Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tài liệu chọn lọc và chính xác nhất về văn hóa tộc người, dân tộc bana

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.71 KB, 44 trang )

DÂN TỘC BANA
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
1. Ngôn ngữ, ngữ hệ
- Dân tộc Bana có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và
chưa có chữ viết riêng.
- Ngữ hệ Nam Á.
2. Lịch sử
- Người Bana là một trong những cư dân cổ xưa ở Trường Sơn,
trước kia họ sinh sống chủ yếu ở ven biển các tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định, sau di chuyển di chuyển lên Tây Nguyên sinh sống ở các địa
hình khác nhau.
- Cư trú chủ yếu ở vùng Trung Trung Bộ, ven dải Trường Sơn và Tây
Nguyên, các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Bình Định, Phú Yên…
- Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng
trong các lĩnh vực: văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung
nước ta.
II. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
a) Nông nghiệp
- Người Bana sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là canh tác lúa
trên ruộng khô và rẫy. Việc trồng trọt được tiến hành theo một nông
lịch khá chặt chẽ. Công việc đồng áng bắt đầu khi cây gạo (Blang) ra
hoa, đó là khi trời đổ những cơn mưa đầu mùa, khi chòm sao lưỡi
cầy xuất hiện. Người Bana bắt đầu quốc ruộng . Khi hoa gạo rụng
hết, hoa Drong bắt đầu nở thì họ trìa lúa. Tháng ba hay tháng tư
dương lịch khi ve kêu inh ỏi là lúc mở đầu mùa sản xuất. Trước ngày
trìa lúa, do bắt đầu cỏ non mọc, buộc phải xới đất lên rất kỹ. Để xua
đuổi chim muông phá phách, người Bana tạo nên dàn nhạc rừng
công phu, tài tình, bằng cách lợi dụng sức gio sức nước, tạo nên
những âm thanh khi dồn dập khi khoan thai, vừa vui tai vừa làm cho
thú hoảng sợ. Việc thu hoạch kéo dài 2-3 tháng do họ phải suốt lúa
bằng tay vì lúc đó công cụ không được cải tiến. Khi suốt họ lựa chọn


những bông tốt làm giống.
- Vườn ở vùng Bana nằm ngay trên rẫy hay trong các đám ruộng
khô, nơi đất mầu mỡ nhất. Một mảnh vườn có thể trồng trọt liên tục
trong khoảng 4-5 năm. Trong đó có loại cây dùng để dệt và nhuộm
như: bông, chàm; cây thuốc hút; cây làm thức ăn; các loại rau: bầu,
bí, đỗ, vừng, lạc; các loại cây ăn quả: chuối, mít, dứa, đu đủ; cây gia


vị: ớt, hành, tỏi, kiệu; các loại rau thơm. Ngoài ra còn trồng mía, ngô,
khoai, sắn, bo bo, kiều mạch, các loại kê, khoai sọ, khoai môn. Vườn
chuyên canh cũng xuất hiện.
- Hiện nay ở vùng Bana thu hẹp diện tích rẫy, mở rộng diện tích
ruộng, chuyễn rẫy thành ruộng khô và khai phá ruộng nước.
b) Thủ công
- Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Rèn là nghề độc nhất có thể xem
như một nghề thủ công, mặc dù chưa được tổ chức thành phường
hội. Công cụ rèn bao gồm ống bễ bằng tre hay bằng gỗ, đe bằng đá
hoặc bằng sắt, búa bằng sắt. Mỗi làng xưa kia thường chỉ có một lò
rèn. Nhân dân đổi công, hoặc đổi hàng hóa để lấy sản phẩm rèn như
lưỡi cầy, rìu, cuốc.
- Nghề gốm tương đối phổ biến mặc dù kỹ thuật còn thô sơ.
- Nghề dệt là công việc của đàn bà. Các gia đình đều trồng lấy bông.
Công cụ cán, bật bông, se sợi tựa như ở đồng bằng, tuy có một vài
chi tiết khác. Do chưa có khung cửi nên người Bana dệt rất chậm,
một vài tấm vải dài chừng 2 sải thì phải mất gần 1 tháng.
- Đan lát là công việc của đàn ông. Họ thường tập trung tại nhà Rông
để đan các loại dụng cụ từ mủng, sọt, bồ, bịch, cho đến các loại gùi.
Loại gùi Brăng hay Tnong để đựng quần áo, hay suốt lúa; Krô của
đàn ông mang sau lưng, Haká hay Prong để đựng lúa, họ còn đan lới
để bắt cá và làm vật trao đổi có giá trị. Đàn ông Bana có nghề đan

chiếu bằng lá Pmắt, Mơnal, giống như lá dừa nhưng dài tới 2m. Lá
trẽ thành 5-6 dây rồi đem phơi khô trong 5-6 ngày hoặc ngâm qua
nước làm mềm để đan những chiếu khổ 1.6m-1.20m
c) Săn bắn hái lượm
- Có rất nhiều loại rau ngon tùy theo từng mùa, nhiều loại măng,
nấm, mộc nhĩ. Người Bana thích ăn một số loại sâu, nhất là sâu cây
dẻ, cây chít, dế, châu chấu, cào cào, các loại ong non, kiến non, ếch,
nhái, nòng nọc, tôm, tép và một số loài nhuyễn thể sống dưới nước.
- Nếu hái lượm, trồng trọt là công việc của phụ nữ và trẻ em thì săn
bắn là trách nhiệm của đàn ông. Săn bắn không chỉ nhằm phục vụ
cho việc bảo vệ mùa màng, mà còn nhằm kiếm thức ăn. Gia súc tuy
nhiều nhưng chủ yếu chỉ dùng trong những dịp cúng bái, hội hè, cưới
xin, ma chay… Săn bắn còn là dịp để trai tráng rèn luyện tài năng và
lòng dũng cảm.
- Trong săn bắn, nhất là ở An Khê, việc dùng tên thuốc độc rất phổ
biến. Có 4 loại cây có nhựa dùng làm thuốc độc: Krăm và Đrăm là


độc dược, tẩm tên để bắn các loại thú như hoẵng, nai, chồn…; Teng
neng là đồ độc hại cao hơn dùng để tẩm tên bắn hổ, báo, gấu…; Đơ
Găng là đồ độc hại rất mạnh, nếu ngửi phải hơi cũng chết.
d) Trao đổi hàng hóa
- Hàng hóa được trao đổi giữa địa phương và cư dân xung quanh,
việc trao đổi theo lối cổ truyền.
- Vật ngang giá thông thường là trâu, bò, nồi đồng, chiêng, cồng. Các
loại tiền này đôi khi lại đổi lấy tiền đồng, tiền bạc để làm trang sức.
Giá trị các vật ngang giá thường thống nhất theo từng vùng và xê ít
nhiều theo các vùng khác nhau. Nồi đồng gồm nhiều loại: nồi ba, nồi
năm, nồi bẩy. Giá trị các nồi đồng cũng còn phụ thuộc vào niềm tin là
có thần linh. Chiêng (Chinh chông) có nhiều loại. Loại chiêng Lào

