Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

TƯ TƯỞNG VỀ VĂN CHƯƠNG VÀ QUỐC VĂN CỦA XUÂN DIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.17 KB, 8 trang )

Tư tưởng về văn chương và Quốc văn của Xuân Diệu thời trẻ
PGS.TS. Vũ Tuấn Anh
Viện Văn học

Đã có biết bao nhiêu định ngữ gắn liền với cái tên Xuân Diệu ngay khi nhà thi sĩ trẻ
xuất hiện trên thi đàn Thơ mới. Ông được coi là nhà thơ "mới nhất trong những nhà
thơ mới" (Hoài Thanh), "thi sĩ nồng nàn nhất" (Vũ Ngọc Phan), đặc biệt trong thơ
tình, dường như vượt lên tất cả các nhà thơ đương thời, những vần thơ tình say đắm
của ông đã mở ra cho Thơ mới cả một vườn trần đầy hương sắc.
Sự vồ vập với thơ Xuân Diệu và rất nhiều hào quang quanh thơ ông đã phần nào
lấn đi một phương diện khác rất đáng chú ý trong hoạt động văn chương của người thi
sĩ trẻ khi ấy: đó là những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn được
lên tiếng trực tiếp qua các bài phê bình, tiểu luận. Cho đến nay, một số bài viết ấy có
vẻ như đã bị lãng quên: chúng không có mặt trong các Tuyển tập và ngay cả Toàn tập
Xuân Diệu mới được xuất bản. Kỷ niệm 90 năm sinh của nhà thi sĩ rất giàu lòng yêu
dấu này, cũng là một dịp nhìn lại những tư tưởng của ông để có một chân dung đầy
đặn về ông, để càng hiểu thêm những động lực tư tưởng và cảm xúc làm nên cái mới
và sức trẻ trong thơ ông. Và rộng hơn nữa, nghe thêm cả rất nhiều khát khao của Thơ
mới, của văn chương đương thời được lên tiếng thông qua một đại diện xuất sắc của
nó-nhà thi sĩ trẻ tài năng Xuân Diệu khi ấy đang ở tuổi 20. Những bài tiểu luận phê
bình ấy cũng còn là một cách bộc bạch con người Xuân Diệu trong cuộc đối thoại với
chính mình, với văn chương và thời đại.
Trong khoảng thời gian từ 1936-1945, Xuân Diệu đã viết khá nhiều tác phẩm văn
xuôi ở các thể truyện ngắn, bút ký. Về tiểu luận phê bình, ông có các bài đáng chú ý
như Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu, Công của thi sĩ Tản Đà, Đôi lời tự thuật Thơ Thơ, Thơ
ngắn, Thơ của Người, Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương,
Đàn bà hay người yêu: Ái tình và khuôn sáo, Thơ ái tình...- những bài này chủ yếu
đăng báo Ngày nay trong khoảng 1937- 1939. Ngoài ra, ông còn có tập Thanh niên
với quốc văn (lấy tên Bài nói chuyện với sinh viên tại trường Đại học ngày 4 tháng 2
năm 1945) cùng một số bài khác như Hàng bia Văn Miếu, Công danh và sự nghiệp,
Cái học quẩn quanh... Những bài viết này ít nhiều có thể đưa ta đến một nhận xét: ông


