Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA DÂN TỘC KHMER Ở TỈNH SÓC TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.81 MB, 45 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài tiểu luận là công trình nghiên cứu của tôi đã tìm
hiểu, tìm kiếm thông tin và dưới sự hướng dẫn của G.V Trần Phương Thúy. Nếu
không đúng sự thật tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, trong quá trình thu nhập, tổng hợp thông tin. Tôi
đã nhận sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, ban cán sự lớp và các sinh viên của
trường Đại học Nội Vụ Hà Nội.
Nhân đây, cho phép tôi bày tỏ lòng cảm ơn chân thành với các thầy cô.
Đặc biệt với TS. Trần Thị Phương Thúy, bởi cô đã hướng dẫn giúp đỡ suốt quá
trình đỡ tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài
Trong quá trình nghiên cứu tôi gặp khá nhiều khó khăn, mặt khác do trình
độ nghiên cứu còn hạn chế và những nguyên nhân khác nên dù cố gắng xong đề


tài của tôi nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì thế tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của các thày cô và các bạn đọc.
Những đóng góp của mọi người sẽ giúp tôi nhận ra hạn chế và qua đó tôi
có thêm nguồn tư liệu trên con đường học tập cũng như nghiên cứu sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN


PHẦN MỞ ĐẦU
1: Lý do chọn đề tài


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc ,54 dân tộc anh em chung sống với
những nét văn hóa đặc trưng tạo nên một nền văn hóa phong phú, đa dạng đậm
dà bản sắc dân tộc. Một trong những nét văn hóa đăc trưng tiêu biểu của các dân
tộc đó là tập quán cưới xin. Nó thuộc về hạnh phúc của mọi công dân, thuộc về
nếp sống xã hội được mọi ngành, mọi người, mọi gia đình , mọi lứa tuổi quan
tâm xây dựng phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc.
Cưới xin chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người Việt
Nam nói chung và từng dân tộc nói riêng. Lễ cưới từ xưa đến nay vẫn là một
nghi lễ tốt đẹp trong đời sống của tất cả mọi người ở khắp nơi trên đất nước,
đánh dấu một sự kiện quan trọng trong bước đường đời của mỗi con người.
Là sinh viên ngành quản lý văn hóa, một nhà quản lý văn há tương lai tôi
rất quan tâm đến tập quán cưới xin của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Trong
đó tôi đặc biệt quan tâm tới việc cưới xin của dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng.
Trước đây có nhiều học giả quan tâm đến văn hóa của người Khmer nói chung
và cưới hỏi nói riêng. Tuy nhiên họ chỉ dừng lại ở khái quát chưa thực sự đi sâu
nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì những lý do trên nên tôi chọn đề tài “ Tìm
hiểu về hôn nhân của người dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng” làm đề tài nghiên
cứu của mình.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH SÓC TRĂNG VÀ DÂN TỘC
NGƯỜI KHMER Ở TỈNH SÓC TRĂNG
1.1: Khái quát về Tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu
Long thuộc Việt Nam có diện tích 3.311,6km2 , nằm ở cửa Nam sông Hậu,
cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 231 km, cách Cần Thơ 62 km. Tỉnh Sóc
Trăng nằm ở hạ nguồn của sông Hậu, là nơi sông Hậu đổ vào biển Đông tại hai

cửa Định An và Trần Đề, với dân số và diện tích điều đứng thứ 6 trong khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Sóc Trăng có nguồn đất đai màu mỡ, hệ thống kênh rạch chằng chịt cùng
với lợi thế nằm trên tuyến quốc lộ 1A thông suốt và nối liền các tỉnh, thành hai
phía Bắc - Nam và các tuyến quốc lộ như: Quốc lộ 60, tuyến Nam Sông Hậu và
Quản lộ Phụng Hiệp,...với hệ thống giao thông thủy bộ thông suốt và nối dài tạo
nên cho Sóc Trăng một đặc trưng riêng của vùng đồng bằng Nam bộ, tạo nên
những tiềm năng và cơ hội rất lớn nhằm thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, còn góp
phần tạo nên những điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển du lịch trong tỉnh,
thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ngoài ra, lợi thế 72km bờ biển nối liền giáp với biển Đông là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển nguồn kinh tế biển của tỉnh.
Sóc Trăng là một vùng đất được người Việt đến khai khẩn trong khoảng
hơn 200 năm nay. Vào thế kỷ XVII, Sóc Trăng thuộc vùng Ba Thắc của Chân
Lạp. Năm 1757, vua Chân Lạp là Nặc Thuận cắt đất Ba Thắc dâng cho chúa
Nguyễn. Chúa Nguyễn đặt Ba Thắc thuộc dinh Long Hồ và vận động người Việt
vào khai hoang. Năm 1900, Pháp lập tỉnh Sóc Trăng. Năm 1956, tỉnh Sóc Trăng
hợp nhất với tỉnh Bạc Liêu thành tỉnh Ba Xuyên. Sau ngày 30 tháng
04 năm 1975, tỉnh Ba Xuyên giải thể, địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 11 năm 1991, tỉnh Sóc Trăng được tái lập.
Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer mà ra. Srok tức
là "xứ", "cõi", Kh'leang (ឃឃ
ឃឃឃ
ឃ) là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang
là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là "Sốc-Kha-Lang"
rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng bị đổi là Nguyệt
5


Giang tỉnh (chữ Sóc biến thành chữ Sông, Trăng thành Nguyệt nên Sóc Trăng

biến thành Sông Trăng rồi bị đổi thành Nguyệt Giang)]
Tỉnh sóc trăng có các dân tộc sống chủ yếu là các dân tộc
Việt,Hoa,Khmer.
1.1.1:Đặc điểm tự nhiên
Khí hậu:
Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng gió mùa,
chia thành mùa là mùa khô và mùa mưa, trong đó mùa mưa bắt đầu từ tháng
5 đến tháng 10, mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt
độ trung bình hàng năm của Sóc Trăng khoảng 26,80C, ít khi bị bão lũ, Lượng
mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung chủ yến vào các tháng 8,9,10,
độ ẩm trung bình là 83%, thuận lợi cho cây lúa và các loại hoa màu phát triển.
Đất đai, thổ nhưỡng
Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát
triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp, các loại
rau màu như hành, tỏi và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài, sầu riêng... Hiện
đất nông nghiệp chiếm 82,89%, trong đó, đất sản xuất nông nghiệp chiếm
62,13%, đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha chiếm 3,43%, đất nuôi trồng thuỷ sản
54.373 ha chiếm 16,42%, đất làm muối và đất nông nghiệp khác chiếm 0,97%.
Đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh chủ yếu sử dụng cho canh tác lúa, cây hàng
năm khác và diện tích đất còn lại dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái, ngoài ra
cũng có nhiều diện tích đất tự nhiên chưa được sử dụng. Đất đai tại Sóc Trăng
có thể chia thành 4 nhóm chính là nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất
mặn, nhóm đất nhân tác??. Điều kiện tự nhiên trong địa bàn tỉnh nhìn chung
cũng đang gặp phải khó khăn như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn
trong Mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc
Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và
trên cơ sở đó hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú. Đặc biệt, Sóc
Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy
dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn
6



Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng, Cù Lao Dung... là địa điểm lý tưởng để
phát triển loại hình du lịch sinh thái
Địa hình:
Địa hình trong tỉnh Sóc Trăng thấp và tương đối bằng phẳng, có dạng lòng
chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông thấp dần vào trong, vùng thấp nhất
là phía Tây và Tây Bắc, với Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5 mét, độ dốc
thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài. Tiểu địa hình có dạng gợn sóng không đều,
xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những vùng thấp trũng
nhiễm mặn, phèn. Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hưởng của chế độ
thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1
m. Thủy triều vùng biển gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư
dân địa phương, đồng thời còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến
tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Sông ngòi:
Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hường của chế độ thủy triều
ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy
triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của
cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến
tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, vùng có
nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để cũng như phát
triển kinh tế biển tổng hợp.
Tài nguyên rừng và biển:
Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với các loại cây chính
như Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng
ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn. Sóc Trăng còn có
72 km bờ biển với 02 cửa sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, có nguồn
hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi

trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thuỷ hải sản, nông - lâm nghiệp
biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá, dịch vụ cảng biển, xuất
nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
1.1.2: Đặc điểm kinh tế
7


Nông nghiệp: Theo truyền thống nông nghiệp bao gồm hai ngành trồng
trọt và chăn nuôi. Trong mỗi một ngành lại chia ra nhiều phân ngành. Chẳng hạn
các phân ngành cây lương thực, cây công nghiệp, trong trồng trọt hay chăn nuôi
gia súc lớn (trâu, bò) gia súc nhỏ(lợn, dê…) và gia cầm trong chăn nuôi.
Trồng trọt:Trồng trọt là ngành quan trọng nông nghiệp nhăm khai thác và
sử dụng đất đai để tạo ra các sản phẩm từ thực vật.
Chăn nuôi: cung cấp sức kéo phân bón , chăn nuôi gia súc gia cầm đóng
vai trò ngày càng quan trọng hơn trong đời sống.
Thủy sản: à nguồn cung cấp đạm động vật bổ dưỡng cho con người.
Những người dân Khmer lây nông nghiệp là nghề chính để sinh sống
hằng ngày.
1.1.3: Đặc điểm xã hội
Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều
tiến bộ và đạt được những thành tựu quan trọng: công tác phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên phạm vi toàn tỉnh.
Đến nay, tỉnh Sóc Trăng đã đạt được các mục tiêu về công tác phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi, từ tháng 12/2008 được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về
phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị củng cố và
duy trì tốt thành tích đã đạt được để có thể tiến đến thực hiện phổ cập giáo dục
trung học phổ thông trong những năm tiếp theo. Mạng lưới y tế được củng cố và
hoàn thiện, năm 2011 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt tỷ lệ 93,58%; dự kiến
năm 2012 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt tỷ lệ 64,22%; có 78,0% xã có bác sỹ
phục vụ; 100% xã có nữ hộ sinh trung học hoặc y sỹ sản nhi. Hoạt động văn hóa

thông tin, thể dục, thể thao có nhiều tiến bộ. Các phương tiện thông tin đại
chúng phát triển rộng khắp với nhiều hình thức, nội dung khá phong phú. Toàn
tỉnh đã phủ sóng truyền thanh, truyền hình, 100% xã xây dựng trạm truyền
thanh. Hệ thống trường lớp, cơ sở y tế và các thiết chế văn hóa được đầu tư xây
dựng khang trang. Thực hiện tốt công tác quốc phòng - an ninh; gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị. Phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được xây dựng, củng cố và phát triển.
1.2: Khái quát dân tộc người khmer ở tỉnh Sóc Trăng
8


Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Số dân: 1.260.640 người (Tổng cục Thống kê năm 2009), là dân tộc có số
dân đông nhất trong các dân tộc nói ngôn ngữ Môn - Khmer ở Việt Nam.
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, ngữ
hệ Nam Á. Họ có chữ viết riêng để ghi chép các truyện dân gian.
Nguồn gốc lịch sử: Trước thế kỉ XVII người Khmer và văn hoá của họ giữ
vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Địa bàn cư trú: Sống tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu ở
các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Đặc điểm kinh tế: Nông nghiệp dùng cày và thâm canh lúa nước Bộ nông
cụ khá hoàn thiện và hiệu quả, thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ,
đặc biệt nhất là việc cày bằng hai trâu. Đồng bào thành thạo nghề đánh cá, dệt,
chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Chăn nuôi nuôi trâu bò,
lợn, gà, vịt khá phổ biến.
1.2.1:Phong tục tập quán
Ăn: Người Khmer thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Mắm là loại thức ăn
được ưa chuộng với nhiều loại. Gia vị ưa thích là vị chua (từ quả me hay mè) và
cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Ở: Nhà truyền thống của Người Khmer là nhà sàn. Gia đình nhỏ một vợ

một chồng, tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc
bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, hoặc ghe, thuyền (xuồng
ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc ráng" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy).
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con
cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên
nhà gái.
Tang ma: Tục hỏa thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong
tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Tín ngưỡng:
Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp, tín ngưỡng dân
gian như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng
(ok ang bok). Ngoài ra, vẫn tồn tại những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn
giáo trong đời sống.
9


Trang phục:
Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. người
có tuổi mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả mặc bộ bà ba màu trắng,
khăn rằn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Đám cưới, chú rể mặc áo xà rông, áo
màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài
trắng (Kăl xinh). Cô dâu mặc Xăm pốt (váy) màu tím hay màu hồng, áo dài màu
đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. Áo dài không xẻ tà, thân áo rộng
và dài dưới gối, chui đầu.
Đời sống văn hóa:
Người Khmer có kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười. Đặc biệt, sân khấu truyền thống (Dù kê,
Dì kê) hết sức độc đáo. Âm nhạc ảnh hưởng của Ấn Ðộ và Ðông Nam Á. Nghệ
thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer.

