Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ( trên cơ sở số liệu thành phố Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.25 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

TRẦN THỊ MINH NGUYỆT

QUYỀN BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS CHU THỊ TRANG VÂN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Trần Thị Minh Nguyệt


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.......................................................................1
(Trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)........................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................1
Trần Thị Minh Nguyệt.......................................................................................1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH.TW

Ban chấp hành Trung ương

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

ECHR

Hiệp định Châu Âu về bảo vệ Quyền con người và sự tự

do cơ bản

ICCPR

Công ước quốc tế về Quyền chính trị và Dân sự

LLS

Luật luật sư

LTGPL

Luật trợ giúp pháp lý

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TTHS

Tố tụng hình sự


TTTGPL

Trung tâm trợ giúp pháp lý

UNDP

Chương trình phát triển Liên hợp quốc

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với quá trình tố tụng giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào thì hoạt động
xét xử đóng vai trò trọng tâm vì ở đây thể hiện đầy đủ bản chất tư pháp Nhà nước,
hoạt động xét xử dựa trên kết quả điều tra, truy tố và xét xử. Đây là giai đoạn quyết
định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, góp phần bảo vệ lợi ích
chính đáng của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Để
những điều này đạt được thì sự đòi hỏi về tính dân chủ tại phiên tòa là điều cần
thiết, cũng như các quy định của pháp luật TTHS phải phù hợp thực tiễn.
Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước
thực hành quyền công tố đóng vai trò là bên buộc tội trong khi đó Người bị tạm giữ,
Bị can, Bị cáo có Quyền bào chữa cho việc buộc tội của Viện kiểm sát. Việc thực
hiện Quyền bào chữa sẽ được thực hiện dưới hai hình thức là bản thân Người bị tạm

giữ, Bị can, Bị cáo sẽ thực hiện việc tự bào chữa hoặc thông qua Người bào chữa
đóng vai trò là bên gỡ tội. Trong hoạt động xét xử, Tòa án đóng vai trò chính là đưa
ra quyết định dựa trên chứng cứ của vụ án cũng như kết quả từ việc xét hỏi và tranh
luận tại tòa. Do bản án, quyết định của Tòa án có tác động đến một số quyền chính
yếu của bản thân Bị cáo nên việc thực hiện hoạt động bào chữa tại phiên tòa xét xử
là vô cùng quan trọng.
Ở Việt Nam, mục đích của TTHS được xác định tại Điều 1 của Bộ luật
TTHS là "Nhằm phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội". Để bảo vệ
Quyền con người, những người bị buộc tội phải được quyền chứng minh là mình vô
tội hay trách nhiệm hình sự nhẹ hơn bằng các chứng cứ và các tình tiết giảm nhẹ cụ
thể trong pháp luật hình sự. Trong TTHS, sự buộc tội của các Cơ quan tiến hành tố
tụng đối với người bị buộc tội có thể tước đi hay hạn chế một số quyền tự do thân
thể hay các quyền khác của họ. Do vậy, bản chất của mô hình "Tòa án – Công tố Bào chữa" là nhằm đảm bảo công lý, quyền lực Nhà nước trong phạm vi công tố sẽ

1


trở nên lạm quyền nếu như không có người đối trọng, Tòa án từ việc đối trọng này
sẽ đưa ra quyết định đúng đắn nhất dựa trên việc quyết định hình phạt cho Bị cáo.
Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay thì Người bào chữa có thể là Luật sư,
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo hoặc Bào chữa viên
nhân dân (Điều 56 BLTTHS năm 2003). Trong số đó, hoạt động của Người bào
chữa là Luật sư mang tính chuyên nghiệp hơn cả, tuy không phải là hoạt động tư
pháp, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động
tư pháp (bổ trợ tư pháp).
Ở nước ta, hoạt động của Luật sư đã được thể chế hóa bằng pháp luật từ rất
sớm. Trong tất cả các Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp 1959, Hiến
pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung đều có các quy định
về sự tham gia của Luật sư trong các phiên tòa xét xử để bào chữa cho Bị cáo. Cùng

với các quy định về sự tham gia của Luật sư nêu trong các bản Hiến pháp, Việt Nam
còn ban hành các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của Luật sư làm cơ sở
pháp lý cho sự tham gia của Luật sư trong TTHS thực hiện nhiệm vụ bào chữa của
mình. Sự ra đời của Pháp lệnh Luật sư năm 1987, 2001, Luật Luật sư 2006 và sửa
đổi bổ sung năm 2012 đã khẳng định sự hình thành và phát triển của chế định Luật
sư bào chữa trong pháp luật của nước ta. Từ góc độ quy định của pháp luật, Điều 19
BLTTHS 2003 của Việt Nam cũng đưa ra nguyên tắc: “Đảm bảo quyền bình đẳng
trước Tòa án”, theo đó người Luật sư với vai trò là Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa
ra yêu cầu và tranh luật dân chủ trước Tòa án và Tòa án có trách nhiệm tạo điều
kiện cho họ thực hiện các quyền trên nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tuy đã trở thành một nguyên tắc rõ ràng nhưng trong thực tiễn việc áp dụng các quy
định của pháp luật TTHS vào hoạt động bào chữa của Luật sư còn gặp nhiều hạn
chế, nhất là quá trình điều tra cũng như tham gia bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm. Sự hạn chế này có ảnh hưởng rất lớn đến việc xem xét vụ án và đưa ra bản án,
quyết định vì kết quả tranh luận tại phiên tòa là một trong những căn cứ chính để
Hội đồng xét xử quyết định tội danh và mức hình phạt.

