Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU MÔN SINH HỌC CẤP THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.58 KB, 110 trang )

NGÔ VĂN HƯNG
ĐINH THỊ KIM NHUNG – HOÀNG THỊ KIM HUYỀN

TÀI LIỆU
GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
MÔN SINH HỌC - CẤP THPT

HÀ NỘI – 2012

1


NGÔ VĂN HƯNG
ĐINH THỊ KIM NHUNG – HOÀNG THỊ KIM HUYỀN

TÀI LIỆU
GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
MÔN SINH HỌC CẤP THPT

HÀ NỘI – 2012

2


Lời giới thiệu

3


MỤC LỤC
Trang


Phần I. BĐKH VÀ GIÁO DỤC BĐKHTRONG TRƯỜNG THPT
I. Biến đổi khí hậu

5

1. Khái niệm

5

2. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

5

2. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu

8

3. Hậu quả của biến đổi khí hậu

9

II. Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường THPT

15

1. Vai trò, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách
thức của biến đổi khí hậu
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT

15


3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong
trường THPT
4. Tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT

17

4.1. Quan niệm về giáo dục tích hợp

18

4.2. Phương pháp giáo dục tích hợp

23

4.3. Hình thức tổ chức giáo dục tích hợp

29

4.4. Nguyên tắc giáo dục tích hợp

30

Phần II. TÍCH HỢP GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BĐKH

31

5

16


18

TRONG MÔN SINH HỌC CẤP THPT

1. Khả năng tích hợp GD ứng phó với BĐKH vào môn Sinh học

31

2. Giới thiệu địa chỉ tích hợp GD ứng phó với BĐKH vào môn
Sinh học
3. Gợi ý về tổ chức dạy học tích hợp nội dung giáo dục ứng phó
với BĐKH vào môn Sinh học
Phần III. GIỚI THIỆU MỘT SỐ GIÁO ÁN VÀ CÂU HỎI BÀI TẬP

33
61
69

TÍCH HỢP NỘI DUNG GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BĐKH

1. Giới thiệu một số giáo án dạy học tích hợp nội dung GD ứng phó với
BKH vào môn Sinh học
2. Giới thiệu một số câu hỏi và bài tập tích hợp nội dung GD ứng
phó với BĐKH vào môn Sinh học
Phụ lục

4

69

105


Phần I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG TRƯỜNG THPT

I. Biến đổi khí hậu
1. Khái niệm
1.1. Định nghĩa
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những biến đổi trong môi trường vật lí
hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả
năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lí
hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và
phúc lợi của con người (Công ước chung của Liên hợp quốc về BĐKH tại
Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường tại Rio de Janeiro - Braxin năm
1992). Nói một cách khác BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so
với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một thời gian dài,
thường là vài thập kỉ hoặc dài hơn.
1.2. Đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu
- Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, khó đảo ngược;
- Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh
vực có liên quan đến sự sống và hoạt động của con người;
- Cường độ ngày một tăng và hậu quả khó lường trước;
- Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên
trong lịch sử phát triển của mình.
2. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu
2.1. Nguyên nhân của BĐKH trong thời kì địa chất
Những nguyên nhân cơ bản của BĐKH trong thời kì địa chất xảy ra
cách đây hàng trăm triệu năm giả thuyết là do sự biến động của các nhân tố
liên quan đến quỹ đạo chuyển động của trái đất, độ nghiêng của trục trái đất

trên mặt phẳng quỹ đạo trái đất quay xung quanh mặt trời (mặt phẳng
hoàng đạo), dẫn đến sự thay đổi lượng bức xạ mặt trời đi tới trái đất. Sự
thay đổi cơ bản của hằng số mặt trời và hoạt động của mặt trời trong các
thời kì địa chất, sự thay đổi khối lượng vật chất trong quá trình trái đất
5


chuyển động trong vũ trụ giữa các vì sao do sự hấp thụ khác nhau năng
lượng bức xạ mặt trời.
BĐKH trong thời kì địa chất còn liên quan đến các yếu tố địa chất và
khí quyển trái đất. Đó là sự thay đổi của bề mặt trái đất như sự phân bố biển
và lục địa cùng độ lớn của chúng, quá trình tạo sơn và sự nâng lên của các
mảng lục địa lớn, phân bố các dòng hải lưu và thay đổi độ mặn nước biển
của các đại dương, hoạt động của núi lửa, hàm lượng khí CO 2 tự nhiên
trong khí quyển và lượng mây, … .
Tóm lại, BĐKH trong thời kì địa chất có liên quan đến các nhân tố tự
nhiên ngoài trái đất và những nhân tố trong nội bộ trái đất (địa chất).
2.2. Nguyên nhân của BĐKH hiện tại
BĐKH có thể do hai nguyên nhân: do những quá trình tự nhiên và do
ảnh hưởng của con người.
Trong khuôn khổ của tài liệu này, chúng ta không đi sâu phân tích
ảnh hưởng của các quá trình tự nhiên, mà chủ yếu đề cập đến tác động của
con người đến biến đổi khí hậu.
Cho đến nay các nhà khoa học đều khẳng định rằng hoạt động của
con người đã và đang làm BĐKH toàn cầu. Nguyên nhân chủ yếu của sự
biến đổi đó là sự tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến
tăng hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt quan trọng là khí điôxit cacbon (CO 2)
được tạo thành do sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (như dầu mỏ,
than đá, khí tự nhiên...), phá rừng và chuyển đổi sử dụng đất.
Theo Báo cáo năm 2007 của Ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC International Panel on Climate Change), hàm lượng khí CO2 trong khí

quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên trong khoảng 650.000 năm qua
(180 - 280ppm11) và đạt 379ppm (tăng ~ 35%). Lượng phát thải khí CO 2 từ
sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4 tỉ tấn cacbon (23,5 tỉ
tấn CO2) mỗi năm trong những năm 1990 đến 7,2 tỉ tấn cacbon (45,9 tỉ tấn
CO2) mỗi năm trong thời kì 2000 - 2005. Lượng phát thải khí CO 2 từ việc
thay đổi sử dụng đất ước tính bằng 1,6 tỉ tấn cacbon (5,9 tỉ tấn CO 2) trong
những năm 1990.
Nhu cầu về năng lượng của nhân loại ngày càng nhiều, trong đó năng
lượng hóa thạch chiếm phần lớn. Mặc dù năng lượng hạt nhân hoặc một số
1

