tưởng và thực tiễn giáo dục theo tinh thần Nho học của Chu Văn An được thể hiện
ở những nét chính sau đây:
+ Một là, Chu Văn An dẫn dắt học trò đi theo con đường hành
đạo của một nhà Nho chân chính: sống trong thời loạn lạc, dẫu có thất thế cũng
không pha màu u uất, xa lánh trần tục một cách hoàn toàn mà vẫn cứng cỏi trụ
vững ở đời, trái tim vẫn chung nhịp với thế cuộc bể dâu. Tuy ở ẩn nhưng “Tấc son
nào đã như tro nguội/ Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa”.
Triết lí giáo dục hành động của Chu Văn An còn được thể hiện rõ trong
phương châm dạy học luôn gắn với thực tiễn đời sống của nhân dân. Ông dạy học
11
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
trò phải biết kính yêu người dân lao động, có trách nhiệm chăm lo đến đời sống
của họ.
+ Hai là, ông giáo dục triết lí sống phải có tinh thần dũng cảm,
tiết tháo cao thượng, trừ hại giúp dân cứu nước, sẵn sàng hi sinh tính mạng của
mình. Điều này thể hiện trong hành động dâng “Thất trảm sớ” của ông.
Thứ tư, trong giáo dục và đào tạo học trò, Chu Văn An quan tâm đến việc
biên soạn sách để cho người học có được tài liệu học tập. Đây là một quan điểm
mới trong cách quan niệm về nội dung và phương pháp giáo dục của ông. Không
chỉ chú trọng nội dung giáo dục về đạo làm người theo tinh thần Nho gia (ông viết
“Tứ thư thuyết ước” – đã thất lạc – và có lẽ đây là bộ sách đầu tiên luận giải về
Nho giáo một cách có hệ thống) mà Chu Văn An còn biên soạn cả những tài liệu về
y học trị bệnh cứu người – “Y học yếu giải tập chu di biên”. Ông cũng viết hai tập
thơ “Quốc ngữ thi tập” và “Tiều Ẩn thi tập” để bồi bổ thêm tinh thần và kiến thức
sâu rộng, toàn diện cho học trò. Việc Chu Văn An viết sách không chỉ đơn giản là
để làm tài liệu học tập mà cao hơn cả là qua đó, để gìn giữ và khuếch trương di sản
văn hóa của dân tộc (dùng chữ Nôm), khẳng định sự độc lập về văn tự đối với nền
văn hóa Hán.
Chu Văn An là chủ xướng của bốn quan điểm sau:
- Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật.
- Chính tâm: luôn luôn giữ lòng cho mình, không làm điều gì trái với lương
tâm.
- Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí.
- Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến
nhân tâm.
Ở bốn quan điểm này, chúng ta thấy Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả
hai mặt trí dục và đức dục, học và hành.
C. Nhận xét
12
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Theo nhận định của sử thần Ngô Sĩ Liên, tấm gương Chu Văn An đã góp
phần tích cực cải tạo đạo đức xã hội: “Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng
thắn can ngăn, xuất xử làm theo nghĩa lí, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở
cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được.
Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt
mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm
cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu
không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người
của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà Nho nước Việt ta mà thờ
vào Văn Miếu”.
Tóm lại, suốt cuộc đời mình, Chu Văn An cống hiến cho sự nghiệp giáo
dục. Đặc điểm lớn nhất trong triết lí giáo dục của ông chính là ở việc thực thi tư
tưởng “hữu giáo vô loại”, đem đạo đức Nho gia mà truyền dạy cho các thế hệ học
trò nhằm tác động biến đổi thời cuộc có lợi cho muôn dân. Tiếc thay, nhà Trần đến
mạt suy vong, một mình thầy Chu cũng không cưỡng lại được bánh xe lịch sử. Cốt
cách, tinh thần ông, trí tuệ như sao Bắc Đẩu, đạo học cao như Thái Sơn của ông đã
tạo nên một nhân cách lớn mẫu mực trong truyền thống lịch sử giáo dục nước nhà.
Cho đến nay, nhân cách thanh cao, liêm khiết, cương nghị của người thầy giáo Chu
Văn An vẫn luôn in đậm trong tâm trí người dân Việt Nam cùng những vần thơ
thắm mãi cùng năm tháng:
“Thân nhàn tựa áng mây trôi,
Gió trăng nửa gối, việc đời nhẹ thênh.
Cõi trần xa, cõi Phật thanh.
Sân hoa máu đỏi, chim oanh lứu lường”.
Hồ Quý Ly (Chưa rõ năm sinh và năm mất)
A. Cuộc đời và sự nghiệp
13
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Hồ Quý Ly mất ở Trung Quốc, không rõ năm nào. Ông quê ở Nghệ An di cư
ra Thanh Hóa, làng Đại La (nay thuộc huyện Hà Trung).