2


Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp, hướng đến mục tiêu
củng cố và hoàn thiện bộ máy các Cơ quan tư pháp, hoàn thiện pháp luật về nội
dung và pháp luật về hình thức - cơ sở pháp lý của hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu
quả của quá trình giải quyết các tranh chấp, kinh tế, dân sự, lao động, hành chính và
các vụ án hình sự, bảo vệ có hiệu quả Quyền con người. Hiệu quả của hoạt động tư
pháp quyết định bởi nhiều yếu tố trong đó có vai trò của Luật sư. Nhận rõ điều này,
ngày 02/01/2002 Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số
08/NQTƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp. Nghị quyết chỉ rõ
cần phải nâng cao hiệu quả của các phiên toà xét xử: "Khi xét xử, các Toà án phải

đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát
viên, Người bào chữa... để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết
phục và trong thời hạn pháp luật quy định". Bên cạnh đó, Nghị quyết
49/2005/NQTƯ cũng đã đề ra Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục
tiêu kiện toàn hệ thống tư pháp nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản
Việt Nam khởi xướng. Cho đến nay, sau hàng loạt văn bản pháp luật bị bãi bỏ hoặc
thay thế, bổ sung, sửa đổi thì Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ
luật TTHS 2003, nên việc nghiên cứu về Quyền bào chữa nói chung và Quyền bào
chữa của Luật sư thực hiện Quyền bào chữa cho Bị can,Bị cáo trong phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự nói riêng, là một việc làm cần thiết để đảm bảo Quyền con
người, Quyền bào chữa, đảm bảo tính khách quan và chính xác của vụ án. Từ đó,
góp phần hoàn thiện đưa Bộ luật TTHS đi vào đời sống xã hội một cách hợp lý.
Chính vì những lẽ đó, tác giả chọn đề tài “Quyền bào chữa trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Trên cơ sở số liệu TPHCM” làm nội dung nghiên cứu
của Luận văn cao học luật học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu mới
Trong những năm qua, đặc biệt là Nghị quyết 49-NQ/TW năm 2005 về

3


Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
đã đặt nền móng cho quá trình nghiên cứu của các học giả nhằm đẩy mạnh tiến độ
cải cách này. Xung quanh vấn đề xét xử trong TTHS đã có nhiều bài viết cũng như
công trình nghiên cứu có thể kể ra như: Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (2010), Hiệu
quả của hoạt động xét xử trong TTHS - Luận án tiến sĩ Luật học; TS Võ Thị Kim
Oanh (2008), Xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam – Luận án tiến sĩ Luật học; TS
Nguyễn Văn Tuân (2001), Vai trò của Luật sư trong TTHS, Nhà xuất bản Đại học

quốc gia xuất bản năm… Trên cơ sở chức năng và vai trò của Luật sư trong vụ án
hình sự, có một số tác phẩm và bài viết của PGS.TS.LS Phạm Hồng Hải (1999),
Bảo đảm Quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân; TS.LS
Phan Trung Hoài (2006), Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam của, NXB Tư
pháp; Nguyễn Đức Mai (2008), Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS hiện hành
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, Tạp chí Luật học, số
7/2008. Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, đã có một số bài viết cũng như các
công trình nghiên cứu nhằm bổ sung, sửa đổi một số điều của Bộ luật TTHS như:
Kiến nghị sửa đổi bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 và các luận cứ, Hà Nội, ngày
29/10/2012 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Các công trình trên đã góp phần không nhỏ vào việc đưa ra các luận điểm lý
luận, khoa học, luận giải cho những giải pháp thực tiễn góp phần vào công cuộc cải
cách tư pháp hiện nay. Tuy nhiên do nhiệm vụ cải cách tư pháp rất rộng, tác động và
dựa trên nhiều yếu tố vĩ mô, các công trình nghiên cứu pháp luật về Quyền bào
chữa trong đó có vai trò của Người bào chữa là Luật sư một cách độc lập trong
phiên tòa sơ thẩm của vụ án hình sự chưa có, chưa làm rõ những yếu tố ảnh hưởng
đến vai trò của Luật sư một cách rõ ràng trong phiên tòa sơ thẩm của vụ án hình sự.
Chính vì vậy, tác giả đặt ra hướng nghiên cứu mới đó là nghiên cứu Quyền bào
chữa trong đó có vai trò của Người bào chữa là Luật sư trong phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự, bên cạnh đó tác giả nghiên cứu giai đoạn trước đó là giai điều tra để làm
rõ cho nhiệm vụ nghiên cứu của tác giả trong phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bởi
lẽ hai giai đoạn này có tính tương hỗ cho nhau.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích tính hợp lý của các quy phạm
pháp luật TTHS khi so sánh với yêu cầu thực tiễn về vai trò của Quyền bào chữa
trong phiên tòa sơ thẩm của vụ án hình sự. Qua đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật TTHS ở Việt Nam trên yêu cầu củng cố và phát huy hiệu quả vai trò
của Người bào chữa là Luật sư trong vụ án hình sự, đặc biệt là ở phiên tòa sơ thẩm.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn xác định nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
- Quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của Người bào
chữa trong đó tiếp cận vai trò của Luật sư trong TTHS nói chung và trong phiên toà
sơ thẩm nói riêng;
- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật TTHS trong việc thực hiện
Quyền bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao khả năng bảo vệ Quyền
bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về việc thực hiện Quyền bào chữa của Bị cáo thông qua
vai trò Luật sư trong phiên tòa sơ thẩm của vụ án hình sự từ cả khía cạnh pháp luật
thực định cũng như thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó để tìm kiếm các
biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong phiên toà sơ
thẩm nói riêng cũng như trong các giai đoạn TTHS nói chung.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn địa bàn TP.Hồ Chí Minh làm thực trạng nghiên cứu. Đề tài giới
hạn và tập trung việc nghiên cứu vai trò của Luật sư chỉ tại phiên tòa sơ thẩm của
vụ án hình sự. Tuy nhiên, để làm rõ vai trò của Luật sư trong xét xử sơ thẩm đề tài
có nghiên cứu cả giai đoạn điều tra.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận:
Đề tài đưa ra những luận cứ và phân tích chặt chẽ các quy định hiện hành

