Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

GIÁO TRÌNH văn học VIỆT NAM TRUNG đại i (từ THẾ kỷ x đến hết XVII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.1 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI I
(TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT XVII)
(Dành cho Đại học sư phạm Ngữ văn)

Tác giả: Nguyễn Thị Hoài An

Năm 2014
1


Mục lục

Trang

Lời nói đầu…………………………………………………………… .…. 3
Nội dung
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

……4

1.1. Một số khái niệm thuộc văn học trung đại ……………………………4
1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá … ………………….6
1.3. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam…………….10
1.4 . Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam……………………………….14
CHƯƠNG 2. VĂN HỌC THẾ KỈ X-THẾ KỈ XIV ……………………...23


2.1. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá ………………….23
2.2. Đặc điểm về lực lượng sáng tác và tác phẩm văn học …………….24
2.3. Những khuynh hướng văn học …………………………………….26
CHƯƠNG 3. VĂN HỌC THẾ KỈ XV- THẾ KỈ XVII……………….33
3.1. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá…………………….33
3.2. Đặc điểm văn học ……………………………………….....................33
3.3.Các tác gia và tác phẩm tiêu biểu……………………………………....33
Tài liệu tham khảo…………………….………………………………..61

2


Lời mở đầu
Văn học Việt Nam trung đại I (thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII) cung
cấp các kiến thức những kiến thức cơ bản, khái quát về sự phát triển của văn
học trung đại Việt Nam: các bộ phận văn học, các giai đoạn phát triển,
những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá, đặc trưng văn học trung đại,
đặc điểm về lực lượng sáng tác, các tác gia tiêu biểu và hệ thống thể loại,
những nội dung chính, khuynh hướng văn học, các hiện tượng văn học của
văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII.
Bài giảng gồm ba chương, được trình bày với ý đồ truyền thụ, phù hợp
với thời lượng cho phép của môn học. Chúng tôi hi vọng, bài giảng Văn
học Việt Nam trung đại I (thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII) sẽ rèn luyện cho
sinh viên những kỹ năng cần thiết trong việc vận dụng những tri thức đã học
để đọc hiểu, minh giải, phân tích, đánh giá, thẩm bình và có phương pháp
giảng dạy phù hợp các tác phẩm văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỷ
XVII trong chương trình ngữ văn THPT.
Bài giảng biên soạn có sử dụng một số tài liệu tham khảo. Mặc dù
chúng tôi đã cố gắng nhưng sẽ không tránh khỏi sai sót, rất mong sự góp ý
kiến của các đồng nghiệp, anh chị em sinh viên để chúng tôi có thể chỉnh

sửa hoàn thiện hơn vào các lần in sau.

3


Chương 1. KHÁI QUÁT VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm thuộc văn học trung đại
Văn học trung đại còn được gọi bằng những cái tên khác nhau như
văn học thành văn, văn học phong kiến, văn học cổ điển. Bởi từ TK X đến
TK XIX, văn học trung đại phát triển trong một môi trường xã hội phong
kiến với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức,
những người có trình độ cao, được đào tạo từ ''cửa Khổng sân Trình'' và
những sánh tác chỉ lưu truyền trong tầng lớp công chúng ấy, bên cạnh đó
văn học thời kì này còn chịu ảnh hưởng bởi thi pháp văn chương cổ điển.
Văn học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ.
Văn học trung đại bao gồm những sáng tác, trước tác bằng chữ Hán
và chữ Nôm của cá tác gia thuộc tầng lớp quý tộc, sĩ phu, nho sĩ thời phong
kiến. Văn học phát triển trong tiến trình xây dựng và bảo vệ quốc gia phong
kiến độc lập tự chủ qua các triều đại phong kiến ở Việt Nam.
*Văn học chức năng và văn học nghệ thuật
Văn học trung đại
Văn học chức năng

Văn học chức
năng hành chính

Văn học nghệ thuật

- Nghệ thuật ngôn từ ; Xây
dựng hình tượng nghệ thuật


Văn học chức
năng tôn giáo, lễ
nghi

Tính chất: quan phương, quy
phạm, mô hình, đơn phương
một chiều

Thể hiện tài năng, cảm hứng
của chủ thể sáng tạo.