Ông có bà cô ruột là mẹ đẻ Trần Nghệ Tông nên được đưa vào cung giúp
việc. Dần dần, do tài năng xuất sắc, ông được nhận các chức vụ trọng yếu, nắm giữ
binh quyền lên đến chức Thái sư.
Năm 1400, ông phế bỏ nhà Trần, lập triều đại nhà Hồ, lên ngôi vua, đặt tên
nước là Đại Ngu.
Ở ngôi chưa được một năm, ông bắt chước nhà Trần, truyền ngôi cho con là
Hồ Hán Thương, để mình giữ vị trí Thái
thượng hoàng. Quân Minh xâm lược, hai
cha con ông và các tướng tá thất trận, bị
bắt ở huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh), bị
đưa về Kim Lăng (Trung Quốc). Chỉ có
con cả Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh
cho làm quan. Còn Hồ Quý Ly và Hồ
Hán Thương đều mất ở bên đó, không rõ
thời gian nào.
Xét về tư cách nhà chính trị, người
cầm quyền đất nước, Hồ Quý Ly đã có
nhiều sáng kiến táo bạo, muốn xây dựng
đất nước trở nên cường thịnh, vượt khỏi
tình trạng suy thoái của thời Trần mạt.
Ông đặt ra các phép hạn điền, hạn nô,
định lại chế độ thuế khóa, cho phát hành
tiền giấy, quy định việc đo lường. Ông cũng quan tâm đến các vấn đề cứu tế xã hội,
lập các sở Quảng tế, các kho lúa đề phòng trợ cấp lúc mất mùa.
+ Phát hành tiền giấy:
Tháng tư Bính Tý (1396) bắt đầu phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao, cứ
1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy (Thể thức: tờ 10 đồng vẽ rong, 30 đồng
14
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
vẽ sóng, 1 tiền vẽ mây, 2 tiền vẽ rùa, 3 tiền vẽ lân, 5 tiền vẽ phượng, 1 quan vẽ
rồng). Kẻ nào làm giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu. Cấm chỉ dân gian
không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều thu về kho Ngao Trì ở kinh
thành và trị sở các xứ, nếu người nào tàng trữ hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội
như người làm giả tiền giấy.
Trên thực tế giá trị tiền giấy thấp hơn tiền đồng rất nhiều. Nhưng tại sao có
sự thay đổi tiền tệ? Trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt với Chiêm Thành, Nghệ
Tông đã sai đem giấu tiền ở núi Thiên Kiện (Hà Nam) và khám Khả Lãng (Lạng
Sơn) vào tháng 8 và tháng 10 Kỷ Mùi –1379. Khi Chế Bồng Nga tử trận (đầu năm
Canh Ngọ - 1390), Chiêm Thành không còn là mối đe dọa đến an nguy của Đại
Việt, tháng 10 cùng năm triều đình sai thợ đá đào mở hang núi Thiên Kiện và hang
núi Khuẩn Mai để lấy tiền của chôn ở đây nhưng cả hai núi đều bị lở, cửa hang bị
lấp kín, đào mãi không được, đành phải bỏ. Như vậy việc phát hành tiền giấy
chẳng qua chỉ là giải pháp tình thế, mục đích để giải quyết tình trạng ngân khố
trống rỗng đồng thời chiếm dụng tiền cuả nhân dân. Chính sách này là đề nghị của
Vương Nhữ Chu chứ không phải sáng kiến của Hồ Quý Ly. Một số người khen
ngợi rằng tiện dụng, táo bạo, đi trước thời đại. Thực tế loại tiền giấy này không có
giá trị vì kỹ thuật in ấn còn thủ công, không được bảo chứng bằng quý kim, dễ rách
nát, dễ làm giả vì thế vấp phải sự chống đối của dân chúng, họ thường dùng hàng
hoá để trao đổi thay vì dùng tiến giấy, đến nỗi sau khi lên ngôi, Hán Thương phải
lập điều luật để xử tội người không tiêu tiền giấy (1403). Chính sách tiền giấy của
Hồ Quý Ly đã thất bại và các triều đại sau trở lại dùng tiền đồng.
+ Ban hành chính sách hạn điền:
Tháng 6 Đinh Sữu (1397) xuống chiếu hạn chế danh điền (ruộng tư): đại
vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế, thứ dân hạn chế là 10 mẫu,
số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước. Người phạm tội được phép đem ruộng
chuộc tội.