pha bạc rất tốt, có thể được đúc từ Miến Điện, có giá trị tới 30 con
trâu hay 1 con voi. Ở vùng Bana, có loại chiêng có núm, có loại
chiêng bằng. Có bộ chiêng gồm 5 chiếc có đủ cha và các con, bộ
chiêng 3 chiếc đủ cha và các con. Những bộ chiêng quý thường có
tên như là: bom, doanh hay doong duan.
- Ché có rất nhiều loại. Giá trị của chúng không phải là do khả năng
sử dụng mà do khan hiếm, do quan niệm đấy là nơi cư ngụ của thần
linh để phù hộ cho gia chủ. Giá trị của chiếc ché còn phụ thuộc vào
người mua và người bán. Ché quý của người Bana là loại Stoc, đặc
biệt là Stoc Vênh, được mua tới 30-40 con trâu và phải cất riêng,
làm nhà riêng cho ở vì nếu để cùng nhà gia chủ sẽ chết. Các loại ché
bình thường chỉ có giá bằng một con lợn.
- Vật ngang giá thông thường là lưỡi cuốc, cào cỏ (Yec) gọi là Minh
Đrăm. 10 minh đrăm là 1 Blớc, giá trị bằng 1 con gà mái (2 blớc = 1).
6 gó là một ché thông thường. 12 gó là một gò bây (nồi bẩy). 25 gó
bằng một gơ bung, giá trị ngang bằng 1 con trâu. Những đơn vị vật
ngang giá này được quy ra các tấm hiện vật. Tiền chỉ mới được sử
dụng ở các thị trấn, thị xã dưới thời Pháp thuộc. Sau ngày giải
phóng, tiền ngân hàng VN mới được sử dụng rộng rãi trong toàn
vùng.
III. Văn hóa vật chất
1. Nhà ở và công trình kiến trúc
 Nhà ở:
- Người Bana ở nhà sàn (hnam). Xưa kia, người Bana thường ở loại
nhà sàn dài hàng gian, có một hành lang thông giữa các gian, dành
cho gia đình lớn gồm nhiều cặp vợ chồng và con cái. Bên cạnh đó


người Bana cũng phổ biến với loại nhà sàn nhỏ dành cho các gia
đình hai hay ba thể hệ cùng chung sống. Nhà nhỏ Bana gồm 3 gian

hay 5 gian. Nhà có 4 mái lợp tranh (pơ đa), hai mái chính phía trước,
phía sau hình chữ nhật có hai mái đầu hồi hình tam giác. Trên nóc
mái, ở hai đầu hồi có trang trí hai thanh gỗ bắt chéo như là phần nối
dài cảu hai kèo hồi gọi là tơ nóp hay ktoanh. nào trước mặt cũng có
1 sàn lộ thiên hay có mái che, với 1 cầu thang lên xuống. Trong nhà
thường chia làm 3 phần:
+ Phần đầu hồi mé Đông: được quan niệm là phía của sự sống.
Chỗ ở của vợ chồng chủ nhà. Tại đó, bên bếp lửa, có đặt 1 hòn đá
được coi như 1 bảo vật, thần bản mệnh của gia đình.
+ Gian giữa là nơi tiếp khách. Ở đó có 1 bếp lớn và là chỗ ngủ của
những đàn bà đến tuổi trưởng thành trở lên. Xung quanh bếp là nơi
để gia cụ như: gùi, mẹt, khuy dệt…và các ché rượu.
+ Mé Tây là gian của các cặp vợ chồng, con cái nhỏ và những con
trai chưa đến tuổi tập trung ra nhà Rông.
- Kích thước nhà tương đối thống nhất, chiều dài mỗi gan bằng 1 sải
tay (pơ lai) cộng một cánh tay (hlooc) của chủ nhà, chiều rộng nhà
bằng 3 sải tay của chủ nhà. Vật liệu làm nhà là các loại thực vật có
sẵn xung quanh nơi cư trú, gồm gỗ dùng để làm cột, kèo, cầu thang,
dầm ngang và đôi khi cả mặt sàn, lồ ô dùng để làm đòn tay, đòn nóc,
xà, phên tường, sàn nhà, tranh dùng lợp mái, dây mây và dây rừng
để cột các bộ phận của ngôi nhà. Kết cấu khung nhà là kết cấu hai
cột không vì kèo. người ta dựng bộ khung cột với các loại cột chống
(d’răng), nối dầm sàn (d’mam), đặt quá giang (tơ pong pụ), xà dọc
(tơ pong vil) và xà ngang (tơ pong tol) bằng kỹ thuật buộc chạc và
khoát ngoãm chứ không đục mộng. Dụng cụ đẻ làm bộ khung cột là
rìu, rựa, cưa, đục, nào. Khung mái nhà được làm ở dưới đất bao
gồm rui (po ju) đòn tay hay hoành (ho pok) bằng lồ ô, cố kết với
nhau bằng dây mây (ri), mái tranh, sau đó, được khiêng và đặt lên



trên bộ khung cột. Người Bana làm vách bằng lồ ô, bên ngoài vách là
các dố dọc và nẹp ngang. Vách không được dựng thẳng với cột mà
hơi nghiêng theo kiểu thượng thách hạ thu. Sàn nhà được đan bằng
những cây lồ ô bổ đôi đập phẳng. Cửa chính bao giờ cũng có hai bậu
cửa nằm phía dưới và phía trên, mỗi bậu có hai đầu được đẽo tròn
hình mỏ chim gọi là ktol.
- Trong nhà sàn nhỏ ba gian có ba cửa: một cửa chính (măng tơm)
mở ở gian giữa, hai cửa phụ (măng mok ) hay (măng jac) ở hai đầu
hồi. Người Bana thường làm nhà mới vào mùa khô, khi công việc
nương rẫy đã hoàn tất. Trước khi dựng nhà ở khoảnh đất đã định,
người chủ nhà phải đến đó nằm ngủ một đêm. Quá trình làm nhà
được chuẩn bị cẩn thận, gỗ được chọn để làm nhà thường là gỗ chik
(loong chik) chắc, thẳng, không mối mọt, có chạc để có thể đặt kèo.
Trong khi đi tìm nguyên vật liệu nếu gặp con mang hoặc chim pơ
lang kêu gần thì phải quay về, hai ba ngày sau đó mới được đi tìm gỗ
lại. Khi dựng nhà, người ta dựng cây cột đầu hồi phía trái cửa chính
trước, vì đây là gian vợ chồng chủ nhà, gian gốc của ngôi nhà.
- Sau đó, người chủ gia đình làm lễ cúng xin các thần linh phù hộ cho
các thành viên trong nhà luôn luôn mạnh khỏe. Người đàn bà chủ
nhà là người dội nước vào hố chôn cột nhà. Tiếp đó các bộ phận
khác của ngôi nhà mới được dựng lên. Nhà làm xong, gia chủ làm
cơm, rượu cúng thần linh và mời họ hàng, dân làng đến mừng nhà
mới (et tok hnam nao). Lễ vật cúng thần là một con gà và ghè rượu.
Bếp lửa chính trong nhà được đốt lên. Người đàn bà chủ lễ lấy máu
gà đổ vào bếp lửa và cầu xin thần bếp lửa yang tơ nuk uynh phù hộ
cho gia đình luôn luôn mạnh khỏe, may mắn và làm ăn thuận lợi. Đầu
gà được gói vào túi vải cùng với lá loong klo đem treo ở cây cột gian