parts per million: đơn vị tính bằng phần nghìn

6


dạng năng lượng sạch khác có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chỉ chiếm một
phần nhỏ so với nhu cầu năng lượng nói chung. Sử dụng nhiều năng lượng
hóa thạch là nguyên nhân làm tăng đáng kể nồng độ khí CO 2 trong khí
quyển, trong đó các nước phát triển đóng góp phần lớn.
Trong việc đánh giá hiệu ứng của các khí nhà kính, có hai vấn đề rất
đáng lưu ý là:
- Các khí nhà kính tồn tại lâu trong khí quyển, từ vài tháng đến
vài trăm năm, được xáo trộn nhanh chóng và làm thay đổi thành
phần khí quyển toàn cầu nói chung.
- Do sự xáo trộn như vậy, phát thải khí nhà kính từ bất kì nguồn
nào, ở đâu cũng đều ảnh hưởng đến mọi nơi trên thế giới.
Như vậy, phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
BĐKH hiện nay, một sự thay đổi môi trường lớn lao nhất mà con người
phải chịu đựng. Đây cũng là lí do vì sao BĐKH là một vấn đề mang tính

toàn cầu.
Tăng nồng độ khí nhà kính dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính của khí
quyển và kết quả là tăng nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất. Trên phạm vi
khu vực, sự phát ra những chất khí và những phần tử gây ô nhiễm khác dẫn
đến những tác động lớn, mặc dù một số trong chúng có thể có tác động
ngược lại. Thí dụ, chất muội bồ hóng (sooty aerosols) có khuynh hướng làm
khí hậu khu vực ấm lên, trong khi chất sunfat làm lạnh đi bởi phản xạ ánh
sáng mặt trời nhiều hơn. Trong khi ta có cảm giác chịu tác động trực tiếp ở
các vùng công nghiệp, các chất sol khí này còn có thể tác động gián tiếp lên
nhiệt độ trung bình toàn cầu.
Hàm lượng khí mêtan (CH4) trong khí quyển đã tăng từ 715ppb2
trong thời kì tiền công nghiệp lên 1732ppb trong những năm đầu thập kỉ 90
và đạt 1774ppb năm 2005 (tăng ~148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N 2O)
trong khí quyển đã tăng từ 270ppb trong thời kì tiền công nghiệp lên
319ppb vào năm 2005 (tăng khoảng 18%). Các khí mêtan và ôxit nitơ tăng
chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, đốt nhiên liệu hóa thạch, chôn lấp rác thải,
….
Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70 - 90% lượng CO 2 vào
khí quyển. Năng lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải,
2

parts per billion: đơn vị tính bằng phần tỷ

7


chế tạo các thiết bị điện: tủ lạnh, hệ thống điều hòa nóng lạnh và các ứng
dụng khác. Lượng CO2 còn do hoạt động trong nông nghiệp và khai thác
rừng (kể cả cháy rừng), khai hoang và công nghiệp.
Tóm lại, tiêu thụ năng lượng do đốt các nhiên liệu hóa thạch đóng

góp khoảng một nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng
nhiệt đới đóng góp khoảng 18% và hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng
9% tổng số các khí thải gây ra lượng bức xạ cưỡng bức làm nóng lên toàn
cầu. Sản phẩm hoá học (CFC, Halon...): 24% và các nguồn khác như rác
chôn dưới đất, nhà máy xi măng, ... : 3%.
Lượng bức xạ tăng thêm (bức xạ cưỡng bức) do sự gia tăng của hàm
lượng các khí nhà kính trong khí quyển do hoạt động của con người trong
thời kì 1750 - 2000 được xác định là 2,43w/m2, trong đó từ khí CO2 là
1,46w/m2, từ khí CH4 là 0,48w/m2, từ các khí Halocacbon là 0,34w/m2 và từ
khí N2O là 0,15w/m2.
Ngoài nguyên nhân do hoạt động của con người nói trên, BĐKH hiện
nay còn có các nguyên nhân tự nhiên, trong đó có hoạt động của núi lửa
phun các tro bụi lên tới tầng bình lưu của khí quyển, hạn chế lượng bức xạ
mặt trời đi tới mặt đất, làm cho mặt đất lạnh đi (bức xạ cưỡng bức âm)
thường kéo dài khoảng vài năm. Ngoài ra, sự biến động của bức xạ mặt trời
trong thời kì 1750 đến nay được đánh giá là tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức
dương với trị số là 0,30w/m2, chủ yếu xảy ra vào nửa đầu thế kỉ 20.
Như vậy, BĐKH hiện nay có cả nguyên nhân tự nhiên và nguyên
nhân con người, song sự nóng lên toàn cầu được khẳng định là do hoạt
động của con người làm tăng hàm lượng các khí nhà kính trong khí quyển
gây ra một lượng bức xạ cưỡng bức dương, trong khi hậu quả tổng hợp từ
các nguyên nhân tự nhiên nói trên đã cho một lượng “bức xạ cưỡng bức
âm”, tức là làm trái đất lạnh đi.
3. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Nhiệt độ không khí của Trái Đất đang có xu hướng nóng dần lên: từ
năm 1850 đến nay nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74 oC, trong đó nhiệt độ tại
2 cực của Trái Đất tăng gấp 2 lần so với số liệu trung bình toàn cầu; và theo
dự báo nhiệt độ trung bình của Trái Đất có thể tăng lên 1,2 – 2,5oC tới năm
2100, đạt mức chưa từng có trong lịch sử 10.000 năm qua.


8


Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm (1957 - 2007) nhiệt độ không khí
trung bình tăng khoảng 0,5 - 0,7oC, sẽ tăng từ 1 – 2oC vào năm 2020 và từ
1,5 – 2oC vào năm 2070.
- Có sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn
ở các vùng thấp ven biển và xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương.
Trong thế kỉ XX, trung bình mực nước biển ở Châu Á dâng cao
2,44mm/năm, chỉ riêng thập kỉ vừa qua là 3,1mm/năm. Dự báo trong thế kỉ
21, mực nước biển dâng cao từ 2,8 - 4,3mm/năm.
Ở Việt Nam, tốc độ dâng lên của mực nước biển khoảng 3mm/năm
(giai đoạn 1993 - 2008) tương đương với tốc độ dâng lên của đại dương thế
giới. Dự báo đến giữa thế kỉ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 30cm và
đến cuối thế kỉ 21 mực nước biển có thể dâng lên 75cm so với thời kì 1980
- 1999.
- Có sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên Trái Đất.
- Có sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ
lớn như bão, mưa lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và
tài sản.
4. Hậu quả của biến đổi khí hậu
4.1. Phạm vi toàn cầu
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân
loại. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và
môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng
gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây
rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương
lai. Vấn đề biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện và sâu sắc
quá trình phát triển và an ninh toàn cầu như năng lượng, nước, lương thực,