Năm sau hạ lệnh cho dân, người nào có ruộng phải khai báo số mẫu ruộng,
trên mặt ruộng phải cắm thẻ ghi rõ họ tên của mình, các quan ở lộ, phủ, châu và
huyện phải kiểm xét đo đạc 5 năm mới xong. Ruộng nào không có người khai báo
thì sung làm ruộng công. Lúc ấy hành khiển Hà Đức Lân nói kín với người nhà
“Đặt ra phép này chỉ để ăn cướp ruộng của dân đấy thôi”. Hồ Quý Ly nghe biết
15
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
liền giáng chức Đức Lân làm Hộ bộ thượng thư. Thật đáng sợ khi tai mắt của Hồ
Quý Ly ở khắp nơi, bầu không khí nguy kỵ lo lắng bao trùm Đại Việt, mọi người
đều không dám hở môi.
+ Làm sổ hộ tịch:
Tháng 4 năm Tân Tỵ (1401): biết nhà Minh dòm ngó Đại Việt, Hồ Quý Ly
từng nói “Làm thế nào có trăm vạn quân để địch với giặc Tàu”, Hoàng Hối Khanh
dâng kế sách này, biên nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, dân đinh ngụ những nơi khác thì
đuổi về nguyên quán, làm 2 nơi Diễn Châu và Thanh Hoá tính số người từ 15 tuổi
trở lên, 60 tuổi trở xuống gấp bội so với trước.
+ Chính sách hạn nô:
Tháng 4 năm Tân Tỵ (1401): quy định tuỳ theo phẩm cấp mà có số lượng
khác nhau, nhằm hạn chế số gia nô của quý tộc và quan chức, số thừa phải dâng
lên sung vào quân ngũ. Các gia nô đều thích vào trán các hình khác nhau để đánh
dấu. Bọn đại sĩ phu mong được lòng Hồ Quý Ly, dâng thư khuyên giết hại con
cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ.
+ Định lại các lệ thuế và tô ruộng:
Tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1402) có phần giảm nhẹ cho các đối tượng khó
khăn như gia đình nghèo, phụ nữ goá bụa....
+ Cải cách thi cử:
Có nhiều tiến bộ, phỏng theo lối văn tự ba trường cuả nhà Nguyên, lại có kỳ
thi viết chữ và toán pháp, do đó đã tuyển chọn được nhiều nhân tài: Nguyễn Trãi
đỗ kỳ thi Thái học sinh năm Canh Thìn (1400). Tháng 12 năm Tân Tỵ (1401) lấy
Nguyễn Phi Khanh (tức Nguyễn Ứng Long) cha cuả Nguyễn Trãi làm Hàn lâm học
sĩ…
Ngoài ra nhà Hồ còn sửa sang đường sá, khai thông sông ngòi, mở mang hải
cảng, đóng chiến thuyền, chỉnh đốn quân ngũ, đắp thành .v.v… để chuẩn bị chiến
tranh với Chiêm Thành và đối phó với nhà Minh.
Về quân sự, ông rất lo việc đối phó với xâm lược nhà Minh, nên chăm chú
việc phòng thủ, nhất là ở các cửa biển, đồng thời tăng cường quân lực hòng đối
16
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
phó với tình hình. Sợ dân chúng không phục , xem ông là một ngụy triều, ông gắng
biểu dương thanh thế, phát triển sự nghiệp Nam tiến và cũng đã chiến thắng Chiêm
Thành, thu được các đất Chiêm Động và Cổ Lũy.
Ông cũng biểu hiện ra có khả năng nắm vững quyền chuyên chính của mình,
dẹp yên được một số âm mưu đảo chính như hội thề Đốn Sơn của con cháu nhà
Trần. Mặc dù có nhiều cải cách sáng tạo, có những cố gắng chỉnh đốn quốc gia,
nhưng ông đã không được lòng dân. Bọn xâm lược nhà Minh cho các tướng
Trương Phụ, Mộc Thanh kéo sang, quân ta kháng chiến mạnh mẽ, nhưng bị thất
bại. Cả hai cha con và một số triều thần bị bắt. Nhà Hồ bị tiêu diệt và nước ta bị
thuộc nhà Minh suốt mười năm (từ năm 1406).
Thông thường, chúng ta chỉ nghĩ rằng Hồ Quý Ly là một nhà chính trị, và là
một ông vua. Thực ra, phải thấy rằng, đồng thời ông cũng là một nhà giáo dục: cả
về mặt đường lối giáo dục và cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ. Những ngày chưa
nắm chính quyền, ông đã đảm nhận việc giảng dạy cho các hoàng tử và những
người trong cung. Và lúc nào, ông cũng đưa ra nhiều ý kiến táo bạo, sắc sảo. Ông
đã cho thi hành nhiều chính sách mới: sửa đổi phép thi, buộc thí sinh phải thi môn
toán và chính tả, mở thư viện quốc gia, lập trường học ở các phủ huyện, lấy ruộng
công để làm học điền, cho sưu tầm gia phả các họ trong nước đưa về kinh đô,...