Thực
công

Phong phú về đề̀̀̀ tài và thể
loại

thi
việc

Thực
thi
chức năng
4


mang
chất
nước


tính
nhà

tôn
giáo,
nghi lễ, tập
tục

Chiếu, hịch,
tấu,
sớ,
biểu, cáo…

Thơ
kệ,
sách triết
học
Phật
giáo, văn
tế, văn bia,
câu
đối
hiếu - hỉ

Thơ luật Đường, phú, truyện,
ký, thơ hát nói…

*Tương quan giữa văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm
Thời gian

Thế kỷ X (khi mới
ra đời

Tương quan văn học Hán Nôm
Văn học chữ Hán: cao
quí và chính thống

Khoảng cuối thế kỷ Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện
XI-XIII
VH chữ Hán giữ
vị trí chủ đạo (yêu nước,
ca ngợi triều đình và phê
phán hiện thực)
Từ thế kỷ XVXVII
Từ thế kỷ XVIII hết XIX

Tác phẩm tiêu biểu
Nam quốc sơn hà;
Thiên đô chiếu; Dụ chư
tì tướng hịch văn, Cáo
tật thị chúng, Thuật
hoài, Bạch Đằng giang
phú

Phong trào dùng chữ Nôm để
sáng tác văn học
Bình Ngô đại cáo; Quân trung
từ mệnh tập, Thánh Tông di
thảo, Truyền kì mạn lục, thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm


- VH chữ Nôm có bước phát Quốc âm thi tập; Hồng Đức
triển vượt bậc (TP có qui mô quốc âm thi tập, Bạch Vân
lớn, giá trị nghệ thuật cao)
quốc ngữ thi tập
- VH Hán - Nôm Phát triển
đỉnh cao trên nhiều thể loại
thơ, văn xuôi truyện ngắn bằng
chữ Hán,Thơ Nôm Đường luật,
5

Thơ chữ Hán
Đặng Trần Côn, Nguyễn
Du


Khúc ngâm, thơ hát nói

Thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, Chinh
phụ ngâm, Cung oán
ngâm, Truyện Kiều, …

1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá
Thời gian
Từ thế kỷ X – cuối
thế kỷ XV

Tiền đề lịch sử xã hội
Thời kỳ

phục hưng dân tộc
và văn hoá dân
tộc.
Trải qua
triều đại phong
kiến Ngô (939 –
967), Đinh (966968), Tiền Lê
(980-1009), Lí
(1010 – 1225),
Trần (1225-1400),
Hồ (1400-1407).

Từ thế kỷ XVI - cuối
thế kỷ XIX

Bắt
đầu
xuất
hiện
sự
khủng
hoảng
chính trị
Triều đại
phong kiến: Lê sơ
(1428-1527), Mạc
(1527-1592),
Xung đột Lê Mạc
– chiến tranh Nam
Bắc Triều (15451592), cuộc Trịnh

- Nguyễn phân
tranh (1627-1672)
Thế
kỷ
XVIII: khởi nghĩa
6

Tiền đề tư tưởng, văn
hoá
địa

Văn hoá bản

Ảnh hưởng
sâu sắc tư tưởng
Phật giáo, Nho
giáo, Đạo giáo

Duy trì hệ tư
tưởng Nho giáo
Từ
TK
XVIII, Nho giáo
suy vi, Nho sĩ
phân hoá; Phật
giáo và Đạo giáo
phát triển trở lại
(Đình làng, chùa
chiền xây dựng)
KNND tạo

nên luồng sinh khí
mới, xuất hiện trào
lưu tư tưởng dân
chủ, nhân văn phát
triển tác động đến


nông dân, phong
trào Tây Sơn
thắng lợi thống
nhất đất nước,
Triều
Nguyễn
thành lập (18021883), thời kỳ
Pháp thuộc

nho sĩ tiến bộ

Thời đại Lý- Trần đảm đương hai sứ mệnh lịch sử to lớn: Hưng văn
trị và định vũ công, bảo vệ tổ quốc, chống họa xâm lăng và xây dựng nền
móng vững chắc cho chế độ phong kiến vừa hình thành.