Chùa và sinh hoạt Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và xã
hội.

10


CHƯƠNG 2 : HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA DÂN TỘC KHMER Ở
TỈNH SÓC TRĂNG
2.1: Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân, một cách chung nhất có thể được xác định như một sự xếp đặt
của mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và đàn bà.
Nó là một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của
mối quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với
nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và
hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn
nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã
hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân. Về mặt luật
pháp, đó là việc đăng ký kết hôn.
Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng
và một người đàn bà được gọi là vợ. Hôn nhân theo chế độ đa thê là một kiểu
hôn nhân trong đó một người đàn ông có nhiều vợ. Ở một số nước, hôn nhân
đồng giới được công nhận. Ở một số nước khác, việc đấu tranh hợp pháp hóa
hôn nhân đồng giới đang diễn ra. Hiện nay ở Việt Nam, luật hôn nhân và gia
đình không cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính song cũng không
thừa nhận thể loại hôn nhân này.
Hôn nhân, trong chừng mực nào đó, có thể được định nghĩa như là sự
kết hợp giữa hai người, một nam và một nữ, để chung sống, cũng như để dành
cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết. Ta nói trong chừng mực nào đó, vì khái
niệm này không có được nội dung như trên một cách trọn vẹn trong luật của

nhiều nước.
2.1.1: Tính chất hôn nhân
Hôn nhân truyền thống của người Khmer bị chi phối bởi tính chất loại
hình gia đình phụ quyền. Dù trai hay gái đến tuổi trưởng thành đều được phép tự
do tìm hiểu, yêu đương, nhưng cuộc hôn nhân có thành hay không đều do cha
mẹ quyết định. Nhằm đảm bảo các nguyên tắc luật tục, tập quán pháp, trước khi
11


quyết định hôn nhân nên bố mẹ, họ hàng phải biết để xem xét vấn đề huyết
thống xa hay gần để tránh nhầm lẫn lấy phải họ hàng gần. Nếu phạm phải quy
tắc truyền thống sẽ không duy trì được nòi giống vì cận huyết.
2.1.2: Hình thức hôn nhân
Từ xa xưa, hôn nhân đã được coi là một vấn đềtrọng đại trong cuộc đời
của mỗi người khi trưởng thành , là sự gắn kết giữa hai con người lại với nhau
để xây dựng một gia đình ấm no hạnh phúc. Để trở thành chính thức làm vợ. làm
chồng thì việc cưới hỏi được xem là một hình thuức vô cùng quan trọng nhằm
công bố thông báo cho họ hàng bạn bè, láng giềng biết việc kết hôn và chung
vui với đôi trẻ gia đình. Lễ cưới gồm nhiều thủ tục được ông bà ta coi trọng, vì
vậ mà có nhiều hủ tục còn có nhiều bất cập.Cho tới ngày nay lễ cưới vẫn ko thể
thiếu khi 2 người tiến tứi hôn nhân nhưng do đất nước có nhiều biến chuyển,
hòa bình với quá trình hội nhập với các nước bên ngoài đặc biệt là sự du nhập
của văn hóa phương Tây khiến cho người ta có tư tưởng cởi mở hơn trước kia.
Vì vậy các thủ tục trong lễ cưới đã được đơn giản hóa đi nhiều mà vẫn không
làm giảm đi ý nghĩa thiêng liêng trọng đại của ngày cưới.
2.1.3: Các nguyên tắc trong hôn nhân
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình.
4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con
có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính
trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con,
giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá
thú.
6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
12


2.1.4: Hôn nhân truyền thống
Lễ cưới hỏi của người Khmer được tổ chức theo cổ truyền từ xưa đến nay.
Trước khi diễn ra lễ nói, lễ hỏi, lễ cưới vấn đề quan trọng nhất là hai gia đình
xem ngày, tháng, năm sinh của chú rể và cô dâu có hạp nhau hay không.
Nếu hợp, cha mẹ hai họ tìm đến ông Pelea xem ngày đến nói-hỏi-cưới. Riêng
ngày hỏi cưới không cử hành vào tháng thiếu ví dụ như: tháng giêng, tháng ba,
tháng năm, tháng bảy, tháng chín, tháng mười một và ba tháng nhập hạ của các
vị sư trong chùa. Lễ cưới hỏi thường được tổ chức bên nhà đàn gái điều kiện
hành lễ chìu theo nhiệm vụ quan trọng nhất là bên đàn trai nhờ ông mai bà mối
là ông Maha cùng cha mẹ chú rể đem theo lễ vật như: hai nải chuối cơm, hai
mâm cơm dẹp, một cặp nước ngọt, hai đĩa bánh tây yến, một mâm trầu cau, một
mâm cơm, bánh trái đến nhà cô dâu đặt những lễ vật và hai mâm cơm gọn gàng
xong mời cha mẹ dòng họ thân thuộc bên đàng gái ngồi có thứ tự một bên và
bên chú rể một bên thắp đèn cầy và nhang. Trước tiên Maha mời những vông
linh ông bà đã quá cố vào dùng những lễ vật của con cháu trai và con cháu gái
của ông bà,…

Khi cha mẹ cô dâu thống nhất gả thì cha mẹ chú rể đưa mâm cơm rượu
mời cha cô dâu dùng và đưa mâm trầu cho mẹ cô dâu dùng. Khi dùng xong đưa
các lễ vật có cặp như đã kể trên cho cha mẹ cô dâu. Theo phong tục ngày xưa,
người ta tổ chức có phần cầu kì hơn. Cha mẹ chàng trai chọn nhờ một người phụ
nữ trong Sróc là người đã có gia đình, có cuộc sống hạnh phúc, có đức hạnh cao
đẹp đến nhà để gặp cha mẹ cô gái hỏi ý. Người mai mối phải nói lời dễ nghe với
cha mẹ cô dâu: “Đây thực sự làm Chhay-Phum (tạm dịch phum giàu đẹp) xinh
đẹp, hoa cỏ xanh tươi nên có người muốn đến đây gửi thân, muốn thành than
sống trên mảnh đất trù phú này”. Khi nghe những lời nói đó, Cha mẹ cô gái đáp
lại: “Cô/chị có chuyện gi? Đây là chhay-phum gì? Ngồi xuống đi”. Sau khi ngồi
xuống hỏi thăm sức khỏe qua lại, cha mẹ cô con gái hỏi bà mai có việc chi. Bà
mai nói rằng: “Xin lỗi, tôi có người nhờ đến đây để thăm dò nhằm nối duyên
cùng gia đình chị”. Cha mẹ cô gái hỏi về thân thế, gia tộc bên nhà trai. Xong,
cha mẹ cô gái trả lời rằng để hỏi ý kiến người thân trước khi trả lời chính xác
13