trái nhà. Sau lễ cúng thần, các cặp vợ chồng lấy lửa ở bếp chính về

nhen ở bếp lửa nhà mình. Lễ cúng nhà mới được làm tại bếp lửa nên
cũng được gọi là cúng thần bếp (pơm yang tok yang tơ nuk uynh).
Bà chủ đặt ba viên đá trong các bếp lửa. Nếu sau một thời gian ở
nhà mới mà làm ăn không thuận lợi, hay đau ốm, người Bana tin
rằng do đất nhà xấu, phải mời thầy cúng làm lễ cúng. Tủy theo điều
kiện kinh tế mà người ta cúng gà hay lợn.
 Công trình kiến trúc: Nhà Rông
- Nằm ở giữa làng hay đầu làng, là công trình lớn nhất trong làng –
một di sản đặc trưng của các dân tộc thiểu số Kon Tum, kích thước
biến động trong khoảng 10-15m chiều dài, 4-5m chiều rộng, 1-1,5m
chiều cao sàn. Nhà Rông của dân tộc Bana, Gia Rai, Xê Đăng có qui
mô to cao, từ Kon Tum ngược lên các địa phương phía Bắc thì nhà
Rông có xu hướng thấp dần.
+ Hai mái của nhà Rông cao gấp nhiều lần vách, có hình lưỡi rìu,
phần giữa hơi lồi ra. Trên nóc (pơ pung) có trang trí hình mặt trời
(măt tơ ngai) ở giữa, hình trăng khuyết hai bên mặt trời và hình rau
rớn (ktoanh) ở hai đầu hồi. Vách và sàn nhà được đan bằng lồ ô
dày, chắc chắn. Kết cấu bộ khung nhà Rông cũng tương tự như
khung nhà ở, nhưng cao hơn, với các vì cột (d’răng) được kết nối
với quá giang (tơ pong pụ), xà ngang (tơ pong tol), xà dọc (tơ
pong vil) dầm ngang và dầm dọc bằng tạo ngoãm và buộc dây. Nằm
chéo nhau theo mái phía trong nhà là hai cây rừng dài nhưng chắc
loong tơ rạ có nhiệm vụ giữ cho ngôi nhà luôn vững chãi.
+ Nhà Rông và nhà ở đều có cửa lên xuống ở gian giữa, hai đầu hồi
nằm theo hướng Đông Tây, cửa nhà hướng Nam, lưng nhà như là


trung tâm của mỗi làng. Hướng của làng là hướng cửa nhà Rông và
nhà ở, tốt nhất là hướng Nam, có thể hướng Bắc và Đông do nhu
cầu dựa vào núi, nhưng không bao giờ là hướng Tây. Theo tín

ngưỡng Bana, hướng Đông, hướng mặt trời mọc được coi là hướng
tốt, hướng của sự sống, hướng Tây, hương mặt trời lặn được coi là
hướng xấu, hướng của người chết. Cũng vì thế, nghĩa địa (plei kiak)
hay (plei atau) thường được đặt ở hướng Tây của làng. Tập quán
làm nhà hai hồi quay hướng Đông Tây còn nhằm hạn chế nắng nóng
ban ngày chiếu vào nhà trong những tháng mùa khô.
+ Nhà Rông thường có 3 gian hay 5 gian, với hai hàng cột, mỗi hàng
có 4 cột hay 6 cột, mỗi gian rộng 2,5-3 sải tay, lòng gian 3-3,5 sải tay.
Bộ khung mái là sự kết hợp của các đòn tay (hơ pok), rui (hơ kyh),
thanh giằng và dây mây. Vách nhà (tơ nar hay pơ nứt) được đan
bằng lồ ô dày, bên ngoài vách có các đố dọc và nẹp ngang. Ở một số
làng, vách nhà Rông không thẳng đứng mà hơi nghiêng theo kiểu
thượng thách hạ thu. Nhà Rông chỉ có một cửa ra vào (măng tơm)
ở chính giữa nhà, các cửa sổ (măng mok) thường mở phía trước
nhà. Giống như nhà ở, giữa cầu thang lên xuống với cửa chính nhà
Rông có một khoảng sàn (pra rông) lộ thiên, hai góc phía ngoài có
hai cây cột cao chừng 3 mét (gu pra), đỉnh cột được đẽo khắc hình
người, hình quả bầu, hình nồi đồng, hình rau rớn. Không gian trong
nhà Rông không bị ngăn cách, nhưng được chia làm 3 phần theo
chiều ngang nhà.
Quá trình làm nhà Rông:
- Được thực hiện trong vòng 7 ngày:
+ ngày đầu đục cột và đẽo cột
+ ngày 2 đào lỗ, chôn cột, dựng cột, đặt xà ngang và kèo


+ ngày ba và ngày tư làm nóc, mái, phên vách, ván sàn
+ ngày năm dựng các giàn giáo
+ ngày bảy làm sàn nhà, sàn lộ thiên và cầu thang lên xuống.
- Khi hoàn thành, người Bana tổ chức lễ đâm trâu cúng mừng nhà

Rông mới, kéo dài một ngày, một đêm. Trâu cúng nhà Rông phải là
trâu trắng. Cột đâm trâu (gowl sa kpo) đặt ngay dưới sân nhà Rông,
được đẽo gọt từ cây bông gòn. Trong buổi lễ, đàn ông trong làng
đánh trống, chiêng, phụ nữ múa soang. Tất cả di chuyển xung quanh
cột đâm trâu theo chiều ngược kim đồng hồ. Sau khi đâm trâu xong,
người ta cắt đầu trâu treo lên cột đâm trâu để làm lễ bói xin tốt lành.
Già làng vừa cầm dao dài chọc vào đầu trâu vừa khấn với thần linh.
Tiếp đó, người ta cắt dây treo đầu trâu. Khi mới xuống đất, nếu đầu
trâu quay về hướng đông là tốt.
• Nhà Rông Bana có các chức năng xã hội, tín ngưỡng và văn
hóa:
- là nơi ngủ đêm của thanh niên và đàn ông chưa vợ nhằm để phòng
trai gái loạn luận, tạo điều kiện cho thanh niên và đàn ông chưa vợ
rèn luyện và học hỏi kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất chuẩn
bị cho việc lập gia đình.
- là nơi họp già làng và dân làng để quyết định các trọng sự của làng
như lễ hội, di chuyển làng, chiến tranh….
- là nơi đón tiếp khách đến từ bên ngoài, cả khách chung của cộng
đồng hay khách riêng của từng gia đình.
• Nhà Rông được coi là thần bản mệnh của cả cộng đồng trú
ngụ:


- là nơi tiến hành các lễ cúng thường kỳ và không thường kỳ của
cộng đồng, bao gồm lễ mừng lúa mới, lễ bắc máng nước, lễ cầu
mưa, lễ mừng chiến thắng, lễ lập làng mới, lễ lên nhà Rông….
- là chốn linh thiêng và uy nghiêm, biểu tượng cho quyền uy và sức
mạnh của cộng đồng.
- là nơi cất giữ và trưng bày tất cả những linh khí vật chất cộng đồng
của làng, ngoài túi kđung, còn có chiêng thần, trống thần, chén rượu

cần, cột cúng thần, các sừng trâu sau lễ đâm trâu, các xương đầu
thú săn được…
• Nhà Rông là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa các lễ cúng cộng
đồng:
- nơi trình diễn các loại hình văn nghệ dân gian gồm: dân ca, dân
nhạc, dân vũ, đặc trưng nhất là điệu múa cồng chiêng, kèm theo lễ
đâm trâu.
- nơi diễn xướng các trường ca của cộng đồng.
 Biểu tưởng cho linh khí, sức mạnh và niềm tự hào của các cộng
đồng làng Bana.
2. Trang phục
Sắc màu trong trang phục của dân tộc Bana là đen, đỏ, trắng –
những màu sắc được người Bana sử dụng nhiều trong thổ cẩm. Các
hình mẫu là sự cách điệu của cảnh núi rừng. Hoa văn trên thổ cẩm
của người Bana có màu sặc sỡ, chạy dọc theo chiều tấm vải. Màu
đen được xem là màu chủ đạo, gây ấn tượng mạnh về phong cách,
phản ánh đường nét văn hóa truyền thống và đời sống sinh hoạt
hằng ngày. Màu trắng tượng trưng cho khát vọng, ước mơ. Màu đỏ
biểu hiện cho màu của lửa, của máu, tượng trưng cho sức sống, sự


vươn lên, niềm đam mê, tình yêu và khát vọng. Màu vàng biểu hiện
cho ánh sáng mặt trời, sự kết hợp hài hòa giữa con người và tự
nhiên, Màu xanh biểu hiện cho màu da trời, màu của cây lá.
Trang phục đàn ông:
- Gồm khố, áo, khăn và thắt lưng. Có hai loại khố: khố ngày thường
và khố ngày lễ.
+ Khố ngày thường rộng 20-25cm, dài 2,5-3m, nều màu chàm, có
ba dải hoa văn màu đỏ-trắng chạy dọc theo khố, hai dải hai bên rìa
rộng 3cm, một dải ở giữa rộng 4cm, chân khố có đường viền đỏ. Khố

ngày thương hẹp và ngắn nên chỉ che được một phần hai đùi phía
trước và phía mông sau, tiện lợi cho việc mang vác và di chuyển.
+ Khố ngày lễ lớn thì lớn hơn, dài 2-2,5m, rộng 35-40cm, không có
hoa văn chạy giữa, chỉ có hai hoa văn sọc đỏ-trắng rộng 8cm chạy
dọc hai bên rìa và hai dải hoa văn hình hoa chạy theo 2 chân khố,
mỗi chân đều có tua rua màu chàm và màu đỏ dài 25cm. Khố ngày lễ
dài và rộng hơn nên che được toàn bộ đùi trước và hai mông sau,
tạo cảm giác vừa khỏe mạnh, vừa kín đáo, được dùng trong các dịp
lễ hội gia đình và cộng đồng.
- Ngày thường, đàn ông Bana ở trần. Vào ngày lễ hội hoặc giá lạnh,
đàn ông Bana mặc áo cộc tay, chui đầu, cổ vuông hay cổ khoét, tạo
thành bởi hai tấm vải khâu ở vai và sườn, còn gọi là áo pông xô.
Toàn bộ áo màu chàm, chỉ có một đường hoa văn đỏ-trắng chạy theo
gấu áo. Vào dịp lễ hội, người đàn ông dùng vải khăn bịt đầu có hoa
văn hình học, rộng 10cm, dài 1m. Khăn được buộc qua trán, thắt nút
ở phía sau đầu để rủ hai dải xuống vai. Người ta gài bên trong vành


khăn những vật trang sức như lông chim, xương thú, bông hoa rừng
hình đuôi chó…
• Trang phục phụ nữ:
- Khăn quấn đầu của phụ nữ ít thấy ở phía Tây nhưng lại phổ biến ở
phía Đông. Trong những ngày lễ, phụ nữ quấn trên đầu chiếc khăn
đen có dải hoa văn mỏng hai bên mép (a ngưm). Khăn được quấn
tròn trên đầu và gài vào một bên gáy.
- Áo phụ nữ cũng là áo pông xô chui đầu, nền áo màu chàm, gồm hai
loại là áo ngày thường và áo ngày lễ. Áo ngày thường là áo cộc tay,
khâu từ hai mảnh vải ở vai và nách, cổ bằng, không khoét, có ba
đương hoa văn đỏ trắng nhỏ và đơn giản ở ngực, ở giữa ngang áo
và ở gấu áo. Áo ngày lễ khác áo ngày thường:

+ áo ngày lễ từ trên xuống dưới có nhiều hoa văn, trong đó, hoa
văn dưới cùng lơn nhất, rộng 20-25cm.
+ từ ngực áo xuống chân áo cũng là những dải hoa văn màu đỏtrắng liên tiếp, rộng 30-35cm, tạo cảm giác áo có nền màu đỏ-trắng
xen lẫn hoa văn màu chàm, thực tế nền của áo là nền màu chàm.
- Váy Bana thuộc loại váy mở, là một tấm vải nề màu chàm, cũng
gồm hai loại là váy ngày thường và váy ngày lễ. Váy ngày thường,
tùy người cao thấp mà rộng 0,6-0,7m, dài 1-1,2m, có cạp váy (pơ
por hơ pen), là dải hoa văn màu trắng-đỏ, rộng 5cm, rộng hơn váy
nỗi bên 20cm và một dải hoa văn màu trắng-đỏ rộng 5cm chạy theo
chân váy (chưng hơ pen). Khi mặc, váy chỉ trùm đầu gối hoặc đến
ngang bắp chân để tiện việc mang vác và đi lại. Váy ngày lễ có
điểm khác biệt so với váy ngày thường:
+ váy ngày lễ dài hơn, tùy theo dáng người mà biến động trong
khoảng 75-90cm để khi mặc gấu váy trùm kín chân.


+ váy ngày lễ có cạp váy dài hơn váy ngày thường, mỗi bên dài ra
1m để khi mặc, hai đầu cạp váy rủ xuống hai bên từ hông xuống gần
chân váy.
+ ngoài hai đường hoa văn trắng-đỏ ở cạp váy và chân váy, váy
ngày lễ có đương hoa văn lớn, với nhiều họa tiết đỏ xen trắng, rộng
35-40cm chạy ngang giữa thân váy, gọi là pok hơ pen hay tuynh hơ
pen.
• Trẻ em, người già và thầy cúng:
- Trẻ em Bana ngày nhỏ thường ở trần và địu sau lưng bằng tấm áo
choàng. Khi lớn hơn, chúng cũng được may những bộ trang phục
giống như trang phục người lớn nhưng hoa văn không cầu kỳ bằng.
- Trang phục của già làng và thầy cúng giống như trang phục của dân
thường, nhưng hoa văn nhiều hơn và nhiều màu đỏ hơn.
Trên tổng thể, hoa văn trên trang phục Bana có nền màu chàm,