5


của pháp luật TTHS, làm kết quả để hoàn thiện pháp luật TTHS và vai trò của

Người bào chữa là Luật sư trong phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng và vụ
án hình sự nói chung. Về nguyên tắc, phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là kết tinh
của giai đoạn điều tra, phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự là dựa trên kết quả của
phiên tòa sơ thẩm, nên việc hoàn thiện vai trò của Luật sư trong phiên tòa sơ
thẩm phải phần nào dựa trên sự hoàn thiện vai trò của Người bào chữa là Luật sư
trong giai đoạn điều tra, cũng vừa góp phần hoàn thiện vai trò Luật sư trong
phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài đưa ra những lý luận chặt chẽ để các chủ thể tham gia tố tụng nhận
thức được vai trò đúng đắn của Người bào chữa là Luật sư trong quá trình thực hiện
Quyền bào chữa cho Bị can,Bị cáo, đối với hiệu quả xét xử của phiên tòa sơ thẩm,
khi Tòa án có quyết định hình phạt đúng đắn nhất, công lý được đảm bảo.
6. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp luận: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng
của triết học Mác – Lênin làm phương pháp chủ đạo của đề tài;
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để hoàn thiện kết quả nghiên cứu, tác
giả đã sử dụng các phương pháp phổ biến như: Phân tích, thống kê, so sánh luật
học, diễn dịch, quy nạp, lấy ý kiến chuyên gia…
7. Bố cục đề tài
Cơ cấu của đề tài được quyết định bởi nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu, ngoài
mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài gồm 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về Quyền bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về Quyền bào chữa trong các vụ án hình sự và trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm Quyền con người luôn là một nội dung chính và cũng là mục đích
để xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để đảm bảo thực
hiện Quyền con người, các bản Hiến pháp của nước ta với vai trò là một đạo luật cơ
bản của Nhà nước, đã có nhiều quy định khẳng định Quyền con người, quyền công
dân và một trong những quyền được Hiến pháp nước ta bảo vệ đó chính là Quyền
bào chữa trong các vụ án hình sự. Để nhìn nhận tổng quan được Quyền bào chữa là
gì và cơ sở cho việc phải bảo đảm Quyền bào chữa trong các vụ án hình sự thì trước
hết, cần nhìn nhận đúng thế nào là Quyền bào chữa và làm rõ được những đặc điểm
của Quyền bào chữa.
1.1.1. Quyền bào chữa trong các vụ án hình sự
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về Quyền bào chữa bởi vì đây là
một chế định quan trọng, phức tạp, nó vừa mang tính lý luận và vừa mang tính thực
tế. Từ trước đến nay có nhiều bài nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm về cách
hiểu thế nào là Quyền bào chữa nhưng nhìn chung có thể nêu ra một số các quan
điểm nhìn nhận sau:
Quan điểm thứ nhất [20, tr.14] cho rằng Quyền bào chữa là tổng hòa tất cả
các hành vi tố tụng hướng tới việc bãi bỏ sự buộc tội và xác định Bị can không có
lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của Bị can.
Quan điểm thứ hai [28, tr.18] cho rằng, Quyền bào chữa được hiểu rộng hơn,
nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định Bị can không có lỗi hay
làm giảm trách nhiệm của Bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo
các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của Bị can kể cả khi chúng không trực
tiếp liên quan đến việc làm giảm trách nhiệm của Bị can trong vụ án.
Quan điểm thứ ba [40, tr.12] cho rằng, Quyền bào chữa không chỉ thuộc về

Bị can, Bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người
bào chữa, bị đơn dân sự và Người đại diện hợp pháp của họ.
7


Quan điểm thứ tư [31, tr.53] cho rằng, Quyền bào chữa trong BLTTHS là
tổng hòa các hành vi tố tụng do Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo, người bị kết án
thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần
hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự.
Quan điểm thứ năm [47, tr.107] cho rằng không chỉ Bị cáo mà cả bị hại cũng
cần đến việc bào chữa. Ngoài ra nhân chứng, người giám định viên và cả những
người khác cũng có thể có Người bào chữa nếu như quyền lợi của họ bị xâm phạm.
Các quan điểm khác nhau về Người bào chữa nói trên ít nhiều đã tiếp cận về
Quyền bào chữa ở các góc độ khác nhau nhưng chưa chính xác thể hiện ở chủ thể
của Quyền bào chữa. Theo Điều 11 BLTTHS 2003 có quy định: “Người bị tạm giữ,
Bị can, Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Như vậy,
pháp luật đã quy định chủ thể có Quyền bào chữa chính là Người bị tạm giữ, Bị can
và Bị cáo. Các quan điểm như đã nêu trên có nội hàm rất hẹp, đã hạn chế các chủ
thể có thể có Quyền bào chữa như quan điểm một và hai hoặc đã mở rộng không
cần thiết các chủ thể có Quyền bào chữa như ba quan điểm còn lại. Về mặt lý luận,
để nhận định chủ thể của Quyền bào chữa thì cần xét đến mục đích của Quyền bào
chữa là gì để có thể đánh giá và đưa ra được các chủ thể chính xác.
Theo một cách hiểu chung nhất thì Quyền bào chữa là tổng thể các quyền mà
pháp luật quy định cho chủ thể của quyền này được trình bày các ý kiến, quan điểm
của mình đối với việc buộc tội, được đưa ra những chứng cứ cần thiết để đề nghị
các Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét bác bỏ toàn bộ hoặc một phần đối với việc
buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ. Hay nói cách khác, Quyền bào chữa
hiểu theo đúng nghĩa của từ này là quyền của một người được đưa ra các chứng cứ
để chứng minh cho sự vô tội (lỗi) hoặc giảm nhẹ tội (lỗi của mình) [20]. Như vậy,