cho bà mai. Bà mai sẽ còn qua lại nhà gái nhiều lần cho đến khi hai bên đồng ý
đến việc làm lễ nói.
2.1.5:Những nghi lễ trong hôn nhân
Nghi lễ.
Lễ nhập gia.
Sau lần đầu đem trầu cau, bánh trái mỗi thứ đủ đôi, trao một số tiền cho
bên đàng gái, tặng đồ kỷ niệm cho cô dâu xin cầu hôn và quyết định ngày cưới.
Buổi sáng ngày bắt đầu lễ cưới, gia đình đàng trai đưa chú rể đến nhà cô dâu
làm lễ nhập gia gọi là Pithi-đong-he-kôn-prốs-tâu-kanh-khang-srây, dưới sự
hướng dẫn của ông Achar, hai ông Maha Tếp và Maha Montrey. Bên cạnh chú rể
còn có họ hàng thân tộc và một số thanh niên nam nữ trong phum sóc mang các
mâm lễ vật:
Đầu heo

Vịt luộc
Rượu nếp
Bánh mứt
Trái cây
Trầu cau
Mâm đựng buồng hoa cau non Phka-sla (bắt buộc phải có).
Cùng đàng trai đến còn có dàn nhạc dây "Vong-phlêng-ka" tăng thêm
phần không khí vui tươi trong ngày cưới.
Nghi thức mở rào
Hôm đó, nhà đàng gái phải rào kín cổng, (nếu nhà không có cổng rào, thì
sử dụng cổng rạp cưới dựng phía trước) tượng trưng cho sự trong trắng của
người con gái trưởng thành. Đến cổng nhà, chú rể muốn bước vào thì ông Maha
phải bày mâm lễ vật dâng đàng gái và múa đủ ba điệu để nói lời cầu xin "Pithibơk-rôbong". Khi cổng rào mở, mẹ cô dâu ra đón và một cháu bên đàng gái
bưng nước trà mời chú rể uống thì bên đàng trai mới được vào nhà làm lễ tiếp.
Nghi lễ cúng ông bà tổ tiên.
Tiến hành dưới sự hướng dẫn của ông Maha là "Pithi-sene-chas-tum".
Chú rể ngồi bên tay trái ông Maha, cô dâu ngồi đối diện với các vị sư làm lễ.
Sau khi tụng kinh chúc phúc, bên đàng trai dâng bánh trái cho ông bà và cha mẹ
cô dâu. Lễ nghi này có ý nghĩa tượng trưng sự đền ơn công sinh thành nuôi
dưỡng cô dâu.
Nghi thức dâng lễ vật
14


Pithi-chun-com-nóth là nghi thức bắt buộc trong lễ cưới của người
Khmer. Sau khi làm lễ nhập gia, đúng vào giờ tốt, ông Maha cùng gia đình chú
rể bày các lễ vật mang đến trình gia đình cô dâu xem có đầy đủ không? Khi họ
hàng nhà đàng gái thuận thảo thì tiến hành các bước lễ chính tiếp theo để kết
thúc.
Lễ cắt hoa cau

Pithi-kách-khanh-sla gia đình hai bên dẫn dắt cô dâu và chú rể ngồi làm lễ
sánh duyên cho đôi vợ chồng mới cưới, dưới sự chủ trì của ông Maha. Trước khi
cắt buồng hoa cau non, ông Maha múa điệu "Rom-bơk-bai-srây" có ý nghĩa là
họ hàng đôi bên đã chính thức cho phép hai người kết duyên thành vợ thành
chồng. Ông Maha cắt lấy hoa cau trắng rắc lên tân lang, tân nương và rắc từ chỗ
ngồi cho đến đường đi vào buồng tân hôn để chúc phúc đôi uyên ương.
Lễ cột tay
Pithi-chon-đay họ hàng hai bên chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ sống trăm
năm bằng cách lấy sợi chỉ hồng cột tay chú rể trước rồi đến cô dâu. Họ đàng trai
cột tay phải cô dâu và chú rể, họ đàng gái cột tay trái chú rể và cô dâu, dưới sự
chủ trì của ông Maha.
Sau lễ cột tay, đôi vợ chồng dắt nhau vào buồng tân hôn, người chồng
nắm vạt áo "Sbai" của người vợ theo sau. Nghi lễ này bắt nguồn từ truyền thuyết
"Pres-Thôn Neang-Neath" được dân gian kể rằng: Hoàng tử Pres-Thôn cưới
nàng công chúa Thera-Wath-Tây con gái của Long Vương. Do trên đường về
thủy cung, hoàng tử là người trần gian không thể nào đi được dưới nước. Nhờ trí
thông minh của công chúa Rắn nghĩ ra cách cho chồng nắm lấy vạt áo của nàng
theo đường rẽ nước về long cung.
Xong thủ tục ấy, cô dâu và chú rể thay y phục ra ngoài đón khách đến dự
tiệc cưới. Tối đến, có nơi còn tổ chức lễ chung giường cho đôi vợ chồng mới.
Thường nhà gái chọn hai người đàn bà đứng tuổi có gia đình hòa thuận và khá
giả để trải chiếu mới lên giường. Dọn một ít bánh trái, nước ngọt, trầu cau,
nhang đèn cúng tổ tiên rồi cho hai vợ chồng cùng ăn như đút cho nhau chuối,
chia nước dừa cho nhau để tình yêu đậm đà hơn. Ăn xong, hai người vào buồng
tân hôn, cô dâu đi trước và chú rể theo vào sau.
Lễ cưới của người Khmer có phần quan trọng hơn vì được tổ chức kéo dài
15


đến ba ngày.