là một nhà thơ viết nhiều nhất cũng như đề cập đến nhiều vấn đề văn chương và quốc
văn rộng rãi hơn cả trong các nhà Thơ mới thời kỳ này.
MỘT TÌNH YÊU THA THIẾT VỚI THI CA VÀ QUỐC VĂN
Như hầu hết những nhà Thơ mới "dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng
Việt", tiếng An Nam, lòng tha thiết xây dựng một nền thơ phong phú trong nền quốc
văn nước nhà là chủ đề tập trung trong các bài tiểu luận của Xuân Diệu - một nhà thơ
từng viết những câu thơ được coi là "Tây quá"(chữ dùng của Vũ Ngọc Phan), "có
những lối dùng chữ đặt câu quá Tây" (Hoài Thanh). Sự đoạn tuyệt dứt khoát với chữ
Hán, với văn chương Tàu được Xuân Diệu nói lên một cách thống thiết và không phải
không có phần bồng bột trong bài Tuy Lý Vương - một thi sĩ Tàu, bài viết "luận chiến"
với cuốn khảo cứu mới xuất bản về nhà thơ này. Sau khi dẫn hai câu ngự thi "Văn như
Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường" vốn như một niềm tự
hào của văn chương nước nhà, Xuân Diệu bày tỏ thái độ của mình: "Tuy Lý Vương là
nhà thi hào làm mất cả nhà Thịnh Đường? Có lẽ, có lẽ lắm. Nhưng dường như thời
Thịnh Đường ở bên Tàu thì phải. Vậy thì ông Tuy Lý Vương ấy có can hệ gì đến tôi,
người chỉ biết tiếng Việt Nam? Với tôi, với văn chương Việt Nam, Tuy Lý Vương chỉ
là "thi sĩ củ khoai" mà thôi!.. Ông giỏi giang đến thế, ông giàu có đến thế, mà ông
đành tâm vứt cái tài của ông vào trong những bài thơ chữ Hán, những bài thơ mà
người Việt Nam - và cả người Tàu nữa - chẳng biết dùng để làm gì". Và trong bài còn
không ít câu "gây sốc" nữa về văn chương chữ Hán. Chắc chỉ ít lâu sau, không cần
phải đến khi nhà thơ trở thành tác giả của "Các nhà thơ cổ điển Việt Nam", có lẽ
chính Xuân Diệu (khi viết bài này mới 21 tuổi) sẽ nhận ra sự bồng bột trong những
câu như thế. Nhưng "thiết tha và bồng bột", đó chính là cái tạng của Xuân Diệu và
chính sự bức xúc bảo vệ tiếng mẹ đẻ và xây dựng một nền quốc văn đã khiến ông cất
những lời nồng nàn và cũng cực đoan đến thế. Nhưng người ta sẽ hiểu hơn toàn bộ tư
tưởng ông trong lời kết luận cuối cùng: "Và, thưa các bậc kỳ tài làm văn, làm thơ tây,
nãy giờ tôi chưa nói mất lòng các ngài, nhưng chắc các ngài cũng khá thông minh để
hiểu rằng sở dĩ tôi cãi kịch liệt về Tuy Lý Vương, là cốt ý cho các ngài cũng tự ngắm
các ngài một chút".
Hàng bia Văn Miếu cũng đầy tinh thần cảnh tỉnh, luận chiến về cách lập thân

bằng công danh đỗ đạt trong những khoa thi chữ Hán thời xưa. Ông chế giễu tên tuổi
những Thái học sinh từng được khắc tên bia đá là những người chỉ "khéo thuộc lòng,
khéo ăn cắp sách, khéo nấu nướng những món văn sách, kinh nghĩa, nấu giả Đường
giả Tống cũng như người ta nấu giả cầy và dọn lên cho các quan trường thưởng thức"
và họ chỉ là những người "làm việc không công cho tiếng nước Tàu". Cái dụng ý xây
đài kỷ niệm cho các ông Nghè, như ông nói- "nay đã hỏng bét". Và cái kết luận của
bài viết nhằm tới một chủ đích rõ ràng: "Người Việt Nam đời này đã bỏ xó cái "công
danh Tàu" đời trước; và cái "công danh Tây" đời này, người Việt Nam đời sau sẽ để
vào góc nào?". Tựu trung lại, vẫn chỉ là sự đả phá của nhà thơ trẻ với mọi thứ công
danh văn nghiệp xây dựng từ cái vốn ngoại lai và mong muốn tha thiết vun đắp một
nền quốc văn nước nhà - nhất là khi cái nền quốc văn ấy còn đang trong cảnh "nhà
nghèo cơm thiếu". Cái tâm nguyện tha thiết ấy đủ sức thuyết phục và chia sẻ, và có lẽ
nhiều nhà khảo cứu văn chương đang cố công phục hồi những giá trị quá khứ cũng
không lấy làm phật ý bởi những phát biểu bồng bột của nhà thơ trẻ: họ đọc thấy ở đấy
rất nhiều sự đồng cảm về sự tha thiết với nền quốc văn Việt Nam cũng đang tỉnh thức
trong chính lòng họ và thúc đẩy những cố gắng âm thầm của họ. Xuân Diệu là như
thế. Với ông, tình yêu là vô biên, là tuyệt đích, "gần hơn nữa thế vẫn còn xa lắm", dù
đó là ái tình hay tình yêu dành cho tiếng Việt: Anh em không nghe tiếng mẹ gọi hay
sao? Anh em nỡ lòng nào mà hững hờ cho được!... Nhà nghèo mà anh em ta biết chịu
thương chịu khó, biết cố gắng, biết hy sinh thì chả mấy chốc mà cái nhà văn học Việt
Nam từ vách đất mái tranh sẽ hóa nên lâu đài cung điện (Sinh viên với quốc văn).
*
Những tư tưởng về quốc văn và văn chương của Xuân Diệu còn được tiếp tục và
mở rộng ở nhiều bài tiểu luận - mỗi bài gói một ý tưởng, là sự lên tiếng trước một vấn
đề đang đặt ra trước văn chương. Và cũng ở đây, người ta lại có thể tiếp tục nhận ra
những điều mới mẻ nảy sinh trong tư tưởng nhà thơ trẻ - nhà thơ đang bơi giữa dòng
Thơ mới, giữa dòng văn chương thời đại biết cảm nhận âm thanh từng con sóng để
rồi, với tất cả sự mẫn cảm, nhận ra những gì là nhu cầu và khát vọng phát triển văn
chương đương thời để lên tiếng cho nó. Yêu dân tộc, yêu quốc văn đến thế, nhưng
ông là người phản bác mạnh mẽ cái gọi là tính cách An Nam trong văn chương. Ông