những chủ thể nào liên quan trực tiếp đến việc buộc tội và cần phải phản bác lại
việc buộc tội đó hoặc để giảm nhẹ các trách nhiệm hình sự do việc buộc tội gây ra
thì mới có thể trở thành chủ thể của Quyền bào chữa.
Tóm lại, Quyền bào chữa của Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo là tổng hợp
tất cả các hành vi/ phương thức mà pháp luật quy định cho Người bị tạm giữ, Bị

8


can, Bị cáo sử dụng trong các giai đoạn của quá trình TTHS để chống lại sự
buộc tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho họ.
Với khái niệm Quyền bào chữa như trên, chúng ta có thể rút ra được một số
đặc điểm của Quyền bào chữa như sau:
a) Chủ thể của Quyền bào chữa:
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là cá
nhân cho nên chủ thể của Quyền bào chữa cũng là cá nhân và được quy định tại
Điều 11 BLTTHS quy định:
“Điều 11: Bảo đảm Quyền bào chữa của Người bị tạm giữ, Bị can, Bị
cáo: Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm
cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo thực hiện Quyền bào chữa của họ theo quy
định của Bộ luật này”.
Theo quy định của BLTTHS cũng như tác giả đã đề cập ở trên thì chủ thể
chính của Quyền bào chữa này chỉ có thể là Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo. Các
Cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động tố tụng trong suốt quá trình
giải quyết vụ án phải có nghĩa vụ đảm bảo Quyền bào chữa này cho Người bị tạm
giữ, Bị can, Bị cáo.
Quy định trên của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 quy định về Người
bào chữa thì BLTTHS 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc xét xử
dân chủ, khách quan, công bằng hơn theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày

02-1-2002 của Bộ Chính trị. Theo Điều 12 của BLTTHS năm 1988 có quy định chủ
thể của Quyền bào chữa chỉ có Bị can, Bị cáo. Với việc mở rộng chủ thể của quyền
này theo như quy định tại Điều 11 BLTTHS 2003 là một sự tiến bộ của pháp luật vì
Người bị tạm giữ trong giai đoạn này là đang chịu sự giám sát để điều tra hay nói
cách khác họ là những người đang bị tình nghi về một hành vi phạm tội đã được
thực hiện. Về việc mở rộng chủ thể của người có Quyền bào chữa theo tác giả có
hai vấn đề lý luận chính cần lưu ý: (i) Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 58
BLTTHS có quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó, Người
bào chữa có thể tham gia bào chữa cho khách hàng (hoặc thân chủ) của mình kể từ
giai đoạn có quyết định tạm giữ nếu khách hàng (hoặc thân chủ) của Người bào

9


chữa bị bắt theo quy định tại Điều 81, Điều 82 của BLTTHS 2003. Như vậy ngay từ
khi có quyết định tạm giữ, Người bị tạm giữ đã được đặt dưới sự kiểm tra và giám
sát của các Cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho việc điều tra, truy tố tội phạm
và do vậy họ vẫn phải được bảo đảm về Quyền bào chữa của mình tương tự như đối
với Bị can, Bị cáo.; (ii) Thứ hai là xuất phát từ một nguyên tắc chính của TTHS đó
chính là nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 9 BLTTHS khi mà
không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật và do vậy Người bị tạm giữ vẫn sẽ được hưởng Quyền bào
chữa giống như Bị can, Bị cáo.
b) Phương thức thực hiện Quyền bào chữa:
Cũng theo quy định tại Điều 11 BLTTHS đã nêu thì Quyền bào chữa của
Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo được thực hiện bằng hai phương thức chính là (i)
tự mình bào chữa, (ii) nhờ người khác bào chữa.
Đối với phương thức thứ nhất, Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo có thể tự
mình bào chữa cho mình nếu như họ cảm thấy rằng tự bản thân họ có thể bào
chữa cho mình mà không cần đến sự trợ giúp của người bào chữa. Đây là hình

thức mà Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo sử dụng các quyền mà pháp luật quy
định cho họ trong việc chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình.
Như vậy, Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo được sử dụng những hiểu biết về
pháp luật của mình để chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của mình. Họ có thể thực hiện quyền tự bào chữa của mình bằng cách đề xuất
chứng cứ, nhận xét và đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu, tranh luận trước tòa,
kháng cáo bản án hay quyết định của tòa án.
Đối với phương thức thứ hai là thực hiện Quyền bào chữa thông qua người
bào chữa. Việc thực hiện thông qua Người bào chữa có thể xem là một phương thức
thực hiện Quyền bào chữa phổ biến.
Hiện nay, trong BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đều
không có quy định cụ thể nào liên quan đến khái niệm người bào chữa. Tuy nhiên
thông qua các Điều 56, Điều 57, Điều 58 BLTTHS có thể nhận định rằng Người bào
chữa là người được Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của
họ, những người khác được Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo ủy quyền mời hoặc

10


được Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng Luật
sư cử hoặc đề nghị Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử
để bào chữa cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết
gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo
và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
Theo khoản 1 Điều 56 BLTTHS quy định:
“Điều 56. Người bào chữa
1. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân.”