xã hội, việc làm, ngoại giao, văn hóa, kinh tế, thương mại.
Từ khoảng giữa thế kỉ XIX, nhờ đo đạc chính xác bằng các dụng cụ,
chúng ta mới có được số liệu định lượng chi tiết về BĐKH trong hơn một
thế kỉ qua. Những số liệu có được cho thấy xu thế chung là từ cuối thế kỉ
XIX đến nay, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Kết quả đo
đạc và nghiên cứu hiện nay cho thấy nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu
trong thế kỉ XX đã tăng lên 0,74oC (± 0,2oC); trên đất liền, nhiệt độ tăng
9


nhiều hơn trên biển và thập kỉ 1990 là thập kỉ nóng nhất trong thiên niên kỉ
vừa qua (IPCC, 2007).
Nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất đã tăng lên rõ rệt trong thời kì
1920 - 1940, giảm dần trong khoảng giữa những năm 1960 và lại tăng lên
từ sau năm 1975. Bằng cách đo đạc các thớ cây, diện tích các vùng băng,
người ta nhận thấy đây là thời kì nhiệt độ cao nhất trong vòng 600 năm trở
lại đây.
Các nhà khoa học đều nhất trí rằng, tình trạng nóng nhất xảy ra trong
50 năm cuối của thế kỉ XX là do hậu quả hoạt động của con người.
Sang những năm đầu thế kỉ XXI, nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng. Có
thể lấy năm 2003 làm minh chứng: Nhiệt độ trung bình toàn cầu năm 2003
tăng 0,46oC so với trung bình thời kì 1971 - 2000, là năm ấm thứ ba kể từ
năm 1861. Trong đó, chuẩn sai nhiệt độ bán cầu Bắc là + 0,59 oC và bán cầu
Nam: +0,32oC. Năm ấm thứ hai là 2002 với chuẩn sai nhiệt độ là + 0,48 oC.
Kể từ năm 1850 đến 2006, trong số 12 năm nóng nhất, thì đã có 11 năm
nằm trong 12 năm gần đây (1995 - 2006).
Hiện tượng thời tiết ấm lên ở Alaska trong những năm gần đây cũng
là một minh chứng rõ rệt. Tại đây, nhiệt độ đã tăng 1,5 oC so với trung bình
nhiều năm, lớp băng vĩnh cửu giảm 40% và hàng năm lớp băng thường dày
1,2m chỉ còn khoảng 0,3m (mỏng hơn 4 lần so với trung bình nhiều năm).

Hiện tượng mưa cũng có những biến động đáng kể, tăng 5 - 10%
trong thế kỉ XX trên lục địa bán cầu Bắc và giảm ở một số nơi, tuy xu thế
không rõ rệt như nhiệt độ. Hiện tượng mưa lớn tăng lên ở các vĩ độ trung
bình và cao của bán cầu Bắc. Tương ứng với sự tăng của nhiệt độ toàn cầu,
mực nước trung bình của đại dương cũng tăng lên 10 - 25cm (trung bình 1
-2mm/năm trong thế kỉ XX) do băng tan và giãn nở nhiệt đại dương. Xu thế
tăng của mực nước như vậy là lớn, đặc biệt là trong vòng 15 năm cuối
cùng. Sự tan băng ở các vùng núi cao, giảm tuyết ở bán cầu Bắc và tăng
nhiệt độ đã làm cho mực nước biển dâng cao. Từ cuối những năm 1960,
phạm vi lớp phủ tuyết giảm khoảng 10%. Độ dày của lớp băng biển ở Bắc
Cực trong thời kì từ cuối mùa hạ đến đầu mùa thu giảm xuống khoảng 40%
trong vài thập kỉ gần đây. Cùng với xu thế tăng nhiệt độ toàn cầu là sự phân
bố các dị thường của nhiệt độ. Trên các đại lục ở bán cầu Bắc, trong những
năm gần đây xuất hiện hàng loạt kỉ lục về nhiệt độ cao và thấp. Khoảng 20
10


năm gần đây, người ta đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các dị thường khí
hậu với hiện tượng ENSO.
Thiên tai (bão, lũ, lụt, hạn hán, lốc, ...) và các hiện tượng thời tiết cực
đoan (nắng nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn, ...) gia tăng.
Theo báo cáo của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu, nhiệt
độ trung bình toàn cầu và mực nước biển tăng nhanh trong vòng 100 năm
qua, đặc biệt trong khoảng 25 năm gần đây.
Các nghiên cứu đã dự báo một số hậu quả xảy ra do biến đổi khí hậu:
- Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến lượng mưa, nhiệt độ và
nước phục vụ cho nông nghiệp. Đến năm 2080, thế giới có thêm
600 triệu người thiếu lương thực.
- Đến năm 2080, sẽ có khoảng 1,8 tỉ người sống trong tình trạng
khan hiếm nước, đặc biệt là Bắc Trung Quốc, Trung Đông, Nam

Mỹ và phía Bắc Nam Á.
- Khoảng 330 triệu người sẽ mất chỗ ở tạm thời hoặc vĩnh viễn
do lũ lụt nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm 3 - 4oC.
- Sự suy giảm đa dạng sinh vật sẽ tăng lên nếu nhiệt độ ấm lên
khoảng 2oC.
- Các căn bệnh chết người sẽ lan rộng, có thể có thêm 400 triệu
người bị bệnh sốt rét.
4.2. Khu vực Châu Á và Đông Nam Á
Dân số Châu Á chiếm trên 60% dân số thế giới, tài nguyên thiên
nhiên đã chịu nhiều áp lực và khả năng thích ứng đối với biến đổi khí hậu
của phần lớn lĩnh vực ở Châu Á là thấp. Nền kinh tế - xã hội ở nhiều nước
phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên như nước, rừng, thảo nguyên, đồng cỏ
chăn thả và thủy sản. Mức độ biến đổi của các yếu tố khí hậu sẽ khác nhau
nhiều giữa các vùng và các quốc gia.
Đông Nam Á là khu vực bao gồm các quốc đảo và nhiều quốc gia
nằm ở những vùng bờ biển thấp hoặc những vùng ngay cửa sông, là khu
vực đặc biệt dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.
Sự tăng lên của mực nước biển là tiêu điểm chính trong nghiên cứu
của các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nói chung và các nước
Đông Nam Á, nói riêng. Tác động của mực nước biển dâng trung bình trên
11


toàn cầu đã được dự tính tại các nước Philippin, Việt Nam, Sri Lanka,
Malayxia, Bănglađet và Ấn Độ, ... . Chúng ta có thể đề cập đến một số
nước thuộc khu vực Đông Nam Á, như những thí dụ làm minh chứng cho
tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là mực nước biển dâng vào năm
2070.
Tại Inđônêxia, vào năm 2070 mực nước biển sẽ dâng cao hơn 1 m
trên phần lớn lãnh thổ Jakarta và 3,3 triệu dân ở những vùng đất thấp của