nói rằng ông phải nói những điều ông "thành thực tin, dù có bị công kích cũng đành".
Cái thuyết văn chương An Nam phải có tính cách An Nam rất chí lý, nhưng "chỉ một
chút cố chấp, một chút hủ lậu cũng đủ biến cái thuyết đẹp đẽ kia thành ra một thuyết
chật hẹp, nông nổi". Tinh thần cơ bản mà Xuân Diệu muốn kêu gọi chính là tinh thần
hiện đại hóa văn và tiếng Việt Nam, sẵn sàng mở cửa cho mọi học hỏi và cách tân:
"Chúng ta phải giữ gìn cho tính cách An Nam. Điều ấy rất phải. Nhưng giữ gìn bờ cõi
có phải là đóng hết cửa biển, tuyệt hết giao thông, bế tắc cả nước lại đâu! Giữ gìn
không phải là quẩn quanh trong một vũng ao tù, không phải là đành tâm mến yêu một
cảnh nghèo đói". Không chỉ biện luận cho cú pháp, cách dùng chữ mới mẻ, rất Tây
của ông, một lần nữa, tiếng nói tha thiết của ông với quốc văn lại cất lên trong lời kết
luận: "Tôi còn nói nhiều về vấn đề này. Một vấn đề mềm mỏng và hệ trọng bao nhiêu!
Cốt nhất không phải là thắng trong cuộc tranh luận; cốt nhất không phải là lòng tự ái;
chỉ một điều ta nên nghĩ, dầu ta phải hay trái, là tiếng Việt mà ta yêu". Không thể
không nhận ra động cơ tốt đẹp và cả sự sáng suốt nữa vào thời điểm ấy, khi nhà thơ
trẻ nói một cách say sưa và thuyết phục về cái mà sau này người ta sẽ gọi là tính dân
tộc-hiện đại trong văn chương. Cũng trên tinh thần ấy, ông kêu gọi Mở rộng văn
chương như tên một bài tiểu luận. Viết văn, phải theo mẹo luật, cú pháp, tinh thần
Việt Nam. Nhưng hãy mở rộng văn chương ra, "ta có thể phô diễn tỷ mỷ tất cả cái
buồn xa vắng lạ lùng của tâm hồn mới, trước cảnh một buổi chiều quê", "văn chương
không thể chỉ là mô tả, văn chương còn là sự dò đoán, sự đoán hiểu, và nhất là sự
sáng tạo". Và ông kêu gọi: "Miễn là ta viết văn An Nam theo tinh thần tiếng An Nam,
chứ còn vặn mãi trí não để theo một cách chật hẹp, một cách nông nổi cái đặc An
Nam, tôi e rất cản trở cho sự tiến bộ của văn chương Nam Việt" (Ngày nay, 4-2-1939).
Ta có cảm giác rằng Thơ mới và văn chương đương thời đang lên tiếng về yêu cầu
phát triển của nó thông qua nhà thơ trẻ vừa mẫn cảm vừa dũng cảm này.
Nhiều bài viết khác phát biểu một cách rõ ràng những quan điểm của Xuân Diệu
lúc này về thơ. Ông chủ trương một thứ thơ ngắn - có thể hiểu là ông nói về sự hàm
súc, sự tinh túy của thơ: "Nhà thi sĩ không bán những thùng nước loãng chỉ cốt để tưới
đường cho vạn chân đi; người chỉ tặng một hai giọt thơm đựng trong những bình thủy
tinh sáng loáng... "như một thứ hương, "như một giọt sương tình mà gió đêm gieo trên