Luật sư, theo Điều 2 của Luật Luật sư 2006 thì Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư và thực hiện các dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, Cơ quan, tổ chức có yêu cầu.
Theo quy định, công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành
nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư và muốn được hành nghề Luật sư phải có
Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư [Luật luật sư 2006,
Điều 10, Điều 11]
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo là bố mẹ đẻ,
bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp
luật đối với Bị can Bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo
nếu không bào chữa cho Bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ,
Bị can, Bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ
tham gia tố tụng với tư cách là Người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối
với Người bào chữa. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo
nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và
cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm
giữ, Bị can, Bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch
hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài.
11


Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo không khó nhưng lại khó ở chỗ: người bị tạm giữ, Bị can,
Bị cáo là người đã thành niên không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà
người thân thích của người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo tuy không phải là Luật sư,
Bào chữa viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho người bị tạm giữ, Bị
can, Bị cáo vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng hoạt động trong các Cơ quan

pháp luật nay nghỉ hưu. Vậy những người này có được bào chữa cho người bị tạm
giữ, Bị can, Bị cáo hay không? Về vấn đề này, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau,
nhưng thực tiễn xét xử Toà án đã công nhận và cấp Giấy chứng nhận cho họ để họ
thực hiện việc bào chữa cho Bị cáo.
Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để
bào chữa cho Bị cáo. Chế định Bào chữa viên nhân dân không phải là một chế định
mới mà nó đã xuất hiện từ rất lâu. Ngày 10.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 46-SL quy định tổ chức các đoàn thể
Luật sư và đến ngày 18.6.1949, Hồ Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh số 69-SL cho
phép các Bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bênh vực cho mình
trước các Toà án - sau này gọi là các Bào chữa viên nhân dân [51]. Việc ban hành
Sắc lệnh số 69 thể hiện tính ưu việt của chế độ mới - mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt xuất thân, thành phần, dân tộc, giai cấp...
Tuy nhiên, từ đó đến nay chế định Bào chữa viên nhân dân chưa được cụ thể
hoá, quy định chi tiết ở bất cứ văn bản pháp luật nào. Do chưa có quy định cụ thể
nên hầu như chưa có sự tham gia của các Bào chữa viên nhân dân tại các phiên tòa
kể cả hình sự lẫn dân sự, hành chính... Mặc dù, tại điểm c Điều 56 của Bộ luật
TTHS quy định về Người bào chữa, trong đó có nêu sự tham gia của Bào chữa viên
nhân dân trong các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho Bị can, Bị cáo, Người bị hại...
Thực tế hiện nay hoạt động của Bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức
thành một hệ thống, chưa có quy định nào cụ thể, chi tiết về điều kiện, tiêu chuẩn để
được công nhận là Bào chữa viên nhân dân, hiện nay trong xã hội có nhiều người có
trình độ pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa được kết nạp
vào đoàn Luật sư và họ lại được Bị can, Bị cáo nhờ bào chữa.

12


Có thể nói, việc bảo đảm Quyền bào chữa thông qua Người bào chữa là một
đảm bảo rất quan trọng vì nhiều trường hợp Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo không

hiểu biết về pháp luật thì họ không thể tự mình sử dụng hết các quyền mà pháp luật
quy định cho họ để có thể bảo vệ quyền lợi cho mình, họ cũng không thể biết và
nắm bắt hết được các hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng có vi phạm
pháp luật hay không ? Như vậy, việc tham gia của Người bào chữa được xem là một
sự cần thiết để giúp đỡ cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo về mặt pháp lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trong ba loại Người bào chữa đã nêu trên thì thực tế trong ý thức của
người dân, cộng đồng và xã hội khi nói đến Người bào chữa là người ta chỉ nghĩ
đến là Luật sư còn những người khác không phải là Luật sư thì không được coi
là Người bào chữa. Nguyên nhân của cách nhìn nhận trên có thể xuất phát một
phần từ nhận thức của người dân còn chưa thật sự rõ ràng về chế định Người
bào chữa cũng như sự phổ biến của Luật sư trong việc tham gia vào các vụ án
hình sự vì Luật sư là nhân vật trung tâm về hoạt động bào chữa hơn là vai trò
tham gia bào chữa của Bào chữa viên nhân dân hoặc Người đại diện hợp pháp
cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo.
Bào chữa là một công việc mang tính chuyên môn, đòi hỏi rất nhiều về trình
độ chuyên môn, kiến thức, kinh nghiệm bào chữa. Pháp luật không quy định bắt
buộc chỉ có Luật sư mới có quyền được trở thành người bào chữa, song rõ ràng cả
về mặt lý luận và thực tế đều cho thấy, Luật sư là đối tượng đáp ứng cao nhất và đầy
đủ nhất những điều kiện để thực hiện tốt và hiệu quả nhất việc bào chữa, từ đó
mang lại lợi ích cao nhất cho người được bào chữa. Luật sư là một nghề nghiệp độc
lập, mang tính chuyên môn, không phải là một công việc đơn lẻ, kiêm nhiệm hay
bán chuyên trách.
Một vấn đề cần lưu ý là việc Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo nhờ Người bào
chữa để bào chữa cho họ thì việc nhờ này không làm mất đi quyền tự bào chữa của
chính họ hay nói cách khác, trong mọi trường hợp, Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo
luôn được sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