Inđônêxia sẽ phải dời chỗ ở do lũ và ngập lụt.
Tại Philippin, khi nước biển dâng cao 90 cm, những hòn đảo nhỏ,
một số điểm thuộc hệ thống tàu điện ngầm Manila và Cebu, cũng như một
số quận, huyện ở Manila và vùng bờ biển vịnh Manila, ... sẽ bị nhấn chìm
trong nước biển.
Tại Malayxia, các nghiên cứu đã khẳng định, thậm chí mực nước
biển chỉ dâng cao ở mức khiêm tốn cũng đã làm tồi tệ thêm tình trạng xói lở
vốn đã trầm trọng, đang đe dọa những vùng duyên hải và các bãi biển. Nếu
mực nước biển dâng cao 100 cm, có thể sẽ nhấn chìm phần lớn những rừng
đước rất giầu có của đất nước này.
Tại Việt Nam, mực nước biển dâng cao sẽ làm ngập phần lớn khu vực
đông dân cư thuộc các vùng cửa sông châu thổ sông Hồng và sông Cửu
Long vào năm 2070, đe dọa nghiêm trọng sản xuất lúa và an ninh lượng
thực. Nếu mực nước biển dâng cao 90 cm vào năm 2070, theo kịch bản của
CSIRO (Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp liên bang - một cơ
quan khoa học quốc gia của Australia), thì khoảng 500.000 ha ở châu thổ
sông Hồng, 1.500.000 - 2.000.000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long và
khoảng 400.000 ha rừng đước và đầm lầy ở phía Nam bị ngập. Nước mặn
xâm nhập và tác động tới khoảng 2.200.000 - 2.500.000 ha, sẽ làm giảm
khả năng thoát nước, làm ngập lụt 400 km chiều dài dọc theo sông Mê
Kông và 200 km chiều dài dọc theo sông Hồng. Nhiều thành phố, thị xã,
như cảng Hải Phòng, cảng Vũng Tầu và nhiều nơi thuộc tỉnh Bến Tre bị
ngập.
Như vậy, trong những tác động tiềm tàng rất lớn của biến đổi khí hậu
ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, sự dâng cao mực nước biển liên
quan đến ngập lụt, xói lở bờ biển, xâm nhập mặn sâu vào đất liền và tăng
cường mối đe dọa của nước dâng do bão được đánh giá là rất nghiêm trọng.
12



Nhìn chung, khuynh hướng tăng mực nước biển toàn cầu có thể được
nhìn nhận đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, với các mức độ
khác nhau, có thể lớn hơn hoặc thấp hơn mức biến đổi trung bình toàn cầu
do các biến động tự nhiên hoặc hoạt động của con người, như khai thác
nước ngầm, dầu và khí, sự biến đổi của dòng trầm tích tự nhiên.
4.3. Việt Nam
Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình đã tăng
khoảng 0,5 - 0,70C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El
Nino, La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ. Biến đổi khí hậu thực sự đã
làm cho những thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và hạn hán ngày càng khốc liệt.
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng
nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó đồng bằng sông Cửu Long là
một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển
dâng, bên cạnh đồng bằng sông Nile (Ai Cập) và đồng bằng sông Ganges
(Bangladesh). Theo các kịch bản biến đổi khí hậu, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt
độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng 2 - 30C, tổng lượng mưa năm và
lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm, mực
nước biển có thể dâng khoảng từ 75 cm đến 1 m so với thời kỳ 1980 - 1999.
Nếu mực nước biển dâng cao 1 m, sẽ có khoảng 40% diện tích đồng bằng
sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của
các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập, trong đó, thành phố Hồ Chí
Minh sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10 - 12% dân số nước ta bị ảnh
hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Tác động của biến đổi khí
hậu đối với nước ta là rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu
xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự
phát triển bền vững của đất nước.
Trong những năm qua, dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất
và cường độ thiên tai ngày càng gia tăng, gây ra nhiều tổn thất to lớn về
người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu
đến môi trường. Chỉ tính trong 10 năm gần đây (2001- 2010), các loại thiên

tai như: Bão lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và các
thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, đã làm chết và
mất tích hơn 9.500 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng
1,5% GDP/năm.
13


Biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát
triển nông nghiệp: Thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là một phần
đáng kể ở vùng đất thấp đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng, sông
Cửu Long bị ngập mặn do nước biển dâng; tác động lớn đến sinh trưởng
năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh
hại cây trồng; thời gian thích nghi của cây trồng nhiệt đới mở rộng và của
cây trồng á nhiệt đới thu hẹp lại; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng
khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm.
Do tác động của biến đổi khí hậu, tài nguyên nước phải chịu thêm
nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa, ảnh
hưởng trực tiếp đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và
sản xuất thủy điện. Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào
mùa mưa, và hạn hán vào mùa khô, tăng mâu thuẫn trong khai thác và sử
dụng tài nguyên nước.
Nhận thức rõ những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến
sự phát triển bền vững của đất nước, Chính phủ Việt Nam đã sớm tham gia
và phê chuẩn Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và
Nghị định thư Kyoto, đồng thời chỉ đạo từng bước hoàn thiện các văn bản
pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng chống và giảm nhẹ
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tháng 12 năm 2008, Chương trình
mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu đã được phê duyệt. Đây là
một trong những nỗ lực quan trọng của Chính phủ cùng với sự hỗ trợ của
cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt

Nam. Với sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, ứng phó với biến đổi khí
hậu ở nước ta đã đạt được một số thành công bước đầu được quốc tế ghi
nhận. Để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đất
nước, một chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu với tầm nhìn thế kỷ, làm
cơ sở cho các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch là rất cần thiết đối với nước
ta trong bối cảnh hiện nay.
Ngày 5/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc
gia về BĐKH kèm theo Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05 tháng 12 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó Mục tiêu Chiến lược là:
• Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn
nước, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, an sinh xã hội, sức khỏe
14


cộng đồng, nâng cao đời sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong
bối cảnh biến đổi khí hậu;
• Nền kinh tế các-bon thấp, tăng trưởng xanh trở thành xu hướng chủ
đạo trong phát triển bền vững; giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và
tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc
trong phát triển kinh tế - xã hội;
• Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực ứng phó với biến đổi
khí hậu của các bên liên quan; phát triển tiềm lực khoa học và công
nghệ, chất lượng nguồn nhân lực; hoàn thiện thể chế, chính sách,
phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính góp phần nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế và vị thế của Việt Nam; tận dụng các
cơ hội từ biến đổi khí hậu để phát triển kinh tế - xã hội; phát triển và
nhân rộng lối sống, mẫu hình tiêu thụ thân thiện với hệ thống khí hậu;
• Góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi
khí hậu; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế của Việt Nam để
ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Như vậy, BĐKH đang đe dọa ảnh hưởng xấu đến mục tiêu tăng
trưởng của đất nước và điều kiện sống của người dân. Biến đổi khí hậu là
không thể tránh khỏi và đòi hỏi Việt Nam có những hành động cụ thể và
ứng phó với những hậu quả không tránh khỏi để đảm bảo phát triển bền
vững.
II. Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường THPT
1. Vai trò, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách thức
của biến đổi khí hậu
BĐKH tác động ngày càng mạnh mẽ tới tự nhiên và đời sống xã hội
và đang gây ra những tổn thất rất nặng nề cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong những năm gần đây, Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã liên tục có lời kêu
gọi và những hoạt động rất tích cực để liên kết cộng đồng quốc tế trong
cuộc chiến chống lại BĐKH. Chính phủ Việt Nam hiện nay đang triển khai
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH một cách
toàn diện trên phạm vi toàn quốc và sát cánh với cộng đồng quốc tế trong
cuộc chiến này.
Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam được
dùng làm cơ sở ban đầu để xây dựng các giải pháp ứng phó với BĐKH tại
15


Việt Nam. Việc xây dựng kịch bản là nhằm đưa ra những thông tin cơ bản
về xu thế biến đổi khí hậu, nước biển dâng của Việt Nam trong tương lai.
Theo Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu, kịch bản biến đổi khí hậu sẽ
được sử dụng trong nghiên cứu những hậu quả của biến đổi khí hậu do con
người gây ra.
Vai trò, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông đối với những thách thức
của biến đổi khí hậu là xây dựng kế hoạch hành động cho phù hợp, giáo dục
tăng cường khả năng thích ứng của cộng đồng; ưu tiên thích ứng với
BĐKH, nhưng cần tăng cường các nỗ lực làm giảm nhẹ tác nhân gây

BĐKH. Các nội dung dạy học của THPT là giảm phát thải hiệu ứng nhà
kính :
- Áp dụng công nghệ, sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm
năng lượng;
- Tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo: điện mặt trời, điện gió;
- Trồng rừng và bảo vệ rừng;
- Cải tiến kỹ thuật tưới tiêu trong nông nghiệp.
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT
GD ứng phó với BĐKH ở trường học cho học sinh là quá trình hình
thành và phát triển cho các em nhận thức và thói quen quan tâm đối với các
vấn đề BĐKH ở địa phương mình sinh sống, ở nước ta hiện nay cũng như ở
các nước trên khu vực và trên thế giới. Thông qua đó, hình thành cho các
em thái độ, ý thức đúng đắn và các kĩ năng cần thiết để có thể có những
hành động hài hoà với môi trường trong đời sống, đồng thời cũng có thể
hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp tìm ra giải pháp cho các vấn đề
BĐKH hiện tại và ngăn chặn những vấn đề BĐKH có thể xảy ra trong
tương lai.
Giáo dục ứng phó với BĐKH được tích hợp vào nhiều môn học ở
trường THPT, trong đó có môn Sinh học. Bộ môn Sinh học là một trong
những bộ môn có khả năng đưa giáo dục biến đổi khí hậu vào một cách
thuận lợi nhất vì hầu hết các nội dung trong chương trình sinh học 10, 11,
12 đều có khả năng đề cập đến các nội dung biến đổi khí hậu (BĐKH). Các
kiến thức BĐKH trong môn Sinh học có thể phân biệt thành 2 nhóm:


Hình thành kiến thức về biến đổi khí hậu
16


- Khái niệm về BĐKH;

- Những biểu hiện của sự BĐKH;
- Nguyên nhân của biến đổi khí hậu;
- Tác động của BĐKH đối với tự nhiên và mọi mặt hoạt động
của con người;
- Chiến lược ứng phó với BĐKH nói chung và của các địa
phương nói riêng.
Hình thành thái độ, hành vi ứng phó biến đổi khí


hậu:

- Có ý thức bảo vệ môi trường;
- Có ý thức sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên;
- Có tình cảm yêu quý quê hương, đất nước, yêu quí thiên
nhiên và tôn trọng các di sản văn hóa;
- Có ý thức giảm nhẹ BĐKH và tích cực, chủ động đối phó
với những thách thức do BĐKH gây ra theo phương châm tại
chỗ, dựa vào sức mình là chính.
Tuy nhiên, khi soạn giáo án người giáo viên cần xem xét, nghiên cứu
và chọn lọc những nội dung giáo dục biến đổi khí hậu (GD BĐKH) phù
hợp để đưa vào nội dung bài giảng dưới dạng lồng ghép toàn phần (nếu
toàn bài có nội dung BĐKH), lồng ghép một phần (trong bài có một mục,
một đoạn hay một vài câu có nội dung BĐKH), liên hệ (nếu kiến thức trong
bài có một hoặc nhiều chỗ có khả năng liên hệ, bổ sung thêm kiến thức
BĐKH mà SGK chưa đề cập).
3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong
trường THPT
Biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng trở nên rõ rệt và Việt
Nam là một trong những nước chịu tác động mạnh nhất. Vì vậy, không
những khó đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ (MDG) vào năm

2015 mà các kết quả hiện tại cũng khó được duy trì và có khả năng bị phá
vỡ.
Trong Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
cũng như trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015 đã
đề ra những định hướng phát triển lớn. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để
17


đưa ra những giải pháp cụ thể đối phó với những trở ngại và thách thức
trong từng mục tiêu, lồng ghép những giải pháp đó trong các kế hoạch và
chương trình hành động.