trời làm bằng sự kết đọng của muôn thước khối bóng trăng". Thơ của Người nói về
một khao khát của Xuân Diệu và Thơ mới: thơ hãy vì con người, khám phá sự sống và
tâm hồn con người. "Thơ là hoa, là mộng; thơ cũng là cơm. Ta hãy viết những điệu
thơ cho đời uống, cho đời ăn". Thơ Tàu, thơ Việt cho đến đương thời, vẫn thấy ít có
người quá! "Cũng như mọi điều khác, thơ Việt Nam còn thiếu quá nhiều: tâm hồn
người chưa được chúng ta quan sát diễn tả cho kỹ lưỡng. Ta không phân tích từng
cảm giác một; chỉ ghép những vật liệu cũ càng, những cảm tình giả dối mà làm thơ".
Trong những lời này, người ta thấy khát vọng đổi mới thơ trước những lối đi đã bắt
đầu mòn sáo của chính Thơ mới. Không được nhác lười trong công việc làm thơ,
Xuân Diệu nói vậy. "Làm thơ người, làm thơ thực thì khó, cho nên chúng ta tránh sự
thực của tâm hồn để tạo nên những lâu đài vu vơ bằng mù sương". Một nhà thơ luôn
viết những bài thơ "sáng trưng", mỗi lời là một bộc bạch như Xuân Diệu cũng lại từng
bàn đến Thơ khó. Ông bênh vực thứ thơ khó của Mallarmé, Valery, Baudelaire mà
nhiều người cho rằng "bí hiểm" bởi vì "Cái tính cách cốt yếu của thơ là sự khó. Đó là
quan niệm mới nhất, mà cũng đúng nhất. Vì sao? Vì thơ thực là thơ thì phải "thuần
túy". Người thi sĩ gắng sức đi tìm cái thơ thuần túy (la poesie pure) nghĩa là đi thu góp
những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cốt lõi của sự vật... Thơ khó là vì nói những
điều khó, phải suy nghĩ, phải nghiền ngẫm: khó vì cách nói khác với cách nói
thường". Những lập luận có lý của ông ít nhiều giúp người ta có thể tiếp nhận Nguyệt
cầm của ông hay Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử - những bài thơ luôn là sự thách
thức thú vị đầy tính thẩm mỹ trong việc khám phá nó.
Có thể nói, khá nhiều vấn đề về thơ, cả lý luận thơ cũng như trong việc phân tích
thơ ca đương thời đã được nhà thơ trẻ Xuân Diệu đề cập đến, trong một lối nói đặc
biệt của văn tiểu luận Xuân Diệu: mỗi con chữ là sự bộc bạch thẳng thắn trong một
giọng văn tha thiết nồng nàn mà chứa đựng rất nhiều ý tứ mới mẻ sâu sắc.
“ÔNG HOÀNG CỦA THƠ TÌNH” NÓI VỀ THƠ ÁI TÌNH
1. Xuân Diệu với luận đề: Tôn giáo thờ ái tình không phải tôn giáo thờ phụ
nữ
Khi ấy, chàng thi sĩ Xuân Diệu 22 tuổi, đang ở cái tuổi hai mươi đẹp nhất như
cách nói của Hoài Thanh. Người thi sĩ ấy đã thổi vào Thơ mới đương thời cả một