Ngày thứ nhất: Chú rể mượn bạn bè sang nhà cô dâu phụ cất rạp, dọn dẹp
nhà cửa. Còn cha mẹ chú rể thì mượn hai thanh niên chưa có vợ đi cắt bông cau
( người Khmer gọi là bông vàng bông bạc ) trước khi cắt bông cau thì người ta
chuẩn bị một cái mâm đựng bông cau và họ xin người khuất mặt khuất mài giữ
gốc cau, sau đó họ mới lên cắt, cắt xong họ để trên “Pean” đem về đặt ở một nơi và
một chiếc đèn dầu nhỏ thắp nhang khẩn cầu cho đôi vợ chồng mới cưới trăm năm
hạnh phúc. Tuy nhiên hiện nay có những nơi thường tổ chức ngày của đám cưới thì
bên đàng trai có nghi thức đi hái hoa cau trong đó có ông Acha và những người lớn
trong thân tộc, sau đó đưa về họ nhà gái làm lễ, nhưng có những nơi còn mua hoa
cau hoặc tự hái xong rồi mới đem qua đàng gái làm lễ sau.
Ngày thứ hai: Gia đình và thân tộc bên đàn trai làm lễ đưa chú rể đến nhà
gái theo sự hướng dẫn của Pelea và hai ông Maha ( Mahatep, Maha montray).
Chuẩn bị các lễ vật đem qua bên đàn gái gồm có những lễ vật như: vịt luộc, đầu
heo, rượu, trầu cau, bánh trái, quan trọng nhất là bông cau phải do người chị
hoặc người cô của chú rể bưng. Ngày xưa khi đưa chú rể sang nhà cô dâu người
ta thường hát một bài hát đại ý như sau:
“Con voi một ngà,
đến gần càng to,
nàng ơi đừng sợ,
đó là voi anh”.
Khi đến nhà cô dâu thì bên đàn trai phải dừng lại trước cổng, đặt lễ vật lên
bàn mà bên đàng gái đã bày sẵn được trang trí đẹp đặt ngang, trên có hai có bình
hoa vì theo truyền thống thì khi bên đến thì nhà gái lấy một nhánh cây, gai, rào
cổng lại tượng trưng cho sự tinh khiết của cô dâu chưa hề giao tiếp với ai bên
ngoài. Muốn vào nhà thì ông Maha phải múa mở rào “rom bot robong”. Múa đủ
ba điệu múa thì bên nhà gái xách cồng ra đánh một hồi và ông mới vạch nhánh
gai ra, chú rể ôm mâm bông, hai chú rể phụ bưng mâm trầu và mâm rượu đứng
hai bên, đi vào khi đến của em gái hoặc em trai bưng nước rửa chân cho anh rể
hoặc mời anh rể uống trà và mời chú rể lên ngồi trên giường mà nhà trai chuẩn
bị sẵn. Lúc này có dàn nhạc đàng trai rước phục vụ, đàn những bản nhạc truyền

thống theo yêu cầu của ông Pele.
Đến chiều thì làm lễ cắt tóc cho cô dâu chú rể.
16


Đưa chú rể đến thắp nhang cho ông bà tổ tiên, xin nhận chú rể là thành
viên của gia đình, phum sóc.
Đến tối, họ mời sư xãi đến tụng kinh chúc phúc cho đôi vợ chồng. Cô dâu
ngồi đối diện với vị sư còn chú rể thì ngồi bên tay trái ông Acha. Nếu nhà hướng
tây thì ông Acha và chú rể ngồi quay mặt về hướng Tây, cô dâu quay hướng
Nam, còn các vị sư quay hướng Bắc. Sau khi tụng kinh xong thì cô dâu chú rể ra
đãi khách, bạn bè đến khuya có nơi đến 12 giờ đêm người ta còn làm lễ nhuộm
răng cho cô dâu “thvơ thming neang neak”, tục này bắt nguồn từ truyền thuyết
Pre Thông – Neang neak. Vì là rắn có nhiều nọc độc nên phải phết răng để trị
nọc, về sau cả chú rể cũng phải phết răng để trị nọc độc do cô dâu truyền sang.
Ngày thứ ba: Nghi thức cúng Pea-ly:
Sáng thứ ba, ông Maha xin phép thay mặt đàng trai cúng Pealy, ông Acha
tìm chỗ cúng thường là trước sân và ở hướng Nam nhà cô gái, nếu trường hợp là
không có đất trống, người ta chọn hướng Đông Nam, ông Acha trãi chiếu, vải,
gối và các vật cúng khác gồm có bai-say, sla-tho, đèn, cơm, nước, bánh, trái cây,
hai con gà luộc và một cái phệ ( vỏ cây chuối được tuốc ra và sắp thành hình
vuông có đáy giống như một cái gổi hình vuông ) ba tầng ra trước sân ngồi chờ
rước lấy giờ tốt gọi là dốt “pea-ly”. Theo phong tục chọn một trong những giờ
tốt sau đây, tùy theo thói quen của từng gia đình: giờ chim bay, giờ thấy được
chỉ tay hoặc giờ mặt trời mọc có ánh sáng tốt đẹp. Khi chọn được giờ tốt thì
người ta bắt đầu làm lễ lúc này người ta đánh nhạc truyền thống, Krung pea-ly
đến thâu nhận vật cúng và chấp nhận chú rể trở thành thành viên trong gia đình
cô dâu. Cúng xong, ông Maha lấy phần vật lễ vật đặt vào cái phệ. Người Khmer
cho rằng thần Krung pea-ly xuống có mang theo lính. Dàn nhạc tiếp tục bản
nhạc dành cho cúng phệ trong khi có hai người khiên đi theo hướng Acha đã chỉ

định.
Ngồi lạy ông bà.Lấy giờ lành xong, ông Maha cho phép chú rể lên vào
nhà ngồi lại ông bà, vào đến nhà chú rể đứng trên một hòn đá đã chuẩn bị sẵn
lúc này cô đâu bưng nước dừa và khăn đến rửa chân cho chú rể. Theo quan niệm
của người Khmer, bất kể họ sinh vào tuổi nào con gái được xem là nước, con
trai được xem là đá, đá với nước sống chung rất hòa thuận đầm ấm. Rửa chân
17


cho chú rể xong, cô dâu đi vào buồng, còn chú rể thì lên giường ngồi lạy bông
cau và ông bà, cha mẹ.
Trong ngày này ông Pele và ông Maha cùng với trưởng tộc hai bên hành
lễ các bước sau: Nhóm họ cắt tóc, cúng cơm ông bà đã khuất, múa rắt hoa cau
lên người đôi vợ chồng trên đường từ chỗ ngồi đén buồng tân hôn, múa “mở nắp
trầu” tượng trưng cho hai người đẫ thành vợ chồng gọi là “sombotbaysay”.
Kế đến là cha mẹ thân tộc hai bên buộc tay cho cô dâu, chú rể gọi là chịu lạy
“chonday” với tiền hoặc vàng và nhận lại ly rượu và miếng trầu của cô dâu chú
rể, và chúc họ trăm năm hạnh phúc, lúc này ông Maha làm lễ “rút gươm ra khỏi
bao” gọi là “dompope” múa này gắn liền với truyền thuyết xa xưa, tượng trưng
cho sức mạnh chính nghĩa thắng gian tà, quyết tâm giành lại hạnh phúc. Sau khi
lễ rút gươm là lễ “cholday” xong là đến nghi lễ vào phòng.
Lễ vào phòng ( Phsom domnek )
Sau lễ cột tay, người ta cho đôi vợ chồng trẻ vào buồng tân hôn theo con
đường đã rắt hoa cau theo thông lệ thì vợ đi trước, chồng nắm vạt áo ( khăn
choàng ) của vợ theo sau. Tục này bắt nguồn từ sự tích Preas Thông cưới công
chúa Neak, để đi xuống thủy cung ra mắt vua cha thì hoàng tử phải nắm vạt áo
của công chúa, mới đi được xuống dưới thủy cung.
Xong thủ tục ấy, đôi vợ chồng thay y phục ra ngoài chào đón bạn bè,
khách đến dự tiệc.
Sau đó là lễ quét chiếu “Bos Kantel”.