Ðời Lý, Lý

Thường Kiệt chống Tống; đời Trần, Trần Hưng Ðạo chống Nguyên Mông (3
lần). Thời kỳ này, triều đại Lý- Trần còn phải tiến hành những cuộc chiến
tranh chống họa xâm lăng phương Nam (Chiêm Thành). Chiến tranh tất yếu
phải có hủy hoại, hao người tốn của nhưng tính chất chính nghĩa và thắng lợi
vẻ vang của những cuộc kháng chiến vệ quốc đã tạo thêm khí thế hào hùng,
bản lĩnh, sự tự tin cho một dân tộc nhỏ bé ở phương Nam. Mặt khác, thời đại

Lý- Trần còn phải đảm đương sứ mệnh xây dựng chế độ phong kiến, chế
định kỷ cương, điển lễ, văn hiến cho một quốc gia phong kiến có chủ quyền,
tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam
trong các thế kỷ sau.
Ðến đời Trần, kinh tế đại điền trang đi vào con đường lạc hậu. Vua
chúa, quý tộc lợi dụng chính sách này để cướp giật ruộng đất của nông dân
ngày càng nhiều. Sự khủng hoảng của nền kinh tế đại điền trang đã dẫn đến
sự bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông nô, nô tỳ và một số ý
kiến cải cách của các sĩ phu. Tính chất công điền dần lỗi thời nhường chỗ
cho chế độ sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất sẽ được thực hiện vào thời kỳ
nhà Hậu Lê.
- Những năm Hồ Quý Ly ở ngôi, ông đã có một số cải cách quan trọng
về kinh tế đặc biệt là thực hiện nghiêm khắc chính sách hạn điền hạn nô
7


nhưng những cải cách đó đều thất bại do các nho sĩ và quần chúng không
ủng hộ chế độ ngụy triều. Các triều vua đầu thời kỳ Lý- Trần đều rất quan
tâm phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đời Lê Hoàn đã tổ chức lễ cày ruộng
để thể hiện tinh thần coi trọng nghề nông (Cứ đến đầu tháng giêng, nhà vua
đích thân cày một thửa ruộng mở đầu năm sản xuất). Hệ thống đê ở các con
sông lớn được quan tâm triệt để nhằm bảo vệ mùa màng, chống lụt lội. Các
chức quan Hà đê (chánh sứ và phó sứ) đưọc đặt ra để chuyên coi việc đào
kênh ngòi, đắp đê phục vụ giao thông, thủy lợi. Việc mở rộng diện tích canh
tác, tổ chức khuyến khích khai hoang cũng được quan tâm.
Thủ công nghiệp, nhờ được quan tâm, cũng ngày càng phồn thịnh.
Nghề dệt gấm, sản xuất nông cụ, vải lụa, đồ gốm, đồ sứ, đồ đồng, vũ khí, xe
thuyền, khắc bản in, nung vôi, dệt the,.. đã phát triển mạnh ở các làng nghề,
phường hội truyền thống
*Vềtư tưởng, xã hội

Sự phát triển của các học thuyết Nho- Phật- Lão trong giai đoạn đầu
tiên của chế độ phong kiến Việt Nam đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành, phân chia đẳng cấp trong xã hội Lý- Trần. Cụ thể:
Ở thời Lý, đạo Phật lan truyền khắp nước ta, có xu hướng phát triển
thành quốc giáo. Bởi lẽ, chiến tranh ly loạn, lòng người chán nản muốn tìm
đến con đường siêu thoát của đạo Phật.
+ Ðạo Phật đã du nhập vào Việt Nam khá sớm, trong thời kỳ Bắc
thuộc và đã có ảnh hưởng rất sâu sắc ở thời kỳ Ðinh, Tiền Lê.
+ Vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là người xuất thân từ đạo Phật.
(Ðời Lê Ngọa Triều, ông giữ chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Về sau,
vua Lê Ngọa Triều hoang dâm, hung ác, triều thần nổi dậy lật đổ ngôi vua
Tiền Lê, đưa Lý Công Uẩn lên ngôi báu, sáng lập ra nhà Lý). Do xuất thân
từ đạo Phật, Lý Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo ở
Việt Nam.Nhân dân ta vốn có truyền thống nhân đạo nên rất dễ tiếp thu các
8