13



pháp của mình. Về vấn đề này hiện nay trong quy định tại Điều 11 BLTTHS có thể
gây ra sự nhầm lẫn bởi cách dùng từ. Điều luật này thể hiện Người bị tạm giữ, Bị can,
Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Như tác giả đã
phân tích ở trên, việc Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo nhờ người khác bào chữa cho
mình không đương nhiên làm mất đi quyền tự bào chữa của họ do vậy việc dùng từ
“hoặc” trong quy định tại Điều 11 BLTTHS là không chính xác mà nên thay thế bằng
từ “và” để thực hiện và hiểu đúng được tinh thần và nội hàm của nó.
c) Cách thức tham gia bào chữa của Người bào chữa trong việc bảo đảm
Quyền bào chữa:
Hiện nay, việc Người bào chữa tham gia vào các hoạt động TTHS để bào
chữa cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo được thực hiện dựa trên hai phương thức
chính là (i) Người bào chữa tham gia vụ án dựa trên sự lựa chọn của Người bị tạm
giữ, Bị can, Bị cáo hoặc (ii) Người bào chữa tham gia vụ án trên cơ sở yêu cầu của
của Cơ quan tiến hành tố tụng (bào chữa chỉ định hoặc bào chữa bắt buộc).
Ở phương thức thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 57 BLTTHS quy
định, Người bào chữa do Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo hoặc Người đại diện hợp
pháp của họ lựa chọn. Như vậy, việc Người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng
để thực hiện việc bào chữa cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo là hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí và sự lựa chọn của người có Quyền bào chữa.
Việc Người bào chữa tham gia bào chữa với tư cách là Người bào chữa do
người có Quyền bào chữa lựa chọn phải đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật
TTHS để có thể được tham gia vào vụ án với tư cách là người bào chữa. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS thì trong thời hạn luật định, sau khi nhận được
đầy đủ hồ sơ về việc xin tham gia bào chữa trong vụ án hình sự thì Cơ quan có thẩm
quyền ở đây là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án sẽ tiến hành xem xét và
cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho người xin tham gia bào chữa để họ có thể thực
hiện việc bào chữa của mình, nếu từ chối việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa thì
phải có lý do được thể hiện bằng văn bản. Như vậy, việc Người bào chữa do sự lựa
chọn của Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo chỉ được thực hiện khi được sự chấp

thuận của các Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền.
14


Với phương thức thứ hai là Người bào chữa tham gia bào chữa cho Bị can,
Bị cáo với tư cách là Người bào chữa chỉ định (bào chữa bắt buộc) theo yêu cầu của
của Cơ quan tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của các Trung tâm trợ giúp pháp
lý. Đây là một quy định cần thiết và thể hiện tính nhân văn của pháp luật và được cụ
thể hóa tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy
định chung” của BLTTHS 2003.
Một cách khái quát, bào chữa bắt buộc xảy ra khi mà trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử vụ án hình sự mà Bị can, Bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ
không mời được Người bào chữa nhưng vẫn muốn sự có sự tham gia của Người
bào chữa hoặc trong một số trường hợp do luật định mà bắt buộc phải có sự tham
gia của Người bào chữa thì pháp luật TTHS sẽ dành cho họ có quyền có người bào
chữa. Những trường hợp này được gọi là bào chữa chỉ định hay bào chữa bắt buộc.
Quy định về bào chữa bắt buộc nhằm bảo đảm Quyền bào chữa cho Bị can, Bị cáo
khi có những nguy cơ hay có những cản trở làm cho họ không thể thực hiện được
hoặc thực hiện không tốt Quyền bào chữa của mình hoặc thể hiện tinh thần của
pháp luật đối với một số tội phạm bắt buộc phải có người bào chữa. Khi những
trường hợp này xảy ra thì Cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án sẽ yêu cầu, chỉ định Người bào chữa cho Người bị tạm giữ,
Bị can, Bị cáo và những Người bào chữa chỉ định này có thể là Luật sư, Người đại
diện hợp pháp cho Bị can, Bị cáo hoặc Bào chữa viên nhân dân như đã phân tích ở
phần trên. Tuy nhiên hiện nay việc bào chữa chỉ định thường là do các Luật sư thực
hiện dựa trên sự phân công của các Đoàn Luật sư đối với các tổ chức hành nghề
Luật sư để cử ra một Luật sư tham gia bào chữa chỉ định cho Bị can, Bị cáo. Sự
tham gia của người đại diện cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo hoặc Bào chữa

viên nhân dân làm Người bào chữa chỉ định hầu như không có do tính chất của yêu
cầu của việc phải có Người bào chữa chỉ định cũng như trình độ năng lực của hai
loại Người bào chữa đã nêu còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực sự của

15


việc bào chữa chỉ định đề ra.
Bào chữa chỉ định (bào chữa bắt buộc) được quy định cụ thể tại khoản 2
Điều 57 BLTTHS và được hướng dẫn chi tiết tại Chương II của Nghị quyết
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định
chung” của Bộ luật TTHS năm 2003.
“Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa

2. Trong những trường hp sau đây, nếu Bị can, Bị cáo hoặc Người đại diện
hợp pháp của họ không mời Người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng Luật sư cử Người
bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của Mặt trận cử Người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, Bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình
được quy định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, Bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, Bị
can, Bị cáo và Người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa”.
Với quy định trên, khi Bị can, Bị cáo bị điều tra, truy tố và xét xử về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì việc có Người bào chữa được xem là
mang tính thận trọng, khách quan và để tránh phạm phải những sai lầm không khắc

phục được trong việc giải quyết vụ án cũng như đảm bảo tính nhân đạo của pháp
luật trước một công dân có thể bị áp dụng hình phạt cao nhất trong các mức hình
phạt là tử hình.
Với trường hợp thứ hai là khi Bị can, Bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về thể chất hay nhược điểm về tâm thần. Trong trường hợp
này thì xét trên lý do là vì những nhược điểm của họ khiến cho họ không thể thực
hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ Quyền bào chữa của mình vì vậy pháp luật
cho họ có quyền có Người bào chữa nếu như họ và đại diện hợp pháp của họ không