Những việc làm ấy rõ ràng có ý nghĩa như một chủ trương cải cách giáo dục.
Về phương diện học thuật, Hồ Quý Ly cũng có những ý kiến mạnh dạn độc
đáo. Ông vạch ra những chỗ đáng ngờ trong kinh điển, hạ địa vị của Khổng Tử cho
là không xứng đáng đứng đầu như mọi người thường ngưỡng mộ. Ông chỉ trích
các nhà nho có uy tín đời Đường, đời Tống mặc dù dư luận đã khẳng định họ là
bậc thầy. Với ông, Hàn Dũ là một đạo nho (nhà nho ăn trộm) còn bọn Trình Tử,
Chu Tử là những người học rộng tài sơ, chỉ chuyên ăn cắp văn chương tư tưởng.
ông cũng khinh ghét bọn nệ cổ, hay viện những chuyện xưa ra làm khuôn phép,
cho đó là kiểu người “người câm hay nói, chỉ tổ mua cười”. Hồ Quý Ly còn dịch
một số đoạn trong Kinh Thư ra chữ Nôm để làm tài liệu giảng dạy cho vua và cung
nữ. Những tài liệu trên đây, ngày nay đã mất, song sử sách có chép lại và phải công
nhận Hồ Quý Ly là người có những tư tưởng độc lập trong học thuật cũng như
trong giáo dục. Không chỉ đối với đương thời, mà đặt ông vào cả quá trình tiến
triển của lịch sử giáo dục phong kiến Việt Nam. Có thể thấy, cũng không có quá
nhiều trường hợp tương tự.
17
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Tuy vậy nhà Hồ không được lòng dân vì sự độc đoán tàn bạo của Hồ Quý
Ly.
B. Tư tưởng giáo dục
Từ nửa sau thế kỷ XVI, đất nước Đại Việt thời kỳ cuối vương triều Trần đã
lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện trên tất cả các phương diện
kinh tế - xã hội. Nhu cầu cần phải cải cách, đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng đã trở thành đòi hỏi cấp thiết của lịch sử. Và, dòng tư tưởng cải cách
ở thời kỳ lịch sử này đã được hình thành, mà Hồ Quý Ly là một đại biểu xuất sắc.
Hồ Quý Ly đã khởi xướng, rồi trở thành người lãnh đạo, tổ chức và thực
hiện trực tiếp công cuộc cải cách này. Tư tưởng và hoạt động cải cách của ông
được đánh giá là dũng cảm, táo bạo, mạnh mẽ và đầy tâm huyết đối với vận mệnh
quốc gia lẫn vận mệnh triều đình lúc đó. Những tư tưởng cải cách của ông được
thực hiện từ cuối triều đại nhà Trần cho đến vài năm đầu của nhà Hồ. Sự nghiệp cải
cách của Hồ Quý Ly, dẫu chưa trọn vẹn hay hoàn hảo, nhưng đã góp phần mở ra
một bước phát triển mới trong lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Tư tưởng cải cách văn hoá, giáo dục
Những lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng cũng được Hồ Quý Ly quan tâm
cải cách ngay từ lúc ông còn tham chính dưới vương triều Trần với tư cách một đại
thần. Những tư tưởng cải cách về văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly được thể hiện
từ năm 1392, khi ông viết sách Minh Đạo, gồm 14 thiên. Rất tiếc, sách Minh
Đạo đến nay không còn lưu giữ được nữa; do vậy, việc tìm hiểu tư tưởng cơ bản và
đánh giá những giá trị trong tác phẩm này là điều vô cùng khó khăn.
Tuy nhiên, qua thực tiễn, người ta thấy rằng, Hồ Quý Ly đã không coi kinh
điển Nho giáo là “khuôn vàng thước ngọc". Ông chủ trương xem xét, chọn lọc,
phân loại để tìm ra và vận dụng những luận điểm cần thiết, những yếu tố phù hợp
với thực tiễn đất nước và giải thích theo cách riêng của mình, không dập khuôn
theo các Nho gia. Hồ Quý Ly cũng là người phê phán tư tưởng Nho giáo khá gay
gắt. Những vấn đề mà Hồ Quý Ly phê phán có thể chưa thật thỏa đáng, nhưng qua
đó, đã cho chúng ta thấy, ông là người có tinh thần độc lập dân tộc, có óc phê bình
sáng tạo, thậm chí còn có phần mang tính thực dụng trong việc vận dụng kinh điển
Nho giáo vào công việc cai trị đất nước. Tất cả điều đó phản ánh ý chí của người
18
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
đứng đầu nhà nước đương thời, không cam chịu chấp nhận những khuôn mẫu sẵn
có của ý thức hệ Nho giáo, mặc dù hệ tư tưởng đó đang được người đời cho là
chính thống. Đặc biệt, việc cho sử dụng chữ Nôm với ý nghĩa là chữ quốc ngữ đã
thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc của Hồ Quý Ly. Như vậy, có thể nói, những luận
điểm và tư tưởng của Hồ Quý Ly đã vượt hẳn lên so với tầng lớp Nho sĩ cùng thời
với ông và so với cả những Nho gia ở thế hệ sau ông nữa.