luồng gió trẻ, xôn xao những nỗi niềm tình ái. Có thể nói từ khi Xuân Diệu bước chân
vào làng thơ, Thơ mới mới lên một lần nữa cùng Xuân Diệu.
Bài cảo luận Đàn bà hay là người yêu - ái tình và khuôn sáo đăng trên Ngày nay
số ra ngày 11-9-1938 là một trong những phát ngôn trực tiếp ít ỏi về ái tình của nhà
thi sĩ được mệnh danh là "ông Hoàng của thơ tình" này. Bài cảo luận ra đời từ 60 năm
về trước này có vẻ đã khuất vào quên lãng. Trong các Tuyển tác phẩm Xuân Diệu,
cũng như trong các bài viết, công trình nghiên cứu về Xuân Diệu không thấy ai nói
đến nó. Đây là một bài viết, theo chúng tôi, rất có ý nghĩa để thâm nhập vào thế giới
nghệ thuật của Xuân Diệu. Trong cảo luận có vẻ như một "tuyên ngôn" này, ta nhận ra
tinh thần của Thơ mới đang háo hức mở rộng ranh giới cho những xúc cảm thơ ca. Và
cũng nổi bật cái riêng, cái độc đáo, cái mới của tư duy Xuân Diệu. Luận đề đặt ra
mạnh mẽ, ấn tượng: "Đàn bà hay người yêu? ái tình và khuôn sáo". Lần theo mạch
văn sôi nổi say sưa, cảm nhận được cả cái hơi thở nồng nàn của chàng thi sĩ trẻ, ta gặp
con người Xuân Diệu ở tuổi hai mươi, bộc bạch và say đắm. Chàng thi sĩ ấy quyết
chống lại khuôn sáo và hô hào tránh bàn chân khỏi những lối mòn: "Hỡi chàng trai trẻ
đi trên đường kia, đẹp như một cây thông và mạnh như một chiếc tàu, ngừng lại đây
và cho tôi dặn: Anh đừng chịu một khuôn sáo nào hết. Anh nên xét cho kỹ để chỉ nghe
sự thành thực quả nhiên là thành thực của lòng anh. Anh kiếm ái tình, tôi biết. Hãy coi
chừng không khí của anh thở! Người ta đã nhả vào trong không khí ấy không biết bao
nhiêu là nhầm lẫn, a dua. Hãy đi một con đường mà anh thích đi chứ đi không phải vì
một triệu bàn chân đã dậm nhẵn".
Tình yêu, như Xuân Diệu nói, "đã bị sự mờ tối loài người làm thành ra một tập
quán" và "nhất là đã bị bọn văn sĩ, thi sĩ phái lãng mạn ca tụng một cách dễ dãi, ráng
gân cổ lên, say mê nói những lời nói chật hẹp mà họ tưởng là chân lý của đất trời". Từ
xưa đến nay, thi ca muôn đời ca tụng vẻ đẹp của Người đàn bà, của Nhan sắc, của Bí
ẩn nữ tính. Có một thứ tôn giáo của yêu đương mà trung tâm thờ phụng là Người đàn
bà, nhưng thi sĩ của chúng ta, người sùng kính cái tôn giáo ấy, đòi đổi thay thần
tượng: "Tôi rất tin rằng có một tôn giáo của niềm yêu đương nhưng tôi muốn nói cho
thế giới biết rằng Tôn giáo thờ ái tình không phải tôn giáo thờ phụ nữ". Những lập
luận được tung ra: Đàn bà đồng nghĩa với cái đẹp ư? - Không phải. Trong muôn loài

giống đực luôn được trời phú cho cái mã đẹp nhất, trừ có loài người . Đàn bà đồng
nghĩa với sức mạnh chinh phục ư? - Chẳng phải thế. Người đàn ông được yêu sẽ là
vua chúa; ai được yêu, người ấy sẽ có quyền lực. Đàn bà huyền bí ư? - Cũng chẳng
phải: ta yêu ai, người ấy thành huyền bí, sự huyền bí ở chính trong đầu ta đấy thôi; khi
tình yêu hết, sự huyền bí ấy chẳng còn... Vậy thì, như nhà thơ nói, đừng theo một
khuôn sáo nào, đừng bắt chước: "Chỉ có lòng ta, chỉ có lòng ta thôi! Lắng nghe sự
chân thực của chính lòng anh; muôn lời nói của loài người đều là thừa, nếu lòng anh
không cảm thấy. Hãy đạp đổ cái pho tượng Người đàn bà để dựng lên một cái đài bền

×