hoa văn màu đỏ là chủ đạo, kết hợp với màu xanh và trắng, tạo cảm
giác vừa trang nhã, vừa sặc sỡ và gây chú ý cho người nhìn. Để có
các sợi chỉ màu, người ta dùng các loại lá cây và rễ cây trong rừng.
Để có được hoa văn các màu, người Bana cho các lại lá cây, vỏ vây
và rễ cây rừng vào trong ché có nước, nhâm vài ngày cho nát
nhuyễn hay thôi ra nước rồi lọc lấy nước đặc và nhúng sợi chỉ vào.
Để nhuộm màu chàm, người ta hái lá cây loong t’rum bỏ trong chén,
đổ nước, cho vỏ ốc đã nung cháy qua lửa vào, đập kín, ngâm vài
ngày, thấy lá đã nát mủn mới bóp nát và vớt xơ ra, sau đó nhúng sợi
vào, để một hai ngày rồi vớt ra phơi khô. Vỏ ốc cháy tan trong nước
thành một thứ vôi ngâm vào vải có tác dụng chống vắt rừng rất tốt.
Để có màu đỏ, người ta lấy củ hai loại cây loong mut po rai và
loong pu peh giã nát, nhâm vào ché vài ngày, sau đó chắt lấy nước,


nhúng sợi vào, vớt ra ngay rồi phơi khô hoặc lấy bàn chải làm từ lông
lợn nhúng vào và quết lên sợi treo trên một xà ngang. Để có màu
vàng, người ta lấy vỏ cây loong nhau giã nhỏ, bỏ trong ché, đổ
nước, để vài ngày rồi lọc lấy nước trong và nhúng sợi vào.
Khi trong nhà có người chết, thân nhân mặc áo, khố, váy mộc,
màu trắng, không hoa văn và để gấu như là dấu hiệu tang chế. Trong
thời kì để tang, thân nhân người chết kiêng mặc những áo, khố váy
mới và đẹp, mà chỉ mặc những áo, khố váy đã cũ như minh chứng
với xung quanh là mình đang chịu tang.
• Đầu tóc:
+ Phụ nữ: phụ nữ ưa để tóc ngang vai. Khi búi thì cài lược hay lông
nhím, hoặc trâm bằng đồng hoặc thiếc. Đàn bà không chít khăn, mà
thường chỉ quấn đầu bằng chiếc dây vải hay vòng hạt cườm.
+ Đàn ông: Xưa kia đàn ông búi tóc ở giữa đỉnh đầu hay để xõa.
Khăn thường chít theo kiểu đầu rìu. Trong các ngày lễ bỏ mả, đàn

ông búi tóc sau gáy rồi cắm một số lông chim cong. Ngày nay phần
lớn họ đều cắt tóc ngắn.
• Đồ trang sức:
- gồm vòng cổ (anam), vòng tay, vòng chân (cong), hoa tai (đinh
đon). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở 2-3 ngón tay.
Tục lệ đeo nhẫn bắt nguồn từ quan niệm: mỗi ngón tay đều mang
một sức mạnh. Ví như ngón cái tượng trưng cho cha, ngón giữa
tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực, ngón nhẫn tượng trưng cho
sức mạnh của tình yêu. Và, đeo nhiều nhẫn ở các ngón tay là thể
hiện sức mạnh tối cao. Tục căng tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang
sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng cộng đồng. Hoa tai có thể là kim


loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm triết lý cộng
đồng hơn là trang sức.
- Vòng cổ không chỉ dùng làm trang sức, làm đẹp mà còn mang ý
nghĩa về tinh thần. Nó được sử dụng trong đám cưới để bói xem
tương lai vợ chồng mới sẽ như thế nào. Trong nghi lễ đó, vòng cổ
(anam) được nắm chặt cùng với cơm, nếu bỏ ra mà vòng cổ và cơm
không dính với nhau nghĩa là đôi vợ chồng ấy không sống với nhau
hạnh phúc lâu dài; nếu vòng cổ và cơm dính chặt nhau có nghĩa là
tốt. Vòng tay và vòng chân được làm bằng đồng. Đàn ông đeo vòng
đơn ở cổ tay và cổ chân, phụ nữ đeo vòng đồng kép. Vòng tay kép
được quấn từ cổ tay lên khuỷu tay; vòng chân kép được quấn từ cổ
chân lên đến nửa bắp chân
- Đồ trang sức còn là những vòng lục lạc hay chũm chọe bằng kim
loại, dùng để đeo ở đối gối các nhạc công khi biểu diễn cồng chiêng.
- Do quan niệm hồn chính của người nằm giữa đỉnh đầu nên người
Bana giữ gìn tóc rất cẩn thận. Đàn ông, phụ nữ đều để tóc dài. Nếu
phụ nữ buộc tóc thành lọn phía sau gáy cho gọn thì đàn ông thương

búi tóc trên đỉnh đầu. Việc đàn ông cắt tóc ngắn chỉ mới xuất hiện từ
những thập niên đầu của thế kỷ XX.

3. Ẩm thực
Ăn:
- Nguồn thức ăn của người Bana rất phong phú, bao gồm các loại
lương thực, thực phẩm và các loại cây ăn quả do họ tự sản xuất ra
hoặc khai thác từ tự nhiên. Nguồn lương thực sản xuất trên rẫy bao
gồm: lúa nếp, lúa tẻ, ngô, khoai, săn. Nguồn lương thực khai thác


trong tự nhiên gồm các loại củ rừng: củ mài, củ từ, củ nâu, củ
chuối… Nguồn thực phẩm sản xuất tại nhà và trên rẫy: gia súc, gia
cầm, bầu, bí, ớt, cà, mướp, dứa, chuối… nhưng gia súc và gia cầm
chủ yếu dùng để trao đổi và trong tang lễ chứ ít khi trở thành nguồn
thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày.
- Nguồn thực phẩm khai thác từ tự nhiên gồm: thú rừng, chim, chuột,
cá và các loại thủy sản, các loại côn trùng, rau rừng, măng rừng, quả
rừng và nấm rừng. Lúa gạo được dùng để nấu cơm ăn hàng ngày,
ngô, khoai, sắn dùng để làm rượu hoặc nướng ăn chơi. Vào kỳ giáp
hạt nhiều gia đình phải dùng các loại ngô, khoai, sắn hay các loại củ
rừng làm thành phần chính của bữa ăn thay cho cơm. Các loại thực
phẩm được chế biến thành các món ăn như canh, nướng, luộc, tái.
Món cơm: Trước đây, gạo nếp nấu trong ống lồ ô giống cơm lam là
món ăn phổ biến ở người Bana. Ngày nay, do rừng bị chặt phá nhiều,
lồ ô ít đi, chỉ vào các dịp lễ hội, cúng, đám ma, đám cưới, người ta
mới nấu cơm nếp lam. Cơm nếp được nấu trong các ống lồ ô bánh
tẻ, nướng trên thang cuổi cho cháy hết lớp vỏ xanh bên ngoài. Khi
chín, cơm có mùi vị thơm ngon. Trong các bữa tiệc hiện tại, người
Bana chủ yếu ăn cơm tẻ, ít ăn cơm nếp. Lúa được giã hằng ngày.