lý thuyết từ bi, bác ái của đạo Phật. Vai trò độc tôn của Phật giáo đã dẫn đến
việc phân chia các giai cấp trong xã hội thời Lý như sau:
+ Giai cấp được trọng vọng nhất thời Lý là giai cấp quý tộc và tăng
lữ. Các nhà sư thường có vị trí cao trong triều đình và thậm chí còn có mối
quan hệ huyết thống với hoàng tộc. (Sư Viên Chiếu là người trong hoàng
tộc, sư Mãn Giác là con quan đại thần,..)
+ Giai cấp quần chúng bị trị thời Lý gồm nông dân ở các làng xã, nông
nô, nô tỳ ở các điền trang, thợ thủ công, lái buôn.
Ở thời Trần, đạo Phật vẫn còn ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh
thần của dân tộc nhưng vị trí độc tôn của nó đã dần phải nhường chỗ cho
Nho giáo do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Từ triều Trần trở đi, tính chất trung ương tập quyền cao hơn dẫn đến
nhu cầu gạt bỏ vị trí cố vấn tối cao của các vị quốc sư trong triều đình.

- Chính sách đề cử và thế tập bị bãi bỏ. Nhà Trần tổ chức các kỳ thi để
tuyển chọn nhân tài vào làm việc cho triều đình. Nội dung thi cử là kinh sách
của đạo Nho. Thực tế này đã dẫn đến việc hình thành một tầng lớp Nho sĩ
tham gia ngày càng nhiều vào công việc triều chính, lấn át dần vị trí của các
nhà sư tham gia triều chính trong giai đoạn trước đó. Nhân sinh quan của các
Nho sĩ có phần đối lập với nhân sinh qua Phật giáo vì thế, ngay từ rất sớm,
đã diễn ra hàng loạt các cuộc đấu tranh trên phương diện tư tưởng của các
Nho sĩ nhằm chống lại Phật giáo mà những người tiêu biểu là Ðàm Sĩ Mông,
Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu,..
- Do đạo Nho phát triển, nho sĩ trở thành giai cấp được trọng vọng bên
cạnh giai cấp quý tộc và trở thành lực lượng chính trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ tổ quốc, góp phần nắm giữ, thiết chế kỷ cương, ca ngợi, bảo vệ
uy quyền phong kiến và đấu tranh chống nạn ngoại xâm.
Các giai cấp bị trị thời Trần vẫn là nông dân, nông nô, nô tỳ, thợ thủ
công, lái buôn,..
9


*Về giáo dục và nghệ thuật:
Việc giáo dục đã được quan tâm từ rất sớm. Năm 1070, Lý Thánh Tông
lập Văn Miếu ở quốc đô Thăng Long. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa
thi tam trường và năm 1076 mở Quốc Tử giám chuyên lo việc giảng thuật
Nho giáo. Các năm 1086, 1152, 1165, 1193 đều có mở kỳ thi. Ðến đời Trần,
các kỳ thi Nho giáo được tổ chức thường lệ và có quy mô rộng rãi hơn thời
Lý.
Tiếp thu những thành tựu rực rỡ của văn nghệ dân gian, các ông vua
thời Ðinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã nối tiếp xây dựng một nền văn nghệ cung
đình giàu bản sắc dân tộc. Ca múa nhạc cung đình ở các triều Lý- Trần đều
bắt nguồn từ ca múa nhạc dân gian (Múa rối, hát chèo, hát tuồng thường
được các ông vua thời Lý- Trần đặc biệt yêu thích)