Cùng với việc đề cao chữ Nôm, tư tưởng cải cách văn hóa của Hồ Quý Ly
còn được thể hiện ở một số lĩnh vực hoạt động khác như chấn hưng lễ nhạc; sửa
đổi nghi thức lễ tân; cải cách phẩm phục triều nghi; khôi phục, lập lại các nghi lễ
truyền thống và quy định việc tế tự mang tính văn hóa, nhằm kích thích ý thức dân
tộc trong cộng đồng.
Riêng về lĩnh vực giáo dục, Hồ Quý Ly đã có những quan điểm và biện pháp
cải cách được xem là táo bạo và sắc sảo. Trước hết, ông chủ trương xây dựng một
nền giáo dục có tính thực tiễn, gắn bó hơn với cuộc sống, thúc đẩy sự sáng tạo, như
hạ thấp vai trò Khổng Tử, đề cao Chu Công, phê phán các danh Nho là những
người "học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên
nghề lấy cắp vặt của người xưa". Tiếp đó, Hồ Quý Ly lại tiến thêm một bước trong
cải cách giáo dục khi vào năm 1396, cùng với việc dịch Kinh Thi bằng hình thức
làm sách Thi Nghĩa, ông còn định ra phép thi cử mới, bỏ lối thi cũ chỉ ám tả cổ
văn, và đưa ra quy định cụ thể cả về nội dung lẫn hình thức cho mỗi kỳ thi.
Năm 1403, Hồ Quý Ly quy định tiếp, thí sinh phải thi thêm một kỳ thi nữa là
thi viết và làm tính. Chỉ hai việc: bỏ hẳn lối viết ám tả cổ văn và đưa tính (toán
học) vào nội dung thi cũng đã làm cho người học phải suy nghĩ, phát triển tư duy
khoa học tốt hơn; giảm hình thức học vẹt, sao chép sách vở xa một cách máy móc;
tạo điều kiện cho tầng lớp Nho sĩ mới khả năng sáng tạo, gắn bó hơn với đời sống
thực tế. Có lẽ, chính vì những cải cách về giáo dục với nội dung thực tế, sáng tạo
cùng với những quy định cụ thể, chặt chẽ trong thi cử, nên phần đông những tri
thức được đào tạo trong thời kỳ Hồ Quý Ly cầm quyền đều là những người có tài,
có chí lớn, luôn có chí hướng giúp dân, giúp nước. Bên cạnh đó, Hồ Quý Ly cũng
có một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc về vai trò người làm công tác giáo dục. Ông
bổ nhiệm những người thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) khóa đầu tiên dưới triều Hồ
vào việc trông coi giáo dục. Hồ Quý Ly cũng biết trọng dụng, cất nhắc những Nho
19
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
sĩ thi đỗ dưới triều Trần, mà chưa được lưu ý sử dụng, chẳng hạn như Nguyễn Phi
Khanh (thân phụ của Nguyễn Trãi).
Chế độ khoa cử:
Từ năm 1396 dưới thời Trần Thuận Tông, lệ thi 4 trường được Hồ Quý Ly
quy định lại so với quy chế trước đó, bỏ cách thi ám tả cố văn mà định ra 4 trường
văn thể gồm:
Trường 1: thi kinh nghĩa
Trường 2: thi thơ phú
Trường 3: thi chế, chiếu, biểu
Trường 4: thi văn sách
Đến tháng 2 năm 1404, Hồ Hán Thương quy định cách thức thi cử nhân gồm
thi Hương, thi ở bộ Lễ, thi Hội (đỗ Thái học sinh). Các đợt thi đều tổ chức vào
tháng 8 hàng năm. Ai đỗ cấp nào sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tùy theo, như đỗ thi
Hương được miễn lao dịch, đỗ ở bộ Lễ thì miễn đi lính.
Phép thi của nhà Hồ bắt chước theo lối văn thể của nhà Nguyên, nhưng chia
ra làm 4 kỳ, có thêm kỳ thi viết chữ và tính toán, thành ra 5 kỳ, nhưng mới thực
hiện tại kỳ thi ở bộ Lễ thì xảy ra chiến tranh nên không thực hiện được nữa. Đây là
lần đầu tiên môn toán được đưa vào nội dung thi chính thức.