Việc giã gạo do phụ nữ đảm nhận. Đây không chỉ là phân công lao
động, mà còn là tín ngưỡng, vì phụ nữ là mẹ lúa. Gạo được cho vào
nồi (gọ) cùng nước lã vừa đủ và nấu trên bếp lửa. Khi cơm cạn
nước, lửa được rút bớt để cơm chín bằng sức nóng của than. Cơm
là thành phần chất chính trong bữa ăn của người Bana. Khi giáp hạt,
đói kém, người ta nấu độn cả ngô, khoai, sắn vào cơm. Ở những
vùng xa rừng, người Bana nấu cơm nếp trong nồi. Cách thức cũng


tương tự như nấu cơm tẻ, chỉ khác là khi sôi nước một lúc, người ta
chắt bớt nước tỏng nồi cho cơm khỏi bị nhão.
Món cháo: Món cháo hay nấu trong lễ bỏ mả. Gạo nếp ngâm vài
giờ, vớt ra để ráo rồi giả nhỏ trong cối. Xương được nấu nhừ rồi bỏ
bột gạo và muối vào, đun nhỏ lửa đến khi cháo nhuyễn. Cũng có khi
người Bana nấu cháo hoa với muối và bí.
Món bánh: Người Bana có món bánh đót làm từ gạo nếp tương tự
như bánh chưng của người Việt. Gạo nếp ngâm khoảng 3-4 giờ, vớt
ra rá, gói bằng lá chuối (hla prit) hoặc lá kơ pang. Mỗi chiếc bánh
chừng nữa bát gạo, không có nhân. Bánh gói xong có hình khối tam
giác bốn mặt. Bánh được đun trong khoảng hai giờ thì chín. Khi ăn,
bánh được chấm với muối ớt. Bánh đót hay có trong lễ bỏ mả, do
người dân trong làng mang đóng góp cho gia đình chủ.
Món canh: Canh là món ăn hằng ngày. Nguyên liệu để làm canh rất
đa dạng, bao gồm các loại măng, rau, nấm, thịt cá, xương, cua, ốc…
Có hai cách nấu canh. Cách thứ nhất là rau, măng, nấm, cà, bầu, bí
nấu với thịt, cá. Cách thứ hai là rau, măng, nấm nấu với gạo giã nhỏ
và muối. Vào những dịp cúng lễ, người Bana chế biến món canh
tổng hợp: thịt, da, xương, lòng được chặt nhỏ nấu với bí, cà, ớt và
muối trong các nồi động to. Gặp tháng đói kém, người Bana nấu
canh lá sắn với muối và gạo giã, tạo thành món ăn nửa canh nửa

cháo.
Món luộc: Người Bana thích ăn một số món luộc. Khi mổ thịt gia
súc, gan, tim, tiết gà, lợn, trâu được luộc để cúng thần, sau đó dành
cho người già. Gà cũng được luộc nguyên con để cúng thần. Mùa
đói kém, ngô, khoai, sắn và các loại củ rừng được luộc ăn thay cơm.
Ít thấy người Bana luộc cá hay rau, bí, măng, nấm


Món nướng: Người Bana thích ăn các món nướng trên lửa. Người
ta nướng các loại ngô, khoai, sắn để ăn chơi ngoài những bữa ăn
chính. Thịt thú rừng nước, cá nướng là các món ăn khoái khẩu. Vào
các dịp cúng nhà Rông hay đám cưới, món lòng nướng (hơ tuk)
được ưa thích. Trong đám cưới, thịt nướng là món không thể thiếu
dành cho cha mẹ hai bên và người làm mối. Thịt trâu, bò, lợn, cũng
được thái miếng, xiên que tre tươi và nướn than.
Món rang: Ngoài thịt gia súc, thịt rừng và các loại thủy sinh, người
Bana còn ăn các loại con trùng và ấu trùng như châu chấu, cào cào,
ông non, kiến, mối, chuồn chuồn, ve… Cách chế biến là vặt bỏ cánh,
cho vào nồi luộc qua và ran khô với muối. Chẳng hạn, người ta đốt tổ
cho kiến chết, rang chín lên rồi giã với muối ớt.
Món thịt tái: Thịt tái là món dành cho đàn ông trong các dịp đám thứ.
Có hai cách làm thịt tái. Cách thứ nhất là trộn thịt thái mỏng với lá me
giã nhuyễn với muối ớt, gọi là món nhăm jâm. Cách thứ hai là băm
nhỏ thịt trộn với bột ngô, muối, ớt và các loại gia vị như hành, mùi
tàu, sả, gọi là món arih. Đôi khi người ta trộn ruột đắng của trâu, bò
đã được luộc chín vào món tái.
Món muối ớt: Muối ớt là món ăn dễ làm và rất phổ biến trong bữa ăn
hàng ngày của người Bana. Ớt trồng trên rẫy hay đổi của người Kinh
được trộn với muối rồi giã nhỏ trong cối hay trong bát. Đến bữa bỏ ra
ăn với cơm. Thực đơn thường thấy trong các bữa ăn trưa trên rẫy là

cơm và muối giã ớt.
 Làm khô (kro):
Thực phẩm làm khô bao gồm thịt khô, cá khô và măng khô.
Thịt trâu, thịt thú rừng được thái thành miếng to, nguyên da, để làm
giàn bếp. Thịt khô dần dưới sức nóng của lửa nấu ăn hàng ngày. Khi


ăn, thịt được lấy xuống, nhúng vào nước sôi cho mềm, thái ra nấu
canh với rau, măng, nấm. Cá được mổ bỏ ruột, xâu thành từng xâu
bằng xiên tre, phơi khô dưới nắng rồi đưa lên giàn bếp cho khô dần.
Khi ăn, cá được lấy xuống nấu ăn với rau, măng, nấm. Măng già cuối
vụ được thái nhỏ, luộc chín rồi đem phơi nắng. Khi măng khô, được
cho vào gùi, ủ lá chuối và bỏ lên trên gác bếp ăn dần. Khi ăn, măng
được ngâm nước hai ngày và được luộc kỹ trước khi được nấu với
thịt, cá và muối.
 Làm chua (po ju):
Thực phẩm chua gồm măng chua và rau cải chua. Măng được
thái mỏng và bỏ vào ché, đổ nước ngập măng, lấy lá rừng nút kín.
Cứ vài ngày, nước được thay một lần để măng không bị hỏng. Có
nơi, người ta làm măng chua bằng cách trộn với muối, bỏ vào ché và
ủ kín, không cho nước. Sau 3-4 tháng có thể lấy ra nấu với muối
hoặc thịt, cá. Rau cải được phơi cho héo vàng, trộn với muối, ủ kín
trong ché, sau khoảng hay tháng có thể lấy ra nấu.
 Làm muối (boh):
Món muối thường lấy là chua muối. Cua đông bắt về để trên
giàn bếp vài ngày cho chín bằng sức nóng của lửa, bỏ trong ống lồ ô
cùng với muối mặn và đậy kín. Sau một tuần, cua đã mềm là có thể
ăn được. Khi nấu, cua được bóp hay giã nát, lọc lấy nước, nấu canh
với mang chua hay rau cải chua. Thịt lợn, thịt trâu, cá kiến vàng khi
có nhiều cũng được muối để để dành. Thịt thái miếng, bở vào ồng lồ

ô cùng với muối mặn, để sát bếp lửa hoặc trên giàn bếp. Cá kiến
vàng cũng được muối tương tự như thịt. Các món muối chủ yếu
được dùng để nấu canh với các loại rau.