Hình thành kiến thức môi trường



Các nguyên lí sinh thái áp dụng cho môi trường: môi trường

và các nhân tố sinh thái, ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái lên cơ
thể sinh vật, quần thể và đặc trưng của quần thể, quần xã và đặc
trưng của quần xã, hệ sinh thái và đặc trưng của các hệ sinh thái;


Môi trường và con người;



Tài nguyên và môi trường;




Bảo vệ môi trường mà cốt lõi là bảo vệ cân bằng sinh thái.



Hình thành thái độ, hành vi về môi trường



Hình thành thái độ, hành vi bảo vệ môi trường;



Hình thành thái độ, hành vi sử dụng hợp lí tài nguyên, môi

trường;


Hình thành thái độ, hành vi chống ô nhiễm môi trường.

4. Tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT
4.1. Quan niệm về giáo dục tích hợp
Quan điểm tiếp cận tích hợp cho phép xem xét các sự vật, hiện tượng
trong một cách nhìn tổng thể đang trở thành xu hướng tất yếu trong thời đại
ngày nay. Trong giáo dục, có thể tiếp cận tích hợp theo nhiều kiểu khác
nhau, trong đó 2 kiểu tích hợp rất phổ biến là tích hợp kiến thức và tích hợp
dạy học. Tích hợp kiến thức là sự liên kết, kết hợp, lồng ghép trí thức của
các khoa học khác nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất. Tích hợp
dạy học là quá trình dạy học trong đó có sự lồng ghép, liên hệ những tri

thức khoa học, những qui luật chung gần gũi với nhau, qua đó người học
không chỉ lĩnh hội được tri thức khoa học của môn học chính mà cả tri thức
của khoa học được tích hợp, từ đó mà hình thành cho người học cách nhìn
khái quát hơn đối với các khoa học có cùng đối tượng nghiên cứu, đồng
thời có được phương pháp xem xét vấn đề một cách logic, biện chứng.
Có hai dạng tích hợp các nội dung học tập như sau:
• Dạng tích hợp thứ nhất: đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều
18


môn học (chẳng hạn các vấn đề năng lượng, bảo vệ môi trường, ...).
Dạng tích hợp này vẫn duy trì các môn học riêng rẽ, trong khi các ứng
dụng chung được tích hợp vào các thời điểm thích hợp. Đây là cách
tích hợp được vận dụng phổ biến hiện nay. Các thời điểm thực hiện có
thể là: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở
cuối năm học hay cuối cấp học trong một bài học hoặc một bài tập tích
hợp; Phối hợp các quá trình học tập của nhiều môn học khác nhau.
• Dạng tích hợp thứ hai : thường dẫn đến phải phối hợp quá trình
dạy học của các môn học. Dạng tích hợp này nhằm hợp nhất hai hay
nhiều môn học thành một môn học duy nhất. Điều này đòi hỏi phải
nghiên cứu xây dựng chương trình và tài liệu học tập phù hợp, thường
phức tạp. Phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng
đề tài tích hợp. Theo đó, người ta nhóm các nội dung có mục tiêu bổ
sung cho nhau thành đề tài tích hợp, trong khi các môn học vẫn giữ
nguyên những mục tiêu riêng; Phối hợp quá trình học tập những môn
học khác nhau bằng tình huống tích hợp, theo đó các môn học được
tích hợp xung quanh những mục tiêu chung. Những mục tiêu chung
này gọi là mục tiêu tích hợp. Dạng tích hợp này có nhiều ưu điểm là
nó dạy cho học sinh giải quyết những tình huống phức hợp bằng cách
vận dụng kiến thức từ nhiều môn học trong một tình huống gần với

cuộc sống.
Phương thức tích hợp các môn học hay dạy học tích hợp (DHTH) đã
được vận dụng tương đối phổ biến ở nhiều nước. Ở Việt Nam, đã có nhiều
môn học, cấp học quan tâm vận dụng tư tưởng sư phạm tích hợp vào quá
trình dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục HS (như các môn Sinh học,
Địa lí, Ngữ văn, ... và đưa các nội dung giáo dục vào các môn học, …).
DHTH được hiểu là một quá trình dạy học sao cho trong đó toàn bộ các
hoạt động học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự
tính trước những điều cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình
học tập tiếp theo và chuẩn bị cho HS bước vào cuộc sống lao động. Mục
tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao chất lượng giáo dục
HS phù hợp với các mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường. DHTH
hướng tới việc tổ chức các hoạt động học tập, trong đó HS học cách sử
dụng phối hợp các kiến thức và kĩ năng trong các tình huống có ý nghĩa và
gần với cuộc sống. Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức của HS
19


từ các môn học khác nhau được huy động và phối hợp với nhau, tạo thành
một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ lí luận và thực tiễn
được đề cập trong các môn học đó. DHTH có các đặc trưng chủ yếu sau:
làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa, bằng cách gắn quá trình học tập
với cuộc sống hàng ngày, không làm tách biệt “thế giới nhà trường với thế
giới cuộc sống”; làm cho quá trình học tập mang tính mục đích rõ rệt; sử
dụng kiến thức của nhiều môn học và vượt lên trên các nội dung môn học.
Vận dụng DHTH là một yêu cầu tất yếu của nhiệm vụ dạy học, đó không
phải là một thủ thuật sư phạm nhằm đưa một số nội dung giáo dục vào các
môn học, mà là một tư tưởng và là một lí thuyết giáo dục hướng vào việc
phát triển toàn diện HS theo các yêu cầu của mục tiêu giáo dục. Như Luật
Giáo dục (2005) đã nêu: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp HS phát

triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều môn học đã được
đưa vào nhà trường phổ thông hiện nay là thể hiện quá trình thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện HS. Các môn học đó phải liên kết với nhau. Mặt
khác, xu thế các tri thức và kinh nghiệm xã hội của loài người phát triển
như vũ bão hiện nay, trong khi quỹ thời gian cũng như kinh phí để HS ngồi
trên ghế nhà trường là có hạn, thì không thể đưa nhiều môn học hơn nữa
vào nhà trường cho dù những tri thức này là rất cần thiết. Vì vậy, việc dạy
học tích hợp các khoa học trong nhà trường là một giải pháp quan trọng. Lí
do khác cần DHTH các khoa học trong nhà trường còn xuất phát từ chính
yêu cầu phát triển của các khoa học. Các nhà khoa học cho rằng khoa học ở
thế kỉ XX đã chuyển từ phân tích cấu trúc lên tổng hợp hệ thống làm xuất
hiện các liên ngành. Vì vậy, xu thế dạy học trong nhà trường là phải làm sao
cho tri thức của HS xác thực và toàn diện. Quá trình dạy học phải làm sao
liên kết, tổng hợp hóa các tri thức, đồng thời thay thế “tư duy cơ giới cổ
điển” bằng “tư duy hệ thống”. Theo Xavier Rogiers, nếu nhà trường chỉ
quan tâm dạy cho HS các khái niệm một cách rời rạc thì nguy cơ sẽ hình
thành ở HS các suy luận khép kín, sẽ hình thành những con người “mù
chức năng”, nghĩa là những người đã lĩnh hội kiến thức nhưng không có
khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày (Nguồn: Xavier Rogiers,
20


Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà
trường. NXB Giáo dục, 1996). Từ góc độ giáo dục, DHTH giúp phát triển
các năng lực, đặc biệt là trí tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy của
HS, vì nó luôn tạo ra các tình huống để HS vận dụng kiến thức trong các

tình huống gần với cuộc sống. Nó cũng làm giảm sự trùng lặp các nội dung
dạy học giữa các môn học, góp phần giảm tải nội dung học tập.
Hiện nay, DHTH đã được vận dụng để đưa các nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường, GD BĐKH vào các môn học ở trường phổ thông. Do đặc
điểm cấu trúc chương trình và sách giáo khoa các môn học ở trường THPT
hiện nay hướng đến tính hệ thống chặt chẽ của nội dung, tính khoa học bộ
môn tương đối sâu, nên việc đưa các nội dung giáo dục chống BĐKH vào
các môn học cũng phải thực hiện bằng con đường DHTH, tương tự như
việc đưa các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn học. Tuy
vậy, khi thực hiện tích hợp các nội dung giáo dục chống BĐKH vào các
môn học, GV cũng cần liệt kê các nội dung GD BĐKH trong mỗi môn học
và các GV cần phối hợp với nhau để các kiến thức về BĐKH liên kết được
với nhau, đạt hiệu quả cao hơn và tránh được sự trùng lặp, quá tải đối với
HS.
Sự tích hợp kiến thức GD BĐKH vào môn học có thể phân thành 2
dạng :
a) Dạng lồng ghép
Ở dạng này các kiến thức GD BĐKH đã có trong chương trình và
sách giáo khoa (SGK) và trở thành một bộ phận kiến thức của môn học.
Trong SGK THPT, kiến thức GD BĐKH được lồng ghép có thể :
- Chiếm một vài chương : các kiến thức về giáo dục chống
BĐKH nằm ở một số chương có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy,
khi dạy GV cần làm rõ sự gắn kết, quan hệ giữa các kiến thức về
giáo dục chống BĐKH ở các chương đó;
- Chiếm một hoặc một số bài trọn vẹn (lồng ghép toàn phần): hầu
hết các kiến thức của bài học cũng chính là các kiến thức về giáo
dục chống BĐKH. Khi đó mục tiêu của bài học cũng chính là mục
tiêu giáo dục chống BĐKH. Ở những bài này, GV tiến hành giảng
dạy bình thường như những bài dạy khác chỉ cần sưu tầm thêm
những tư liệu hỗ trợ để bài học thêm sinh động và tạo hứng thú cho

21


HS);
- Chiếm một mục, một đoạn hay một câu trong bài học (lồng
ghép một phần) : một phần kiến thức của bài học có nội dung về
giáo dục chống BĐKH. Ở những bài này, GV có thể tích hợp các
nội dung giáo dục chống BĐKH trong một số phần nội dung của
bài học. Tuy nhiên, GV cần phân phối thời gian sao cho hợp lí với
cấu trúc chung của bài học. Tránh những trường hợp quá lạm dụng
hay coi trọng nội dung giáo dục chống BĐKH mà không chú ý tới
những nội dung khác của bài học.
b) Dạng liên hệ
Ở dạng này, các kiến thức GD BĐKH không được đưa vào chương
trình và SGK, nhưng một số nội dung của môn học có liên quan tới vấn đề
GD BĐKH (không nêu rõ trong nội dung của bài học).
Trong trường hợp này GV phải khai thác kiến thức môn học và liên
hệ chúng với các nội dung về ứng phó với BĐKH. Dựa vào nội dung bài
học, GV có thể bổ sung kiến thức GD BĐKH có liên quan với bài học qua
giờ giảng lên lớp.
Liên hệ là kiểu tích hợp phổ biến cho đa số các môn học, tuy nhiên
tiếp cận theo kiểu này, giáo viên dạy bộ môn không những phải thành thạo
kiến thức môn chính cần phải thành thạo cả kiến thức GD BĐKH thì mới
có thể nhận ra mối liên quan giữa chúng, tiếp theo đó là phải lựa chọn biện
pháp dạy học cũng như nội dung GD BĐKH để liên hệ trong từng nội dung
bài học một cách phù hợp. Dạng liên hệ có ưu điểm là rất linh hoạt và giáo
viên có thể cập nhật thường xuyên các kiến thức về môi trường khi đưa vào
bài học.
Tóm lại, tích hợp trong phạm vi GD BĐKH là một khái niệm chung,
nói về một phương thức, một cách tiến hành dạy học về BĐKH cho học

sinh. Cách này không đòi hỏi phải có một môn học riêng, bởi vì các kiến
thức GD BĐKH được đưa xen vào nội dung các môn học đã có ở trường
THPT. Tích hợp là sự kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức GD
BĐKH và kiến thức môn học thành một nội dung thống nhất, gắn bó chặt
chẽ với nhau dựa trên những mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập
trong bài học.
4.2.Phương pháp giáo dục tích hợp
22


Nội dung BĐKH được tích hợp trong nội dung của các môn học nên
các phương pháp GD BĐKH cũng được tích hợp vào các phương pháp
giảng dạy bộ môn. Tuy nhiên, muốn đạt được mục tiêu của GD BĐKH là
không chỉ giúp cho người học có kiến thức mà phải hình thành cho họ sự
quan tâm, hành vi đối với BĐKH thì không chỉ dừng lại ở phương pháp
truyền thống mà nên kết hợp với việc sử dụng các phương pháp tích cực,
việc sử dụng phương pháp này sẽ phát huy tính chủ động, sáng tạo của
người học. Một số phương pháp dạy học có thể sử dụng là :
4.2.1 Phương pháp trần thuật
Phương pháp trần thuật là một phương pháp dạy học trong nhóm
phương pháp dùng lời. Ở phương pháp này, GV dùng lời thuật lại tài liệu
học tập một cách tuần tự với những diễn biến chi tiết (mô tả những hiện
tượng, quá trình trong tự nhiên, kể lại lịch sử một phát minh khoa học, ...).
Ưu điểm của phương pháp này là cung cấp lượng thông tin lớn có hệ thống
trong khoảng thời gian có hạn, tác động đến tình cảm của HS, ... .
Ví dụ: có thể mô tả, thuật lại cho học sinh những biểu hiện, hậu quả
của BĐKH, các hoạt động gây BĐKH, những biến đổi bất thường của thiên
nhiên do các hoạt động sinh hoạt và hoạt động sản xuất của con người.
4.2.2. Phương pháp giảng giải
Phương pháp giảng giải cũng là một phương pháp dạy học trong nhóm