Những đối tượng không được đi thi gồm quân nhân, phường chèo và người
có tội.
Tuy coi trọng chữ Nôm nhưng Hồ Quý Ly mới dừng lại ở việc dịch sách vở
chữ Hán ra chữ Nôm và viết sách chữ Nôm, còn việc thi cử vẫn thực hiện bằng chữ
Hán.
Các khoa thi:
Nhà Hồ chỉ tồn tại 7 năm, trong thời gian đó đã tổ chức 2 kỳ thi, lấy gần 200
người đỗ, trong đó có 1 Trạng nguyên.
20
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Tháng 8, Canh Thìn, năm Thánh Nguyên thứ 1 (1400), đời Hồ Quý Ly tổ
chức kỳ thi đầu tiên, Lưu Thúc Kiêm đỗ Trạng nguyên, cùng 20 người khác đỗ
Thái học sinh, trong đó có Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mông Nguyên, Hoàng
Hiến, Nguyễn Thành v.v...Đầu đề bài phú là “Linh kim tàng”. Lưu Thúc Kiêm trở
thành Trạng nguyên duy nhất dưới thời Hồ.
Tháng 7 năm 1405, Hồ Hán Thương tổ chức kỳ thi ở bộ Lễ, lấy 170 người
thi đỗ, gồm có Hồ Ngạn, Lê CỦng Thần sung làm Thái học sinh lý hành; Cù
Xương Triều 6 người được sung làm học sinh ở Tư Thiên đường (Tư Thiện đường
nguyên là tên nhà học của Thái tử nhà Trần).
Một việc làm rất đáng trân trọng và được đánh giá cao trong cải cách giáo
dục của Hồ Quý Ly là ông đã đề xướng chính sách khuyến học.
Năm 1397, Hồ Quý Ly cho mở trường ở các châu, phủ thuộc các lộ Kinh
Bắc, Sơn Nam, Hải Đông, gồm hầu hết miền đồng bằng và duyên hải vùng Bắc Bộ
ngày nay. Các châu, phủ đều có quan giáo thụ trông coi. Như vậy, có thể thấy, Hồ
Quý Ly là một nhà cải cách toàn diện, một nhà cải cách giáo dục có tư tưởng tiến
bộ, và là con người hành động, dám nghĩ, dám làm vì sự nghiệp của đất nước và
độc lập của dân tộc. Tóm lại, về văn hóa và giáo dục, tư tưởng cải cách của Hồ
Quý Ly, nhìn chung, là táo bạo và tích cực.
Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, thì tư tưởng canh
tân, cải cách luôn có một vị trí đặc biệt, được hình thành và phát triển do yêu cầu
của lịch sử. Trong hệ tư tưởng cải cách ấy, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị
trí rất đặc biệt trong lịch sử nước ta thời kỳ trung đại mở đầu cho bước phát triển
mới của một nhà nước chính trị trung ương tập quyền và tiếp tục được hoàn thiện
trong các giai đoạn sau của lịch sử Việt Nam.
Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly được coi là táo bạo, có nhiều mặt tích cực,
song cũng có nhiều điểm hạn chế. Tuy nhiên, trải qua sáu thế kỷ, nội dung và tư
tưởng cải cách của Hồ Quý Ly vẫn được lịch sử ghi nhận là tiến bộ, có ý nghĩa cho
đời sau.
C. Nhận xét:
21
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
Việc cải cách giáo dục là một phần của chương trình cải cách toàn diện mà
Hồ Quý Ly đề xướng thực hiện những cải cách của mình trong thi cử, tuyển chọn
quan nhằm xây dựng nền giáo dục, văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt. Những
định hướng của ông về một nền giáo dục của đất nước là: “Tỏ rõ giáo hóa, giữ
phong tục”, với những quy định cụ thể nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài
cho đất nước.
Nhà Hồ tồn tại ngắn ngủi, một
số nhân tài đỗ đạt dưới thời nhà Hồ
sau này phục vụ cho nhà Lê sơ như
Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng
Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly
và rút ra những bài học kinh nghiệm
lịch sử từ sự nghiệp cải cách của ông
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và bổ ích
đối với sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh của
Đảng ta hiện nay. Đó chính là những
bài học về sự kết hợp giữa nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về thực hiện chính sách thân dân, về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước, về
giáo dục, đào tạo nhân tài phải gắn với thực tiễn cuộc sống, với nhân dân, và bài
học về tính tất yếu khách quan của sự đổi mới.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442)
A. Cuộc đời và sự nghiệp
Hiệu của Nguyễn Trãi là Ức Trai. Ông là con của ông Nguyên Phi Khanh và
bà Trần Thị Thái, cháu ngoại của tướng công Băng Hồ Trần Nguyên Đán. Sinh ở
Thăng Long, nhưng quê góc ở lành Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là thôn Nhị
Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Đỗ Thái học sinh năm 1400 làm quan Ngự
22
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
sử đài chính chưởng dưới triều Hồ. Nhà Hồ mất, ông bị quân Minh giam lỏng ở
Đông Quan, sau đó thoát được, vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa.