Phần lớn các công trình kiến trúc điêu khắc ở thời Lý- Trần đã bị hủy
hoại trong 20 năm đô hộ của giặc Minh nhưng theo các tài liệu sử học, khảo
cổ học và một số di chỉ còn lại, có thể khẳng định rằng vương triều Lý- Trần
đã cho xây dựng nhiều công trình lớn (Năm 1031, có 950 ngôi chùa được
xây. Tháp Báo Thiên cao 12 tầng. Tháp Sùng Thiên ở Sơn Nam, Hà Nam
Ninh ngày nay, cao đến 13 tầng. Các di tích chùa Một cột, chùa Keo, chùa
Thầy, tháp Bình Sơn, chuông Quy Ðiền,.. đều cho thấy sự phát triển rực rỡ
của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lý Trần)
Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam từ TK XV đến hết XVII: dân tộc ta
giành nhiều thắng lợi chống ngoại xâm, xây dựng được quyền độc lập tự
chủ, chế độ phong kiến ở thời kỳ phát triển.
Sau chiến thắng quân Minh (1407 – 1427), phong kiến VN đạt sự phát
triển cực thịnh (Thời Lê Thánh Tông với sự phát triển của Ngo giáo) rồi bắt
đầu có dấu hiệu suy tàn.
1.3. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam
Giai đoạn1: (TK X - hết TK XIV)
10


Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở
ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc: đất nước độc lập, chấm dứt hơn 1000
năm phong kiến Bắc thuộc, nhà nước phong kiến Việt Nam hình thành và
phát triển. Từ đây bắt đầu một giai đoạn hào hùng với những chiến công vô
cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần.Văn học viết Việt
Nam hình thành, TK X có sự xuất hiện của văn học viết chữ Hán và đến TK
XIII đấnh dấu sự ra đời của văn học viết bằng chữ Nôm. Bên cạnh đó văn
học dân gian vẫn tồn tại và phát triển song song với văn học viết. Cảm hứng
chủ đạo là cảm hứng yêu nước với âm hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn
nhà Trần với hào khí Đông A sục sôi.
Các tác phẩm tiêu biểu: Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn), Quốc tộ (Đỗ

Pháp Thuận), Nam quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc
Tuấn) Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ
Lão), Bạnh Đằng giang kí (Trương Hán Siêu).Thời kì này có sự xuất hiện
của nhiều thể loại văn học như văn nghị luận (chiếu, hịch), văn xuôi lịch sử
(Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu) và thơ. Do tư duy nguyên hợp nên văn học
giai đoạn này có hiện tượng văn-sử-triết bất phân. Văn học viết bằng chữ
Hán là chủ đạo, văn học viết bằng chữ Nôm chưa có thành tựu gì nổi bật.
Giai đoạn 2: (TK XV - hết TK XVII)
Triều Trần suy vong, Hồ Quý Li tiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà
Hồ (1400-1407). Triều Minh lấy có phò Trần diệt Hồ sang xâm lược nước
ta. Lê Lợi sau đó dấy binh khởi nghĩa và khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt
10 năm (1418-1427). Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789).
Nhà Lê đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào TK XV. Tuy
nhiên bên trong cung đình nhà Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. Đặc biệt
là sau cái chết của Lê Thánh Tông, quan lại nhiều lần chia bè phái đánh
nhau. Mạc Đăng Dung do có công dẹp loạn mà có nhiều quyền bính trong
11


tay, thậm chí lấn át cả vua. Đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung phế truất
ngôi vua và lập ra nhà Mạc. Từ đây lịch sử Việt Nam bước vào thời kì đen
tối nhất: thời kì nội chiến. Cuộc chiến Lê Mạc, Trịnh Nguyễn phần nào cũng
cản trở quá trình phát triển của đất nước.
TK XV văn học viết còn kế thừa được cảm hứng yêu nước và âm
hưởng còn sót lại của hào khí Đông A. Dần dần văn học Việt Nam chuyển
sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn
xã hội, sự suy thoái về mặt đạo đức. Văn học viết bằng chữ Hán và văn học
viết bằng chữ Nôm đều đạt được nhiều thành tựu. Các tác phẩm chính: Bình
Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), thơ Lê Thánh Tông, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ).