phương pháp dùng lời. Ở phương pháp này, GV dùng lời để giải thích các
thuật ngữ, phân tích cơ chế của quá trình, nguyên nhân của hiện tượng; nêu
ra những dẫn chứng, dẫn ra những cứ liệu để làm rõ vấn đề.
Ví dụ: Khi nói về hiện tượng nóng lên toàn cầu thì nêu rõ nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng nhiệt độ nóng lên, giải thích rõ vì sao khí CO 2, CH4 tăng
cao, vì sao tầng ôzôn đang bị mỏng dần, ... .
2.2.3. Phương pháp vấn đáp (đàm thoại)
Phương pháp vấn đáp cũng là một phương pháp dạy học trong nhóm
phương pháp dùng lời. Trong phương pháp này, giáo viên đưa ra câu hỏi,
học sinh trả lời, hoặc học sinh hỏi, giáo viên trả lời hoặo trao đổi giữa học
sinh và học sinh ... . Tùy thuộc vào nội dung kiến thức, vốn kiến thức của
HS, đặc điểm hoạt đọng nhận thức của HS, GV có thể sử dụng phương
pháp vấn đáp – tái hiện hay vấn đáp – giải thích, minh họa hay vấn đáp –
tìm tòi bộ phận. Sử dụng phương pháp vẫn đáp không chỉ rèn kĩ năng diễn
23


dạt cho HS mà còn thu được thông tin ngược nhanh nhất về nhận thức, kĩ
năng, thái độ của cá nhân HS.
Ví dụ: “Vì sao nhiệt độ của trái đất ngày càng tăng ?”
“Điều gì sẽ xảy ra nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng ?”
“Sẽ ra sao nếu trên trái đất không có cây xanh ?”
“Từ những hiểu biết thực tế, hãy kể tên những hoạt động
gây BĐKH”.
Việc sử dụng các câu hỏi này khuyến khích học sinh quan tâm đến các
vấn đề BĐKH và dự đoán các vấn đề BĐKH sẽ xảy ra trong tương lai.
4.2.4. Phương pháp trực quan
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học mà phương tiện trực
quan là nguồn thông tin chủ yếu dẫn tới những tri thức đồng thời là phương
tiện giao tiếp chủ yếu giữa GV và HS.

Các phương tiện trực quan như: tranh ảnh, đồ thị, bảng biểu, băng
hình video, ... là những phương tiện rất hữu ích cho việc dạy học tích hợp
GD BĐKH. Việc sử dụng các phương tiện trực quan gây được chú ý, hứng
thú học tập cho học sinh, đồng thời giúp HS lĩnh hội tri thức một cách dễ
dàng, hiểu sâu và nhớ lâu. Đặc biệt băng hình video là một loại phương tiện
có nhiều ưu điểm.
Giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh về những hậu quả của BĐKH để
GD BĐKH.: hậu quả của lũ lụt, hạn hán, ...; hình ảnh những loài thú quí
hiếm đang có nguy cơ bị mất nơi ở do tác động của BĐKH; những di tích
lịch sử, phong cảnh đẹp đang có nguy cơ bị tàn phá do ảnh hưởng xấu của
BĐKH; biểu đồ sự biến đối nhiệt độ trái đất, ...
Hệ thống phương tiện trực quan có thể do giáo viên tự sưu tầm hoặc
giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm từ các nguồn: sách, báo, tạp chí, mạng
internet, ... .
Khi lựa chọn và sử dụng phương tiện trực quan, GV cần chú ý :
- Nội dung tranh ảnh, băng hình phải phù hợp với nội dung bài
học và có ý nghĩa trong việc GD BĐKH. Ví dụ: các băng hình về
hạn hán, lũ lụt ở Việt Nam và các nước trên thế giới, khí thải CFC
tác động làm mỏng tầng ôzôn, việc khai thác rừng bừa bãi, rác thải
quá sức chứa của môi trường làm tăng khí CH4, ... ;
24


- Tranh ảnh, băng hình đủ lớn, đủ rõ ;
- Số lượng loại phương tiện trực quan và thời gian sử dụng hợp lí ;
- Phối hợp sử dụng các loại phương tiện trực quan ;
- Hướng dẫn HS quan sát trước khi chiếu phim và nêu rõ nhiệm
vụ sau khi xem phim hoặc quan sát tranh ảnh, đồ thị (hệ thống các
câu hỏi để HS trả lời sau khi xem).
2.2.5. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ

Lớp được chia thành các nhóm nhỏ (mỗi nhóm 4 – 6 người) được
duy trì ổn định trong cả tiết học hay thay đổi tùy theo hoạt động. Các nhóm
được giao cùng nhiệm vụ hoặc các nhiệm vụ khác nhau.
• Các bước tiến hành
+ Làm việc chung cả lớp: GV nêu vấn đề, phân công nhiệm vụ
cho các nhóm, cung cấp nguồn tài liệu tham khảo.
+ Làm việc theo nhóm: Từng cá nhân làm việc độc lập → Trao
đổi ý kiến trong nhóm (chú ý: mỗi nhóm bầu một nhóm trưởng và
thư kí ghi chép các ý kiến thảo luận) → Các nhóm báo cáo thảo
luận dưới nhiều hình thức: nói, bài viết, kết hợp với hình ảnh. Trong
quá trình thảo luận giáo viên làm nhiệm vụ quan sát theo dõi và
không tham gia thảo luận.
+ Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp: Các nhóm lần lượt báo
cáo kết quả → Thảo luận chung → Giáo viên tổng kết ý kiến của
các nhóm.
• Ví dụ: Chủ đề Ô nhiễm môi trường
+ Làm việc chung:
- GV nêu vấn đề: GV nêu 4 câu hỏi sau:
Ô nhiễm môi trường là gì?
Các tác nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí?
Khí CO2 tăng lên sẽ gây hậu quả gì?
Nêu các biện pháp làm giảm sự gia tăng khí CO2 trong khí quyển.
- Chia nhóm: Mỗi nhóm 6 học sinh
+ Làm việc theo nhóm:

25


×