Dù chế biến theo nhiều cách khác nhau nhưng nói chung, người
Bana thích ăn nướng, ăn nấu hơn ăn luộc.
Có sự phân công theo giới trong việc nấu ăn. Trong bữa ăn
thường ngày, phụ nữ là người vào bếp. Trong các đám thử, đàn ông
là người làm thịt và nấu ăn.
Tùy từng mùa, người Bana có số bữa ăn trong ngày khác nhau.
Vào mùa nông nhàn, họ chỉ ăn 2 bữa sáng và tối, người già và trẻ
nhỏ có thể ăn thêm bữa trưa. Vào mùa làm rẫy, họ ăn 3 bữa sáng,
trưa và tôi. Bữa trưa được ăn ngay trên rẫy. Thông thường, người ta
chỉ nấu ăn 2 lần trong ngày vào buổi sáng và buổi chiều tối, bữa trưa
ăn để nguội. Ngày thường người ta nấu bằng nồi đất, chỉ khi có lễ hội
cộng đồng, người ta mới nấu nướng trong các nồi to. Cơ cấu bữa ăn
hàng ngày đơn giản bao gồm cơm, canh, rau nấu muối và muối ớt.
Vào các dịp cúng lễ như cúng nhà Rông, sửa giọt nước, cúng
nhà mới, cúng lúa hoặc những đám cưới, đám ma, cơ cấu bữa ăn
khác so với ngày thường, trong đó, món canh thịt, lòng, gan, tim,
phổi nấu với bầu, bí và rau là món ăn chủ yếu. Đồ ăn được nấu trong
nồi đồng và khi chín thì múa vào lá chuối hoặc lá kơ pang đặt trên
những tấm phên dài.
Người Bana có một số tục ăn kiêng. Trước hết là ăn kiêng cho
cả cộng đồng: người Bana kiêng nấu cá với đọt mây, kiêng ăn con
cóc, vì sợ thần sấm sét giận mà gây các tai họa như chết người,
cháy làng, dịch bệnh. Kế đến là tục kiêng ăn một loại động vật nào đó
cho cả dòng họ. Điều này liên quan đến tín ngưỡng tô tem. Chẳng
hạn, tùy từng dòng họ mà người ta kiêng ăn măng tre, quả xoài rừng,

một loại rau, nấm hay con dúi, con tê tê… Có những thức ăn chỉ có
người già mới được ăn, nhưng trẻ em, nhất là phụ nữ mang thai


không được ăn, ví dụ như quả rừng dính đôi, mục đích là sau này
tránh sinh con đôi, điều mà người dân Bana và nhiều dân tộc khác
kiêng sợ. Những thợ săn trước khi đi săn lại kiêng ăn một số thức ăn
nhất định.
Uống:
- Người Bana uống nước lã. Nước uống của người Bana lấy từ
nguồn nước của làng (đác klang, đắc sto râm hay đac giọt). Nguồn
nước ăn nằm ở đầu làng, hoặc là khe nước chảy trực tiếp từ trên cao
xuống, hoặc là nước suối dẫn theo máng từ trên núi về, hoặc là
những hồ đào nhỏ có nước thấm từ trong đất ra. Dụng cụ đựng nước
phổ biến là vỏ quả bầu khô.
- Vào các dịp cúng lễ như nhà Rông, cúng nhà mới, cúng máng
nước, cúng lúa hoặc các dịp đám ma, đám cưới, sinh con hoặc khi
có bạn bè, người thân ở xa thăm viếng, người Bana uống rượu cần.
Rượu cần (sik, sđrô) gồm : rượu gạo (sđrô ba), rượu kê (sđrô tơ rô
vu), rượu ngô (sđrô hơ po), rượu sắn (sđrô bum). Nhìn hàng ché
buộc miệng kín bằng lá xếp sát vách sau gian giữa nhà người Bana
có thể đoán được thực lực kinh tế của gia chủ. Nếu hàng ché dài và
có nhiều ché to thì chủ nhà là người giàu có và ngược lại. Trong các
loại rượu, rượu kê là rượu ngon nhất, hút ra cốc có màu vàng mật
ong, chỉ được dùng trong các lễ cúng gia đình. Người Bana kiêng
làm rượu kê vào các ngày nắng do rượu dễ bị chua. Để làm rượu
thơm ngon, ché rượu kê ủ xong thường để nơi nào mát mẻ trong
nhà, men rượu là loại men thực vật. Người Bana uống rượu bằng
cách đổ nước lã vào ché rồi dùng cần hút. Sau mỗi lần uống cạn
nước lại đổ ngập trong rượu. Người uống phải uống hết phần nước



và rượu đến khi hở mấu cang mới được thôi. Sau mỗi lần uống hết
cang nước lại được đổ ngập cang và uống tiếp đến khi rượu nhạt thì
thôi. Nếu uống rượu trong nhà thì gia chủ sẽ là người uống trước.
Nếu uống tại nhà Rông thì già làng và khách có quyền uống trước.
Việc làm rượu cần do người phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm,
nhưng việc tổ chức uống rượu cần lại do đàn ông chủ động.
Hút:
- Người Bana có tục hút thuốc lá (et hất), không chỉ đàn ông mà đàn
bà cũng hút thuốc. Thuốc lá được trồng ở trên rẫy.
- Tẩu hút thuốc chủ yếu do đàn ông sử dụng. Có hại loại tẩu: tẩu gỗ,
có trang trí hoa văn, hình thức cầu kỳ, chỉ người giàu mới sử dụng,
gọi là đing lem, đing lâng và tẩu le, làm từ ống le, không có hoa
văn, hình thức đơn giản, dành cho người bình thường gọi là đing tle.
Những người không có tẩu thướng lấy lá chuối, lá kơ pang hơ lửa
cho mềm rồi cuốn thuốc hút.
- Phụ nữ Bana không dùng tẩu hút thuốc, cũng không hút thuốc mà
ngậm thuốc. Lá thuốc tươi hoặc khô được thái nhỏ và giã nát nhét
vào kẽ răng cho thuốc ngấm dần, đến khi thuộc nhạt người ta bỏ đi
và ngậm thuốc khác.
4. Phương tiện vận chuyển, vũ khí
Khi đi làm rẫy hay vào rừng, đàn bà địu con sau lưng bằng tấm vải
choàng, đàn ông vai mang gùi, ná, tên. Phương tiện vận chuyển phổ
biến ở người Bana là gùi. Phụ nữ vận chuyển gùi tốt hơn đàn ông do
học phải lấy củi, nước hằng ngày. Hành trang ra khỏi nhà của người
đàn ông là cây ná, ống tên và gùi nhỏ hình mai rùa. Hành trang của
người phụ nữ là gùi to đan thưa hình mắt cáo. Người phụ nữ khi về