Lễ quét chiếu “Bos kantel” khi đó cô dâu và chú rể vào phòng liền có
người già theo sau. Người được chọn phải khỏe mạnh và đông con nhiều cháu,
người này đem chiếu ra và hỏi “có ai chuộc chiếu không?” chú rể bước ra nhận
chiếu, trải ra mời cô dâu và ông Maha cùng ngồi. Ông Maha nghiêm trang dặn
dò đôi vợ chồng trẻ phải cư sử tốt với nhau, chung thủy đến trọn đời. Để tỏ lòng
cảm ơn ông Maha, cô dâu, chú rể để lên chiếu một lễ vật gì đó thường là tiền để
tặng cho ông Pele, ông Maha sau khi cuốn chiếu (sakaltel ).Lễ chung mùng:
(dek song-kot mung)
Nhà gái chọn hai phụ nữ có con đông, gia đình hòa thuận hạnh phúc để
trải chiếu cho cô dâu chú rể. Sau đó, họ hàng bày nhang đèn, hoa quả, bánh trái
ngay trong phòng để cúng tổ tiên. Rồi một người đem nước dừa cho cô dâu để
18


mời chú rể uống. Khi uống xong, người đó cũng đem nước dừa cho chú rể mời
lại cô dâu. Sau đó, họ đem chuối cho cô dâu chú rể cùng đúc cho nhau ăn với ý
nghĩa là hành động của sự yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Trước khi bước ra
khỏi phòng, hai người phụ nữ còn dặn dò những điều cần thuyết cho đêm tân
hôn và khuyên bảo hai người phải yêu thương nhau và đùm bọc lẫn nhau đến
trọn đời. Sau khi ăn uống xong, cô dâu chú rể vào mùng. Cô dâu bước vào
trước, chú rể bước vào sau.
Ngày xưa, lễ này còn có bốn phụ nữ đông con, giàu kinh nghiệm trong
cuộc sống nằm ngoài bốn gốc mùng của cô dâu chú rể trong ba đêm liền để
hướng dẫn cô dâu và chú rể về chuyện vợ chồng (tục lệ này đến nay không còn
nữa). Ba ngày sau đám cưới, đôi vợ chồng trẻ mới được người nhà hướng dẫn
mang lễ vật (trong đó nhất thuyết phải có hoa cau đến chùa để cúng Phật và
cúng dường cho các vị sư để cầu phúc). Sau khi hai người sắm trầu cau, bánh
trái để đi thăm hỏi bà con thân tộc hai họ để làm quen và để tạo sự đoàn kết
trong gia đình, dòng họ.
Nghi thức động phòng.

Vào khoảng tám đến chín giờ tối, bên nhà gái tổ chức lễ động phòng cho
cô dâu, chú rể. Trước hết, người ta mượn hai phụ nữ lớn tuổi, có cưới hỏi theo
phong tục, có hiểu biết về cách thức động phòng và cũng là người thân của nhà
gái để làm lễ. Đầu tiên, người ta bày các lễ vật như: hai cái bai-say, một mâm
cơm, trái cây và một trái dừa tươi để cúng ông bà. Cúng xong, người ta đưa
nước dừa cho chú rể uống và cô dâu đem chuối mà ông Acha cho, đúc cho chú
rể ăn. Chú rể cũng đúc chuối cho cô dâu ăn. Hành động này thể hiện sự quan
tâm, chăm sóc, yêu thương lẫn nhau của đôi vợ chồng.
Hai bà dặn dò cô dâu, chú rể những việc cần thiết theo phong tục, truyền
thống và cho cô dâu nằm bên trái chú rể nằm bên phải. Xong hai người họ đi ra.
(Xong lễ cưới)
2.1.6: Các bước trong cưới hỏi
Mở đầu cho lễ hỏi, hai ông Achar ( chủ lễ, đại diện cho hai gia đình) thay
nhau đối đáp. Achar là những người có uy tín trong họ tộc, là những người có
gia đình hạnh phúc và phải am hiểu phong tục tập quán của dân tộc mới được
19


mời tham dự các nghi lễ. Ông Châu Chân Đa, cho biết: "Phải biết người ta là
người đàng hoàng, hiểu biết thì mình mới dám mời đến chủ trì nghi lễ. Nếu
không được như thế thì không dám mời. Vì trong cưới hỏi có nhiều nghi lễ rất
khó".
Cuộc đối đáp diễn ra trong không khí trang nghiêm với sự chứng kiến của
đại diện người thân họ hàng của hai bên gia đình. Đây cũng là nghi lễ đầu tiên
của đám cưới. Trong lễ này, ngày tháng tổ chức lễ cưới được hai họ thống nhất
với nhau.
Lễ thành hôn ( Apia pị pia ) của người Khmer trước đây thường được tiến
hành trong 3 ngày, 2 đêm, nhưng hiện nay tại nhiều địa phương đã rút gọn lại chỉ
còn 2 ngày, 2 đêm. Những chi tiết rườm rà đã được bỏ đi, chỉ giữ lại những nghi
lễ chính như: lễ đưa chú rể sang nhà gái, lễ cúng ông Tà, lễ cắt tóc, rắc bông