Chưa xác minh được chính thức Nguyễn Trãi theo Lê Lợi vào thời gian nào.
Một số tư liệu ghi rõ ông có tên trong danh sách 18 người đầu tiên tụ nghĩa ở Hội
thề Lũng Nhai, nhưng có tài liệu nói mãi sau này ông mới đến. Lại có thuyết cho
rằng, ông đến Lam Sơn rất sớm, rồi trở ra Bắc, sau mấy năm mới quay về.
Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, ông đã dâng chiến lược Bình Ngô sách, giúp
việc quân, thảo thư từ giao thiệp với quân Minh, kiên trì chiến lược tâm công cho
đến khi khỏi nghĩa thắng lợi. Nhà Lê mở nước, ông là công thần khai quốc, được
phong tước Quan phục hầu, ban quốc tính. Có lúc bị gièm pha, bị giam giữ rồi phải
về nghỉ ở Côn Sơn (Hải Dương), nhưng sau đó lại được tiến ra làm Nhập nội hành
khiển, giúp vua Lê Thái Tông (1434). Năm 1442, nhà vua đi duyệt binh, ghé đến
thăm nhà ông rồi về kinh, trên đường đến Lệ Chi Viên thì mất. Triều đình ghép tội
ông đã cho vợ (Nguyễn Thị Lộ) đầu độc nhà vua, nên cả nhà bị tru di tam tộc. Đến
năm 1464, được Lê Thánh Tông minh oan, truy phong quan tước.
Nguyễn Trãi có công lớn trong khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã giúp Lê Lợi
đưa ra những phương hướng chiến lược xác đáng: Không đánh thành mà đánh vào
lòng người. Các kế sách vừa đánh vừa đàm, lấy chí nhân thay cường bạo dã được
ông thay lời Lê Lợi nêu rõ trong bài Bình Ngô đại cáo, đời sau xem là thiên cổ
hùng văn. Tập Quân trung từ mệnh tập (gồm các thư từ gửi cho các tướng tá nhà
Minh trong cả thời gian kháng chiến) chứng tỏ một tầm nhìn xa trông rộng, biết
địch, biết ta với trình độ ngoại giao, quân sự khôn khéo. Khi lập đại bản doanh ở
Bồ Đề, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi ngồi tầng lầu thứ hai bên cạnh mình, cử ông
làm Tuyên phụng đại phu (người phát ngôn) cho bộ chỉ huy. Trong thời kỳ hòa
bình xây dựng; Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp thiết thực cho sự nghiệp văn
hóa của đất nước, góp phần chế định triều nghi, lễ nhạc và việc học hành thi cử. Vợ
ông là Nguyễn Thị Lộ cũng được giao chức vụ là Lễ nhạc học sĩ.
Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng lớn của thời đại. Bản Bình Ngô đại cáo của
ông khẳng định chủ quyền quốc gia, nêu cao truyền thống bất khuất và làm sáng tỏ
tư tưởng nhân nghĩa: “Đem đại nghĩa thắng hung tàn”. Ông cũng là người đầu tiên
trong lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói đến dân đen con đỏ một
23
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
cách thiết tha, cảm động. Tư tưởng vì dân còn trở lại nhiều lần trong tập thơ Quốc
âm thi tập. Hiện nay, tác phẩm này là tập thơ Nôm cổ nhất của nước ta.
Là một nhà chính trị, nhà tư tưởng; Nguyễn Trãi còn là một nhà thơ. Ngoài
thơ quốc âm, ông viết nhiều thơ chữ Hán được chéo trong Ức Trai thi tập. Tập thơ
này, khi ông bị xử oan, đã bị mai một, sau này nhờ có công phu sưu tầm của
Dương Bá Cung mới được khôi phục lại. Hồn thơ lai láng, tư tưởng cao đẹp, chữ
dùng điêu luyện, chứng tỏ một giá trị lớn.
Năm 1980, Nguyễn Trãi được xếp vào hàng ngũ danh nhân văn hóa thế giới.
Nhà thờ ở Nhị Khê (Hà Tây) và đất Côn Sơn (Hải Dương) là những di tích bảo tồn
những kỷ niệm về ông.
B. Tư tưởng giáo dục
Nguyễn Trãi là một người thầy giáo và còn là một thầy giáo đa năng.