nhà thường mang sau lưng một gùi đầy củi hay đầy những quả bầu
đựng nước. Bằng cách gùi họ có thể mang trên lưng 50-60kg. Cách
mang gùi phổ biến là mang hai quai quàng vào vai. Người Bana
không dùng ngựa trâu để vận chuyển như một số dân tộc miền núi
phía Bắc, không dùng voi vận chuyển như người Êđê, Mnong ở nam
Tây Nguyên. Khi cần vận chuyển gỗ to từ rừng về làm áo quan hay
làm nhà Rông, người Bana huy động sức mạnh tập thể kéo hay
khiêng vác. Dùng gùi để vận chuyển là ứng xử có chọn lựa của
người Bana nhằm thích ứng với địa hình rừng rậm núi cao. Người
Bana bơi lội không giỏi. Đề đi lại, vận chuyển trên sông, người Bana
dùng thuyền độc mộc, loại thuyền này khá phổ biến ở các làng ven
sông Ba và sông Đắc Bla. Không thấy ở đâu người Bana đi lại trên
sông suối bằng các bè mảng ghép từ tre, lồ ô và các loài cây thân
rỗng khác. Một số làng Bana ở phía Đông biết làm những chiếc cầu
treo qua các suối nhỏ. Vật liệu làm cầu thường là tre, lồ ô và dây
rừng, về sau có thêm dây kim loại. Do vật liệu không bền, cầu nhanh
hỏng và phải làm lại sau vài năm.
Vũ khí của người Bana đơn giản, bao gồm ná (srạ), khiên
(khêl), giáo dài (htác) gươm (đao). Đôi khi người ta cũng dùng rìu,
dao làm vũ khí trong chiến đấu và săn bắn.
Ná là vũ khí quen thuộc của đàn ông, dùng để săn bắn thú
rừng và tự vệ. Tên ná làm từ cật cây lồ ô già, mũi nhọn, đàu có gài
ngạnh tam giác để dễ định hướng khi bắn. Đôi khi người Bana sử
dụng tên tẩm thuốc độc (sơ ra) trong các cuộc săn thú lớn và trong
chiến đấu.
Khiên được làm từ gỗ, hình tròn, đường kính 50-60cm, có
núm tay cầm ở giữa, sử dụng bằng tay trái, là vũ khí tự vệ trong


chiến đấu, nhằm tránh sát thương từ tên ná, mũi giáo và mũi gươm.

Trong lễ đâm trâu, người tráng binh được giáo nhiệm vụ đam trâu
thường một tay cầm giáo dài, một tay cầm khiên, vừa múa vừa di
chuyển vòng quanh con trâu theo tiết tấu của cồng chiêng, là sự tái
hiện lại lễ thức hoạt động săn bắn và chiến đấu của người Bana
trong lễ hội xưa.
Giáo dài cũng là vũ khí tầm xa dùng trong săn bắn và chiến
đấu, bao gồm cán dài làm bằng gỗ vừa cứng, vừa dẻo và mũi giáo
nhọn làm bằng sắt. Khi săn rình một mình, người Bana cầm giáo nấp
sẵn ở nơi thú hay qua lại, khi thú đi qua thì dùng giáo phóng vào thú.
Tương tự như vậy, giáo dài là cây lao lợi hại phóng vào địch thủ từ
khoảng cách vài mét trong cuộc chiến giữa các làng. Toàn bộ cây
giáo dài khoảng 1,8-2m.
Gươm là vũ khí sắt, chủ yếu dùng trong chiến đấu, hình dáng
giống như gươm của người Chăm, có được là nhờ trao đổi với bên
ngoài. Khi đi đường hay ở nhà, gươm được cho vào trong bao gươm
đeo ngang hông hay treo trên vách. Phần lớn vũ khí của người Bana
là vũ khí đa năng, không chỉ dùng trong săn bắn mà còn dùng trong
chiến đấu.
IV. Văn hóa tinh thần
1. Tôn giáo tín ngưỡng:
 Quan niệm về thế giới:
- Quan niệm về thế giới: Quan niệm “Vạn vật hữu linh”. Tất cả các sự
vật hiện tượng trong tự nhiên và chính bản thân con người đều có
linh hồn. Họ quan niệm mỗi con người có ba hồn (mngol hay bngol)
và chúng chi phối cuộc sống hiện hữu của bản thân người đó. Hồn


chính ở chỏm tóc (bngol xốc choai). Hồn phụ ở trước trán (bngol
kpal) và ở thân thể (bhadong).
- Người Ba na quan niệm rằng thế giới gồm 3 tầng

+ tầng trời: được quan niệm giống như cái bát tròn, úp lên mặt đất
bằng phẳng. Họ cho rằng đáy là nơi ở của các vị thần
+ tầng đất, tầng trung tâm, đây là nơi sinh sông của con người
+ tầng dưới mặt đất, đây được xem như là chỗ cứ ngụ của ma quỷ.
Giống như ở người Việt gọi là âm phủ.
- Trong quan niệm của người Bana thì trời có hai hướng đó là hướng
mặt trời mọc, hướng Đông là hướng tốt, hướng của sự sống còn
hướng Tây là hướng mặt trời lặn là hướng xấu, hướng của ma,
người chết.
 Tín ngưỡng đa thần:
- Xưa kia, người Bana tin rằng cuộc sống hàng ngày của họ bị chi
phối bởi các lực lượng siêu nhiên. Khái niệm “thần” ở đây đã tương
đối rõ rệt đó là những yang mà thường ngày người ta nói đến một
cách cung kính là ông Bốc (Bốc kơi đơi), bà Dạ (Dạ cung ké) được
xem như hai vị thần tối cao, sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài đã giận
vì loài người hoang dâm vô độ nên làm cho nước ngập chết hết. Ông
Trống (Bốc Xơgơr) và bà Trống (Dạ Xơgơr) được cứu thoát trong
chiếc trống rồi từ đó sinh ra các giống người.
- người Bana đã thờ các thần như: thần Nước (Yang Đác), thần núi
(Yang Kông) là những thần luôn được người ta cúng tế mong được
phù hộ. người Bana chỉ quan niệm có những vị thần chung chung
như thần Cóc, thần trú ở các cây nhất là cây đa, cây si, cây gỗ trắc,
thần trong ché nhất là các ché quý. Họ mường tượng ra một số vị


thần có hình dạng dị kỳ, có sức mạnh bí hiểm, dễ sợ, nên họ thường
cúng lễ để mong được che chở.
- Tôn giáo chính thống ở Kon Tum trong đó có dân tộc Bana hiện nay
có: Đạo Thiên Chúa, đạo Phật, Tin Lành và Cao Đài.
- Hệ thống lễ thức trong chu kì đời người bao gồm hàng loạt các lễ

cúng như cúng mang thai, cúng ba ngày sau sinh, cúng thổi tai và đặt
tên, cúng cưa răng, cúng chạm vòng hứa hôn, cúng đám cưới, cúng
cầu sức khỏe, cúng làm nhà mới, cúng đám tang…Ngoài ra còn có
các lễ thức khác như lễ cúng rửa tội, lễ cúng máng nước, và đặc biệt
là lễ cúng bỏ mả, đay là lễ hội sinh hoạt cộng đồng lớn nhất của
người Bana.
- Người Bana tin vào điềm báo qua những giấc mơ, họ coi đó là sự
báo trước tương lai của thần linh. Người Bana tin thờ tất cả các siêu
linh xung quanh mà tục thờ cúng cây đa, cây gạo là tiêu biểu.
- Những người có khả năng lí giải các giấc mơ, lí giải mối quan hệ
của con người và thần linh trong xã hội là Thầy cúng. Đàn ông và
phụ nữ đều có thể trở thành thầy cúng miễn là họ trải qua một sự cố
đặc biệt nào đó để tự mình công nhận và dân làng công nhận mình là
thầy cúng.Các công việc mà thầy cúng thường làm là khám bệnh cho
người ốm, cho họ biết họ bị ma nào nhập và phải sắm sửa lễ cúng
như thế nào.

2. Lễ hội:
- Lễ hội là sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và
văn hóa. Ở người Bana, lễ hội bao giờ cũng kèm theo lễ cúng lớn mà


×