16


mời được Người bào chữa mà muốn có Người bào chữa.
Trong trường hợp bào chữa bắt buộc, nếu người Bị can, Bị cáo hoặc Người
đại diện hợp pháp của họ không mời được Người bào chữa mà không từ chối Người
bào chữa thì các Cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm yêu cầu Đoàn Luật
sư cử Người bào chữa cho họ kể từ khi có quyết định khởi tố Bị can. Điều này cũng
có nghĩa là bào chữa bắt buộc là yêu cầu khách quan của pháp luật TTHS đối với
Cơ quan tiến hành tố tụng còn đối với Bị can, Bị cáo và Người đại diện hợp pháp
của họ thì đây chỉ là những quyền mang tính chất chủ quan, việc thực hiện quyền
này phụ thuộc vào ý chí của họ và không mang tính bắt buộc.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS thì Bị can, Bị cáo hoặc
Người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi Người bào chữa đã được
cử vì vậy khi có yêu cầu thay đổi Người bào chữa thì Cơ quan và cá nhân có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện và tôn trọng nguyện vọng của họ.
d) Quyền bào chữa được thực hiện trong các giai đoạn TTHS
Dựa trên khái niệm về Quyền bào chữa đã phân tích, chúng ta có thể thấy
được rõ Quyền bào chữa là giúp cho Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo có thể sử
dụng các quyền theo luật định như đưa ra tài liệu, đồ vật, chứng cứ, yêu cầu để
chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình hoặc họ

có thể sử dụng những hình thức bào chữa khác nhau mà pháp luật cho phép như đã
phân tích ở trên để bảo vệ các quyền và lợi ích của họ. Như vậy mục đích và vai trò
cuối cùng của Quyền bào chữa chính là bảo vệ quyền và lợi ích cho chính người có
Quyền bào chữa hay nói cách khác là dùng để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính họ. Chúng ta có thể thấy rằng, chỉ có những
Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo là những người bị buộc tội trong quá trình TTHS
nên chỉ có họ mới là người có Quyền bào chữa và cái mục đích cuối cùng mà họ
muốn hướng đến là đem lại sự “trong sạch” cho mình, khẳng định mình không có
tội hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
Về nguyên tắc, bào chữa là sự gỡ tội và ở đâu bắt đầu có buộc tội thì ở đó sẽ
có bào chữa. Do vậy, các chủ thể thực hiện Quyền bào chữa trong tất cả các giai
đoạn TTHS, từ ngay khi bị “tình nghi” là thực hiện tội phạm cho đến khi bị kết án

17


bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đó chính là lý do mà BLTTHS đã bổ
sung diện chủ thể của Quyền bào chữa mở rộng sang cả người bị tạm giữ mà không
chỉ là Bị can, Bị cáo như trước đây. Cũng theo lý luận và pháp luật thực định thì
hiện nay các giai đoạn TTHS gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và Thi hành án
hình sự. Trong mỗi giai đoạn đó, các Cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã nhân danh Nhà nước, áp dụng các biện
pháp tố tụng luật định để làm rõ các tình tiết vụ án, xác định tội phạm, người phạm
tội và kết thúc bằng việc Tòa án ra bản án, quyết định áp dụng pháp luật, qua đó xác
định trách nhiệm hình sự cho người đã thực hiện tội phạm. Song song với tiến trình
tố tụng đó, Quyền bào chữa được thực hiện bằng các cách thức và phương thức như
đã phân tích trên nhưng trung tâm nhất là trong giai đoạn xét xử.
Tòa án nhân dân là Cơ quan xét xử của nước ta, có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ Quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để có thể thực hiện được chức năng xét

xử, bên cạnh các nguyên tắc cơ bản của TTHS đã được ghi nhận trong BLTTHS,
nguyên tắc tranh tụng thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử và trọng tâm là
phiên tòa. Điều này phù hợp Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/01/2002 của Bộ
Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam và gần đây nhất dự thảo Hiến pháp 1992 sửa
đổi đã ghi nhận nguyên tắc này. Tại phiên tòa, sự ghi nhận nguyên tắc tranh tụng
sẽ đề cao quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng và sự bình đẳng trong quá trình
giải quyết vụ án. Đó cũng là cơ sở nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm, bản
lĩnh nghề nghiệp của từng chủ thể (công tố, bào chữa, xét xử) thực hiện chức năng
của mình, đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình cải cách tư pháp hình sự.
Chính vì vậy, Quyền bào chữa thể hiện tập trung nhất tại phiên tòa, khi mà cùng
lúc các chủ thể thực hiện chức năng công tố, xét xử, bào chữa cùng thể hiện mình.
Tòa án (Hội đồng xét xử) sẽ căn cứ vào sự thể hiện của các bên công tố buộc tội
và bên bào chữa (Người bào chữa hoặc/tự bào chữa) để ra phán quyết đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật.
1.1.2. Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

18


Như đã phân tích, Quyền bào chữa được thực hiện thông qua hai hình thức là
người bị tạm giam, Bị can, Bị cáo sẽ tự mình thực hiện Quyền bào chữa này hoặc
thông qua Người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Đối với hình thức tự bào chữa, hoạt động bào chữa có thể hiểu một cách đơn
giản nhất đó chính là bản thân người bị tạm giam, Bị can, Bị cáo sẽ tự mình thực
hiện các quyền mà pháp luật cho phép để thực hiện việc bào chữa cho mình. Với
hình thức này, Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo đã bị giới hạn một số quyền của
mình và phải chịu sự giám sát chặt chẽ của các Cơ quan tiến hành tố tụng nên việc
thực hiện Quyền bào chữa của họ có phần hạn chế. Cụ thể là việc bào chữa của họ
chỉ thực sự được thể hiện thông qua quá trình xét xử tại phiên tòa cho đến khi một
bản án, quyết định có hiệu lực được ban hành. Tại phiên xét xử, thông qua các thủ