Thời kì này có nhiều thể loại được bổ sung. Hiện tượng văn-sử-triết bất
phân nhạt dần bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều các tác phẩm giàu chất văn
chương, hình tượng. Thơ Nôm có nhiều thành tựu lớn qua sáng tác của
Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của văn xuôi tự sự (Truyền kì mạn
lục). Và văn chính luận có sự phát triển tột bậc qua những sáng tác của
Nguyễn Trãi như Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập...
Giai đoạn 3: (đầu TK XVIII - hết nửa đầu TK XIX)
Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn
phong kiến tranh giành quyền lực, đấu đá, tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của
người dân vô cùng khổ cực. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi
mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi quân
Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua Quang Trung lên ngôi.
Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung với hạm đội manh nhất
Thái Bình Dương bèn cầu cứu thực dân Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có
được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh
phải để chúng buôn bán tự do tại của biển Sơn Trà, Đà Nẵng. Không lâu sau
khi thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương
12


triều phong kiến chuyên chế (1802-1945).Đây được xem là giai đoạn phát
triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam. Cảm hứng
xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền
sống của con người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền
sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người cá nhân. Các tác
phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Đoàn Thị Điểm dịch),
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô
gia văn phái), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thường kinh kí sự (Lê Hữu
Trác), thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,Truyện Kiều (Nguyễn
Du). Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết

bằng chữ Nôm, và sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như tùy bút, tiểu
thuyết chương hồi, kí.
Giai đoạn 4: (cuối TK XIX)
Sau một thời gian nắm quyền, nhà Nguyễn dừng việc cho quân Pháp tự
do buôn bán tại của biển Sơn Trà và chém đầu tất cả những người truyền đạo
thiên chúa giáo ở Việt Nam. Và đến năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam. Triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng.
Đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Từ chế độ phong kiến, Việt Nam
chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến và văn hóa phương Tây bắt
đầu ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam.
Cảm hứng xuyên suốt của văn học cuối TK XIX là cảm hứng yêu nước
chống giặc ngoại xâm và mang một âm hưởng bi tráng bởi nó ghi lại một
thời khổ nhục nhưng vĩ đại, thất bại nhưng vẫn hiên ngang của dân tộc Việt
Nam. Các tác phẩm tiêu biểu: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc... của
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Quang Bích,
Phan Văn Trị, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thượng Hiền...Đặc biệt trong thời
kì này có sự xuất hiện của một số tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc
ngữ của Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của đem đến những đổi mới bước
13


đầu theo hướng hiện đại hóa. Văn thơ chữ Hán và chữ Nôm của các tác giả
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương đều có những bước phát
triển mạnh mẽ.
1.4.Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam
*Ước lệ trong văn học nói chung:
Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước
lệ là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự
vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích qui ước và đúng với cách
hiểu của cả cộng đồng.

Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước
lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng
bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật
của nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học
là ước lệ thẩm mỹ có tính qui
Ước lệ, một đặc trưng thi pháp:
Văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc
và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới bằng hệ
thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của văn
học.
Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong
kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.
Ước lệ bao gồm ba tính chất:
Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ.
– Tính sùng cổ.
– Tính phi ngã.
– Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được
mênh danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình
dân). Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người
14


sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại
văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.
– Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ
góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong
tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn
Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn
Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:
Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
– Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm
mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử,
điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ
những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có
sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông
(Nguyễn Du)
Hay:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân gìau đủ khắp đòi phương.
(Nguyễn Trãi)
Thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân tộc ta, các
nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực
cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa
muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của
cổ nhân, của lịch sử xa xưa.

15


– Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực
của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những
thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…
– Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn
liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không
bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo
đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu gía trị.
– Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng

hóa, “văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ
thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của
các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình
tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.
Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi,
trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong
kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là
thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một
cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử
chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân
khấu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(Nguyễn Du)
Tạo vật TN đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như
mai, cúc, tùng, bách, liễu,…
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
16


(Bà Huyện Thanh Quan)
– Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu
có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở
Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?
(Nguyễn Du)

Con người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu !
(Nguyễn Đình Chiểu)
Người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ
bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng
hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực
cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác
của chúng, mới tả thực.
Tính sùng cổ:
– Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương
cổ của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá
khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân
lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ
và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa.
– Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực
của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những
thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…
– Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn
liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước
Tính phi ngã:
17


– Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con
người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống với không gian mà
không sống cùng thời gian.
Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai
cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và
tiểu nhân.
– Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn

chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả
thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp
điệu do cá nhân mình sáng tạo.
– Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không
có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người
nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân
chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của
dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc
đáo của họ.
* Quy phạm là một đặc trưng loại hình của văn học trung đại VN (từ
thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII)
- Quy phạm là khuôn phép, những công thức nhằm đảm bảo cho hoạt
động sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật có hiệu quả cao nhất và bộc lọ hết
khả năng nghệ thuật của nó. Tính quy phạm thể hiện trên các phương diện:
+ Về quan niệm, ý thức nghệ thuật: một số công thức thường gặp: văn
dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí, văn chương cao nhã, hậu cổ bạc kim, thuật nhi bất
tác, sính điển phạm và kỵ huý
+Về phương thức diễn đạt:
- Các lựa chọn và xử lý chủ đề, đề tài: xoay quanh ác khuôn mẫu: Cảm,
Thuật, Hoài, Tặng, Đề, Tiễn, tán, Tống, Biệt, Vịnh, Ngâm, Điếu, Vãn…
- Mô hình cấu trúc theo thể thơ Đường, Phú, Hát nói…
18


- Nguyên tắc sử dụng ngôn từ nghệ thuật và xây dựng hình tượng, cách
sử dụng các biện pháp tu từ.
* Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ lão để làm rõ các đặc
điểm trên.
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời TrầnTrong cuộc kháng chiến
chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi

lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần
quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Bài thơ bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong
kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là
phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của
lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy
lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược
Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao
truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm
thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí
tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về
trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong,
thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất
ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ,
âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc,
19


lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm
đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân
đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo
gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So

với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai
phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh,
áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình
trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian
dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng
trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được.
Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế
của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân
hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn
cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu
bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để
tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc
vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo
quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một
chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong
con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn.
Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu,
cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ
Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở
20


trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công
Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam
Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm
cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sừ cổ kim soi mình vào đó mà so sánh,
phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý
cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quôc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ
tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân
tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm
quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ
thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ
với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với
vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách
sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với
thời đại anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào
sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình
cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim
nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng
tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng
giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh
21


niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn
Phạm Ngũ Lão.


22


Chương 2. VĂN HỌC THẾ KỶ X – THẾ KỶ XIV
2.1. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hoá

Thời gian

Tiền đề lịch sử xã hội

Tiền đề tư
tưởng, văn hoá

Từ thế kỷ X
– thế kỷ XIV

Thời kỳ phục hưng dân
tộc và văn hoá dân tộc.

Văn

hoá

bản địa

Trải qua triều đại phong

Ảnh hưởng

kiến Ngô (939 – 967), Đinh


sâu sắc tư tưởng

(966-968),

Phật giáo, Nho

Tiền



(980-

1009), Lí (1010 – 1225), Trần

giáo, Đạo giáo

(1225-1400), Hồ (1400-1407).
Về chính trị:
- Thời đại Lý- Trần đảm đương hai sứ mệnh lịch sử to lớn: Hưng văn trị
và định vũ công, bảo vệ tổ quốc, chống họa xâm lăng và xây dựng nền móng
vững chắc cho chế độ phong kiến vừa hình thành.
- Ðời Lý, Lý Thường Kiệt chống Tống; đời Trần, Trần Hưng Ðạo
chống Nguyên Mông (3 lần). Thời kỳ này, triều đại Lý- Trần còn phải tiến
hành những cuộc chiến tranh chống họa xâm lăng phương Nam (Chiêm
Thành). Chiến tranh tất yếu phải có hủy hoại, hao người tốn của nhưng tính
chất chính nghĩa và thắng lợi vẻ vang của những cuộc kháng chiến vệ quốc
đã tạo thêm khí thế hào hùng, bản lĩnh, sự tự tin cho một dân tộc nhỏ bé ở
phương Nam.
- Mặt khác, thời đại Lý- Trần còn phải đảm đương sứ mệnh xây dựng

chế độ phong kiến, chế định kỷ cương, điển lễ, văn hiến cho một quốc gia
phong kiến có chủ quyền, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của chế
độ phong kiến Việt Nam trong các thế kỷ sau.
23