1. Người thầy chỉ đạo việc giáo dục cho cả nước
Cũng như nhiều nhà khoa bảng trước đây, Nguyễn Trãi thường được
các triều vua ủy nhiệm cho việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Chưa biết dưới triều
nhà Hồ, làm chức Ngự sử ông có tham gia vào việc chỉ đạo giáo dục không nhưng
chắc là ông có dạy học trò. Thơ Nôm Nguyễn Trãi có câu: “Quan cao nhắn nhủ
môn đồ nọ”, cho thấy ông có học sinh giữ chức vụ lớn trong triều. Dưới triều Lê,
ông đã được giao việc chấm thi. Kỳ thi mà Nguyễn Trực được lấy đỗ Trạng
nguyên, là kỳ thi do Nguyễn Trãi ra đề và trực tiếp chấm bài cùng nhiều giám khảo
khác. Ông còn được giao phụ trách việc: “Tri tam quán sự”. Tri là người phụ trách,
theo dõi, điều hành. Tam quán là ba cơ quan đều phụ trách việc giảng dạy học tập,
thu thập sách vở (Nho lâm quán, Sùng văn quán, Tu thư quán – trong vài trường
hợp khác thì có tên gọi khác). Ông đã cũng các học giả khác, chỉ đạo việc in lại các
sách vở (các bộ Tứ thư, đại toàn) dùng cho việc học tập, xem lại các cách thức
khảo hạch, các phép thi,vv... Như vậy, tuy không phụ trách hẳn một trường lớp
nào, nhưng Nguyễn Trãi đã là người thầy, người của ngành giáo dục.
2. Người giáo viên mẫu giáo
Nói đến danh hiệu này, chắc chắn có nhiều người cho là bịa đặt, hoặc là
tô vẽ để nói thêm cho Nguyễn Trãi. Ông là một giáo viên mẫu giáo thì nghe ra rất
24
Lịch sử giáo dục Việt Nam – Chủ để: Tư tưởng của các nhà giáo dục Việt Nam.
buồn cười? Song đây là chuyện có căn cứ hẳn hoi. Sách Tang thương ngẫu lục của
Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ viết chung có ghi rõ việc này. Bài “Lê Trãi” là do
Nguyễn Án viết, có đoạn như sau:
...”Bây giờ Thái Tổ (tức Lê Lợi) đã được quyền binh thư và thanh kiếm
thần, đêm nằm đóng cửa đọc sách. Nguyễn Trãi nhòm trộm, rồi cùng Trần Nguyên
Hãn đẩy cửa bước vào. Thái Tổ tuốt gươm xông ra. Hai người phục xuống, nói:
- Chúng tôi đường xa lận đận tìm đến, chỉ vì minh công là người có thể
làm chủ thiên hạ được đấy thôi.
Thái Tổ cười mà lưu lại, mưu việc khởi binh. Ông bảo chưa vội. Bèn làm
nhà dạy học. Ông chế ra những chiếc trống con và nấu mật đặc, nặn hình con gà
con chó, cho lũ trẻ làm đồ chơi. Trẻ thấy thế, đua nhau nói với cha đến xin theo
học. Ông lại lấy mỡ viết khắp lá cây trong rừng: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi
thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Sâu kiến ăn mỡ, đục thành nét chữ.
Kẻ đi kiếm củi thấy vậy, cho là chuyện thần linh. Người nọ bảo người kia, nhân thế
theo về ngày một nhiều.
[Nguyễn Án đỗ hương cống năm 1807, là quan tri huyện, mất năm 1815.
Tài liệu ông ghi chép trên đây không rõ căn cứ lấy từ đâu, có lẽ chỉ là lời truyền
văn. Có khả năng đây chỉ là chuyện hư cấu, nhưng về bản chất, có thể là sự chấp
nhận của nhân dân, cho thấy Nguyễn Trãi là một nhà giáo dục toàn diện. Ông là
người thầy của cả nước, thầy của các vua quan, nho sĩ và là thầy của đám nhi
đồng thiếu niên. Câu chuyện chỉ ghép cho ông, chứ không phải là giai thoại của
một danh nhân nào khác, vì chỉ có ông mới xứng đáng có tư cách là người thầy
lớp trẻ thơ.]
3. Người thầy dạy lễ nhạc
Nguyễn Trãi là người được các vua Lê – (Thái Tổ và Thái Tông) giao
cho việc nghiên cứu lễ nhạc. Không rõ ông có khả năng thực hành về nhạc như thế
nào, nhưng về quan điểm và tư tưởng thì ông đã có nhận thức rất đúng, trên cơ sở
lý thuyết vì dân của ông. Ông cho rằng: gốc của nhạc là ở tâm tình của người dân.
Ông đã làm bài biểu dâng lên vua Thái Tông, nói rõ:
“Kể ra, thời loạn chuộng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên
làm lễ nhạc. Song nhạc mà không có gốc thì không được, không có văn cũng
25