tục trình tự phiên tòa từ xét hỏi cho đến phần tranh luận, người có Quyền bào chữa
sẽ tự mình dùng những lý lẽ, lập luận để phản bác, tranh luận lại các cáo buộc đối
với mình, thực hiện việc đề xuất chứng cứ, nhận xét và đánh giá chứng cứ, đưa ra
các yêu cầu, tranh luận trước tòa, kháng cáo bản án hay quyết định của tòa án…Như
vậy hoạt động bào chữa của Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo được thực hiện theo
một trình tự nhất định để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, thực
hiện việc bác bỏ cáo buộc hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính bản thân họ.
Hoạt động bào chữa của Người bào chữa là hoạt động thực hiện việc bào
chữa bằng cách sử dụng tất cả các quyền do pháp luật quy định để chứng minh sự
vô tội cho Bị can, Bị cáo và Người bị tạm giữ cũng như làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho Bị can, Bị cáo, Người bị tạm giữ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Hoạt
động bào chữa của Người bào chữa được thực hiện kể từ khi họ nhận được yêu cầu
có Người bào chữa từ Bị can, Bị cáo hoặc Người đại diện hợp pháp của Bị can, Bị
cáo hoặc khi có yêu cầu từ phía Cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động bào chữa của
Người bào chữa thông thường sẽ kết thúc khi có một bản án, quyết định có hiệu lực
của Cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động bào chữa của Người bào chữa được quy
định cụ thể thông qua quyền và nghĩa vụ của họ khi thực hiện việc bào chữa cho
Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo theo Điều 58 BLTTHS.

19


Tuy nhiên như trên có phân tích thì Quyền bào chữa thực hiện ở các giai
đoạn TTHS và chủ thể thực hiện là người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo. Thực ra tên gọi
của chủ thể Quyền bào chữa chỉ là tư cách tố tụng của một con người tại các giai
đoạn khác nhau của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền bào chữa thể hiện tập
trung và đầy đủ nhất trong giai đoạn xét xử và tại phiên tòa, khi vụ án đã có quyết
định đưa ra xét xử và là quyền của Bị cáo.
Theo quy định của pháp luật thì Tòa án Việt Nam thực hiện chế độ 2 cấp xét
xử (Điều 20 BLTTHS năm 2003). Xét xử vụ án hình sự lần đầu là xét xử sơ thẩm và

xét xử lần thứ hai là là xét xử phúc thẩm khi bản án, quyết định sở thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị. Trong mỗi cấp xét xử, Quyền bào chữa được thực hiện có khác
biệt. Điều này được xác định thông qua phạm vi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là
khác nhau. Tại phiên tòa sơ thẩm, Quyền bào chữa được thực hiện đầy đủ nhất, khi
mà Bị cáo hoặc Người bào chữa của Bị cáo được quyền trình bày tất cả những vấn
đề nhằm chống lại sự buộc tội của Viện kiểm sát. Trong khi đó, tại phiên tòa phúc
thẩm Bị cáo hoặc Người bào chữa của Bị cáo được quyền trình bày những vấn đề
liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị nhằm giảm nhẹ sự buộc tội đối với
Bị cáo (bào chữa vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm dân sự…).
Từ những phân tích trên có thể định nghĩa Quyền bào chữa trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm là tổng hợp các hoạt động gỡ tội của Bị cáo hoặc Người bào chữa
cho Bị cáo trên cơ sở áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép nhằm chứng
minh sự vô tội, sự giảm nhẹ hình phạt hoặc giảm nhẹ các hình thức trách nhiệm
hình sự khác, sự giảm nhẹ trách nhiệm dân sự của Bị cáo trong quá trình chuẩn
bị xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Như trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ phân tích về
hoạt động bào chữa của Luật sư thông qua giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đồng thời có sự nghiên cứu và đánh giá về giai đoạn điều tra vụ án vì hai giai đoạn
này việc thực hiện hoạt động bào chữa của Người bào chữa nói chung và của Luật
sư nói riêng được thể hiện một cách rõ ràng nhất.
1.2. Vai trò và ý nghĩa của Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ

20


thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Vai trò của hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
a) Thực hiện Quyền bào chữa góp phần bảo vệ Quyền con người
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về Quyền con người, từ định nghĩa

của các công trình nghiên cứu mang tính quốc tế đến định nghĩa về Quyền con
người tại Việt Nam. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc thì
Quyền con người được hiểu là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ
các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại
đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người [59]. Ở Việt Nam, còn tồn tại nhiều
định nghĩa khác nhau về Quyền con người nhưng nhìn chung Quyền con người
được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận quốc tế. Trong
phạm vi nghiên cứu, Luận văn không tập trung đi sâu về nghiên cứu thế nào là
Quyền con người mà chỉ giới thiệu một cách tổng quan, khái quát nhất về Quyền
con người như trên.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) xác định
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các Quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật”. Trên tinh thần khẳng định Quyền con
người của Hiến pháp, Điều 132 Hiếp pháp 1992 cũng như Điều 11 BLTTHS đã quy
định về Quyền bào chữa của Bị can, Bị cáo, Người bị tạm giữ. Như đã phân tích,
xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội do đó không ai bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực, do vậy Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo
được đảm bảo các Quyền con người, Quyền công dân và trong hoạt động TTHS thì
quyền này được thể hiện bằng Quyền bào chữa của họ. Quyền bào chữa với vai trò
là một chế định cho phép Người bị tạm giữ, Bị can, Bị cáo có Quyền bào chữa cho
mình bằng việc tự bào chữa hoặc thông qua Người bào chữa để áp dụng các quyền
theo luật định để chứng minh cho sự vô tội của mình hoặc để giảm bớt trách nhiệm
hình sự do việc buộc tội gây ra. Các Cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải
21


×