* Về xã hội
Sự phát triển của các học thuyết Nho- Phật- Lão trong giai đoạn đầu
tiên của chế độ phong kiến Việt Nam đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành, phân chia đẳng cấp trong xã hội Lý- Trần. Cụ thể:
Ở thời Lý, đạo Phật lan truyền khắp nước ta, có xu hướng phát triển
thành quốc giáo. Vai trò độc tôn của Phật giáo đã dẫn đến việc phân chia
các giai cấp trong xã hội thời Lý. Ở thời Trần, đạo Phật vẫn còn ảnh hưởng
rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc nhưng vị trí độc tôn của nó đã
dần phải nhường chỗ cho Nho giáo. Từ triều Trần trở đi, tính chất trung
ương tập quyền cao hơn dẫn đến nhu cầu gạt bỏ vị trí cố vấn tối cao của các
vị quốc sư trong triều đình. Chính sách đề cử và thế tập bị bãi bỏ. Nhà Trần
tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc cho triều đình. Nội
dung thi cử là kinh sách của đạo Nho. Do đạo Nho phát triển, nho sĩ trở
thành giai cấp được trọng vọng bên cạnh giai cấp quý tộc và trở thành lực
lượng chính trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, góp phần nắm giữ,
thiết chế kỷ cương, ca ngợi, bảo vệ uy quyền phong kiến và đấu tranh chống
nạn ngoại xâm.
2.2. Đặc điểm về lực lượng sáng tác và tác phẩm văn học
2.2..1. Lực lượng sáng tác
Trước thời Lí, có nhiều thiền sư như Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp
Thuận, Vạn Hạnh…giữ vai trò quan trọng trong việc ngoại giao, chính
trị…Một số bài thơ của họ sang tác khi ứng đối và tiếp sứ Trung Hoa được
coi là những tác phẩm văn học viết đầu tiên của dân tộc.
Đến thời Lí, nước ta có một nền văn học viết đặc sắc. Ngoài các vị

vua quan, lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Theo sách
Thiền uyển tập anh, đời Lý có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên
tuổi tiêu biểu như: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng

24


Nghiêm,..Trong số đó, nhiều nhà sư chiếm địa vị cao trong xã hội và triều
đình nhà Lý.
Đến thời Trần, sự phát triển của giáo dục thi cử theo Nho giáo đã làm
xuất hiện lực lượng trí thức mới trong xã hội- tầng lớp nho sĩ. Và họ trở
thành lực lượng chủ yếu sang tác văn học. Sự thay đổi lực lượng sang tác
dẫn đến sự thay đổi về diện mạo văn học
Tác phẩm văn học
2.2.1. Hệ thống văn tự và ngôn ngữ văn học
Từ đầu Công nguyên, người Hán đã truyền bá chữ Hán vào nước ta.
Sau thế kỷ X. chữ Hán được coi làm văn tự chính thống trong mọi hoạt động
của đất nước. Dòng văn học chữ Hán có nhiều thành tựu nổi bật.
Khoảng từ thế kỷ XIII, chữ Nôm ra đời để ghi âm tiếng nói dân tộc,
thể hiện sự sang tạo và ý chí tự cường của dân tộc. Cùng với chữ Hán, chữ
Nôm được dung để sáng tác văn chương.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Văn tự là phương tiện sáng tác. Ngôn
ngữ văn học thời kỳ này không tách rời khỏi ngôn ngữ văn học trung đại: da
nghĩa, đa chức năng và có tính cao nhã, hàm súc.
2.2.2. Thể loại văn học:
Văn vần (thể cổ phong và Đường luật), Văn xuôi: chiếu, biểu,
truyền kì, tiểu thuyết,…;
- Các thể loại chiếu, cáo, sách, dụ, hịch,… mà chủ thể phải là thiên tử
hoặc chủ tướng, dù người viết là ai
- Các thể loại tấu, nghị, khải, biểu,… chủ thể là thần tử trình bày với

thiên tử
- Các thể loại thư, luận, thuyết, biện bàn về tư tưởng, đạo lý, chân ngụy
- Các thể văn tế, ai điếu hướng tới người đã mất
- Các thể bi, minh,chí viết để ghi nhớ lâu dài, khắc trên kim thạch
- Các thể tự bạt
25


×