cau, mời các nhà sư đến cầu nguyện, lễ xoay đèn, lễ buộc chỉ tay, lễ lạy ông bà,
cha mẹ, lễ nhập phòng....
Sau các thủ tục như: lễ ra mắt ông bà, cha mẹ, trao nữ trang và khăn
quàng cho cô dâu, lạy bàn thờ.. là lễ cắt tóc cho cô dâu, chú rể. Một phụ lễ múa
hát theo điệu nhạc đi vòng quanh cô dâu, chú rể, thỉnh thoảng đưa chiếc kéo lên
cắt tượng trưng vài sợi tóc trên đầu của hai người. Ý nghĩa của việc cắt tóc nhằm
xóa bỏ những điều xấu xa ra khỏi cuộc đời của đôi trai gái này. Tối đến, nhà gái
mời các nhà sư tại các chùa ở địa phương đến nhà để cầu kinh và chúc phúc cho
cô dâu, chú rể. Đây là một nét đặc thù trong đám cưới của người Khmer. Bước
sang ngày hôm sau mới là lễ cưới chính thức. Trong ngày này những nghi lễ
quan trọng mới được tiến hành như lễ xoay đèn, lễ cột chỉ tay, lễ nhập phòng, lễ
rắc bông cau chúc mừng hạnh phúc cho cô dâu chú rể. Những nghi lễ này càng
tổ chức chu đáo càng khiến cho cô dâu, chú rể tự hào về đám cưới của mình.
Ngày nay, những đám cưới của người Khmer vừa mang đặc trưng truyền
thống của dân tộc mình, đồng thời cũng có nhiều đổi mới do quá trình cộng cư
và giao lưu văn hoá với các dân tộc khác trong vùng. Sau những nghi thức
truyền thống là bữa tiệc thiết đãi người thân bạn bè, nam nữ thanh niên theo nếp
sống mới. Và bao giờ cũng vậy, điệu múa Lâm Thon quen thuộc do các thanh
niên nam nữ trong làng biểu diễn trên nền nhạc đệm dân tộc sẽ kết thúc cuộc vui
20


ngày cưới.
2.1.7: Cư trú sau hôn nhân
Nơi cư trú trước hôn nhân người con trai và người con gái đều ở nhà của
mình cho tới khi lễ cưới diễn ra. Sau khi lễ cưới tổ chức xong hoàn toàn nhà trai
sẽ rước cô dâu về nhà mình. Sau lễ cưới, chú rể mới được nhà gái công nhận và
có thể đến nhà gái để phụ giúp các công việc trong nhà như tập tục “ở rể” của
người Việt.Đa số nhà nghiên cứu cho rằng hôn nhân cư trú bên vợ là hiện tượng
phổ biến ở người Khơme. Tác giả Lâm Thanh Tòng nhận xét: “Đặc điểm phổ

biến của người Khơme trong hôn nhân là cư trú phía vợ, đặc điểm đó nổi bật lên
đậm nét trong từng phum. Tức là chàng rể của mỗi gia đình khi ra ở riêng thì cất
nhà ở sát ngay bên cạnh bố mẹ vợ trong cùng một phum. Quá trình đó lặp lại từ
thế hệ này sang thế hệ kia đưa đến tình hình thành viên trong một phum thường
là bà con của nhau theo dòng nữ”. Tác giả Đỗ Khắc Tụng thì cho rằng: "Mặc dù
không có một quy định bắt buộc nào trong phong tục hay quy tắc văn hóa, trong
thực tế cách cư trú bên vợ thường phổ biến hơn và được ưa thích hơn. Trong
trường hợp này, hoặc đôi vợ chồng ở chung với gia đình cha mẹ vợ trong một
căn nhà, hoặc họ cất nhà ở gần quanh nhà cha mẹ vợ nghĩa là trong chu vi của
phum bên vợ. Đây là một tập tục cư trú còn đậm nét của người Khơme ĐBSCL,
và phải chăng đó là tàn dư của một chế độ cư trú theo mẫu hệ xưa kia".
2.1.8.Các trường hợp đặc biệt
Chấm dứt quan hệ hôn nhân:
Các trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân, trên thực tế, có thể được
xếp thành ba nhóm.
- Vợ hoặc chồng chết hoặc bị tuyên bố là đã chết (gọi chung là chết);
- Vợ và chồng ly hôn;
- Vợ và chồng không sống chung nhưng không tiến hành thủ tục ly hôn.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ngay trong lúc cả vợ và
chồng đều còn sống. Ðây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực hiện
trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà không
thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Nguyên nhân của sự khủng
21


hoảng khá đa dạng: bất đồng ý kiến kéo dài, đối nghịch về quan niệm sống, thần
tượng sụp đổ, ngoại tình,... Nhưng tất cả các trường hợp ly hôn đều có chung
một đặc điểm: vợ hoặc chồng hoặc cả hai không muốn tiếp tục duy trì quan hệ
hôn nhân và muốn được tự do.
Ly thân: không phải là ly hôn dựa trên giấy tờ và pháp luật mà nghĩ theo

nghĩa đơn giản đó chính là 2 vợ chồng không ở cùng nhau với 1 số lý do của 2
vợ chồng.
Luật tục của người Khmer thừa nhận, nếu chồng chết, người vợ được
phép tái giá, vợ chết, chồng được phép lấy vợ kế. Ngoài việc được thừa nhận
hợp pháp, người ta còn khuyến khích người góa bụa đi bước nữa. Theo quan
niệm của họ, sở dĩ như vậy là khi vợ hoặc chồng chết, “ma” sẽ quên hết việc
trên trần gian, không ảnh hưởng đến việc tái giá này.

22


2.2: Khái niệm gia đình
Gia đình là một tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế
văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, qua hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa
các thành viên.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh thu nhỏ cơ bản nhất
của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trãi qua 1 quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân lại có những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, 1 vợ - 1
chồng, thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các
loại gia đình: 1 thế hệ, 2 thế hệ và nhiều thế hệ.
2.2.1:Gia đình truyền thống của người Khmer
Gia đình và phum sóc đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giữ gìn
và bảo lưu các giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Khơme.
Gia đình người Khơme ở ĐBSCL nói chung, ở Sóc Trăng nói riêng bao
gồm 2 loại hình: gia đình hạt nhân và gia đình phức hợp hay gia đình không
phân chia. Ở đây mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế và xã hội độc lập, có nhà ở
riêng, có cơ sở kinh tế như: ruộng đất, trâu bò, dụng cụ sản xuất… Quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình chủ yếu là giữa vợ và chồng, giữa bố mẹ và các

con, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em. Những mối quan hệ này có những
nét đặc thù, phản ánh đặc điểm trong quan hệ thân tộc của người Khơme, khác
với quan hệ của các tộc người khác ở nước ta.
Trong gia đình Khơme, người chồng hay người cha là lực lượng chủ yếu
sản xuất nông nghiệp và giao dịch với bên ngoài, tiếp đón khách. Tất cả các
công việc còn lại như nội trợ, chăm sóc, dạy dỗ con cái và quản lý chi tiêu trong
gia đình thuộc về người vợ. Những công việc hệ trọng trong gia đình như mua
bán, sắm sửa vật dụng quý giá, đắt tiền và cưới vợ gả chồng cho con cái, làm
phước vào chùa… đều có sự thống nhất giữa vợ và chồng. Nhìn chung, quan hệ
giữa vợ và chồng người Khơme khá bình đẳng, không khí gia đình hòa thuận, ít
khi có xung đột…
Sự bình đẳng này còn thể hiện ở chế độ sở hữu tài sản. Trong gia đình,
ngoài tài sản chung do công sức hai vợ chồng làm ra trong thời gian chung sống
23


thì vợ và chồng đều có quyền sở hữu tài sản riêng. Khi quan hệ vợ chồng lỡ bị
tan rã, ly dị, thì tài sản riêng của người nào người đó giữ lại, còn tài sản chung
thì chia đều.
Trong xã hội, người đàn bà cũng được quý trọng. Ngay cả khi Phật giáo
Khơme, về quy chế, không chấp nhận sự tu hành của nữ giới, thì trong thực tế
người phụ nữ Khơme vẫn có thể thực hiện việc tu hành bằng cách tu tại gia và
hằng tháng vẫn được đến chùa trong một số ngày lễ Phật. Người đàn ông lấy vợ
lẽ phải được phép của người vợ cả. Trong cuộc sống gia đình, người phụ nữ rất
chịu khó, chăm sóc chồng con chu đáo… đây là một đức tính tốt đẹp của người
phụ nữ Khơme. Thế nhưng nếu trong cuộc sống vợ chồng không hợp nhau, họ
cũng có thể tiến hành ly dị dễ dàng mà không gặp phải những khó khăn ràng
buộc quá lớn.
Quan hệ trong gia đình người Khơme có sự kỷ cương nề nếp, tôn ti trật tự
rõ ràng, cha mẹ thật sự có quyền đối với con cái. Tuy nhiên, trong sinh hoạt

hằng ngày, cũng như khi giải quyết những công việc quan trọng, họ thường có
mối thông cảm lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái. Đối với con cái, cha mẹ không
có phân biệt đối xử trai hay gái, trưởng hay thứ, con nuôi hay con đẻ. Tương tự
như vậy, nàng dâu và con rể trong gia đình được đối xử ngang nhau, anh em bên
vợ, anh em bên chồng không có sự phân biệt trong quan hệ. Trong việc thừa kế
tài sản, cha mẹ chia đều cho các con.
Quan niệm dòng họ của người Khơme khác hẳn với các tộc người khác
trong vùng, không hẳn là phụ hệ hay mẫu hệ. Trong cách tính dòng họ, một cá
nhân không coi mình thuộc dòng họ bên cha hay bên mẹ. Do đó, ở người
Khơme không có khái niệm về tộc hay họ tính theo một phía cha hoặc mẹ, trong
quan hệ họ hàng không có sự phân biệt giữa bên cha và bên mẹ, không có khái
niệm về bên nội và bên ngoại.
Tuy nhiên, do sự áp đặt cưỡng bức của chính quyền phong kiến thực dân,
mặt khác, do chịu ảnh hưởng của hai tộc Việt, Hoa là những cư dân theo chế độ
phụ hệ, nên người Khơme thường đặt tên con theo họ cha khi làm giấy khai sinh
và kê khai hộ khẩu công dân. Nhưng trong quan hệ xã hội truyền thống của
người Khơme thể hiện trong quan hệ dòng họ, hôn nhân và gia đình thì tên họ
24


chỉ đơn thuần là một hình thức pháp lý, chưa theo phụ hệ như người Việt, người
Hoa hoặc mẫu hệ như người Chăm.
Đối với người Khơme, gia đình là một thành tố cấu thành của phum với
quan niệm về phạm vi thân tộc rất rộng, nên hôn nhân không chỉ là việc hệ trọng
của một người mà còn là vấn đề có ý nghĩa rất lớn với cấu trúc thân tộc trong
phum. Những hình thức hôn nhân giữa các anh em họ chéo và anh em họ song
song ở thế hệ thứ nhất, hôn nhân giữa anh em ở thế hệ thứ hai, cũng như hiện
tượng hôn nhân anh em chồng và chị em vợ đã làm cho sự liên kết, quan hệ thân
thuộc giữa các thành viên trong phum Khơme thuộc về cả hai phía cha và mẹ.
Nguyên tắc này củng cố mối quan hệ tình cảm, kinh tế giữa họ với nhau, ngoài

ra còn nhằm mục đích bảo vệ tài sản của gia đình không thất thoát ra ngoài.
Người Khơme thường cư trú trên các giồng, khai thác những vùng đất
thấp phía trước và sau giồng, từng bước biến chúng thành đồng ruộng. Những
cụm dân cư rời nhỏ gọn là phum, nhiều phum hợp thành sóc hoặc lớn hơn là xã
xen kẽ với các ấp, xã của người Việt và người Hoa. Hình thái cư trú sau hôn
nhân của người Khơme do tính chất xã hội, quan hệ trong việc tính huyết thống
và tính chất của gia đình quy định. Đa số nhà nghiên cứu cho rằng hôn nhân cư
trú bên vợ là hiện tượng phổ biến ở người Khơme. Tác giả Lâm Thanh Tòng
nhận xét: “Đặc điểm phổ biến của người Khơme trong hôn nhân là cư trú phía
vợ, đặc điểm đó nổi bật lên đậm nét trong từng phum. Tức là chàng rể của mỗi
gia đình khi ra ở riêng thì cất nhà ở sát ngay bên cạnh bố mẹ vợ trong cùng một
phum. Quá trình đó lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ kia đưa đến tình hình thành
viên trong một phum thường là bà con của nhau theo dòng nữ”. Tác giả Đỗ
Khắc Tụng thì cho rằng: "Mặc dù không có một quy định bắt buộc nào trong
phong tục hay quy tắc văn hóa, trong thực tế cách cư trú bên vợ thường phổ biến
hơn và được ưa thích hơn. Trong trường hợp này, hoặc đôi vợ chồng ở chung với
gia đình cha mẹ vợ trong một căn nhà, hoặc họ cất nhà ở gần quanh nhà cha mẹ
vợ nghĩa là trong chu vi của phum bên vợ. Đây là một tập tục cư trú còn đậm nét
của người Khơme ĐBSCL, và phải chăng đó là tàn dư của một chế độ cư trú
theo mẫu hệ xưa kia".
Theo truyền thống văn hóa nông nghiệp, gia đình người Khơme Sóc
25


×