Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp ở hà nội vấn đề và giải pháp (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.34 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

NGUYỄN THỊ LÊN

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO
HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
Ở HÀ NỘI - VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ
: 60 22 80

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN THÀNH

HÀ NỘI - 2007


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Dân tộc Việt Nam, một dân tộc có bề dày lịch sử. Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước,
con người Việt Nam đã tạo dựng cho mình những giá trị truyền thống tốt đẹp mang bản sắc của dân tộc
Việt Nam. Những giá trị truyền thống ấy đã trở thành một “kháng thể”, một sức mạnh nội sinh để dân
tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách và trường tồn trong lịch sử.
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Xu thế toàn cầu hoá
và cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích cực cũng, đặt ra hàng loạt những nguy cơ và thách thức đối với
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, nhất là lĩnh vực văn hoá, đạo đức xã hội. Đó là chiều hướng bị
nhất thể hoá, phương Tây hoá, hoà tan vào thế giới, đánh mất đi bản sắc, cốt cách của dân tộc mình; là


sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội, đặc biệt là lối
sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo cho mọi giá trị; sẵn sàng quay lưng với
những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống dân tộc. Điều đáng quan tâm hơn nữa là ngay cả Hà Nộivùng đất “địa linh nhân kiệt” với lịch sử ngàn năm văn hiến; nơi hội tụ, giao thoa các giá trị truyền thống
của dân tộc; người Hà Nội vốn có tiếng là tài hoa, thanh lịch…thì giờ đây một bộ phận không nhỏ, đặc
biệt là một bộ phận thanh niên, học sinh Hà Nội đã quá “nhạy cảm” với cái mới mà khước từ những giá
trị truyền thống. Lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đang từng ngày,
từng giờ làm băng hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế
giới làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc
hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lí sùng bái đồng tiền, bất chấp
đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn” [17, tr.111].
Tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc phần lớn vào thế hệ trẻ nói chung, học sinh, sinh viên nói
riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng được một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nếu thế hệ trẻ Việt Nam phai nhạt lý
tưởng, tự đánh mất đi bản sắc, đạo đức truyền thống dân tộc? Trong điều kiện mới của đất nước, để
không bị “hoà tan” trong xu thế “hội nhập”, để không trở thành “cái bóng mờ” của dân tộc khác thì hơn
bao giờ hết thế hệ trẻ Việt Nam cần phải được trang bị đầy đủ “hành trang” để đi vào tương lai. Một
trong những yếu tố không thể thiếu trong “hành trang” ấy là những giá trị đạo đức truyền thống của mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nó sẽ là một kháng thể, một sức mạnh nội


sinh để thế hệ trẻ - học sinh, sinh viên Việt Nam nói chung và học sinh Thủ đô Hà Nội nói riêng vượt
qua mọi cám dỗ, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại. Do vậy, vấn đề
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng và cần được quan tâm, chú
trọng nhiều hơn nữa. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
học sinh các trường Trung cấp chuyên nghiệp ở Hà Nội – vấn đề và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đã có nhiều công

trình khoa học đi sâu nghiên cứu, nhằm xác định các giá trị tinh thần truyền thống dân tộc làm cơ sở cho
việc xây dựng đời sống văn hoá và con người trong sự nghiệp cách mạng XHCN. Một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu có thể kể đến như : "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ
biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí
Cộng sản, số 3- 1981. Năm 1982 Viện Mác- Lênin và Tạp chí Cộng sản đã tổ chức hội nghị khoa học đầu
tiên về chủ đề "Giá trị văn hoá tinh thần của Việt Nam "Các tham luận trình bày tại hội nghị đã được in
trong hai tập sách lấy tên "Về giá trị văn hoá tinh thần Việt Nam" do Nxb Thông tin lý luận ấn hành năm
1983, trong đó đề cập đến một số vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam và khẳng định một số nội dung cơ bản trong các giá trị truyền thống
cần được kế thừa, giáo dục và phát triển trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần ở nước ta. Đặc biệt
từ sau khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, nhiều giá trị
truyền thống của dân tộc có chiều hướng bị mai một, làm mất đi bản sắc, cốt cách dân tộc thì vấn đề giáo
dục, giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc càng được nghiên cứu và khai thác nhiều
hơn dưới các khía cạnh khác nhau. Trong đó đặc biệt phải kể đến một số bài viết và các công trình, đề tài
nghiên cứu như : "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta"
của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5- 1986 ; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4-1992 ;
"Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy
Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994 ; "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay", Chương trình
Khoa học công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX-07-02 do Phan Huy Lê chủ biên, 1994 ; "Sự biến đổi định
hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí
Triết học,số 5-1995 ; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng
Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2-1998 ; "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn
Văn Lý, 2000 ; "Vấn đề kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hoá", Luận văn
Thạc sĩ Triết học của Mai Thị Quý, 2001 ; "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho
thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2-2001; "Giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Trần
Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5-2002 ; "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết



học, số 6-2002 ; "Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với sự biến đổi các giá trị truyền thống
của người Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Học, 2003 ; "Vấn đề giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay" Luận văn Thạc sĩ Triết học của Doãn Thị Chín,
2004...
Như vậy, vấn đề đạo đức truyền thống và giáo dục đạo đức truyền thống đã được nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến. Tuy nhiên hầu như chưa có công trình, đề tài khoa học hay bài viết
nào tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho đối tượng học sinh các trường
Trung cấp chuyên nghiệp.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tương Hồ Chí Minh, tiếp thu có
chọn lọc những thành quả của các nhà khoa học và bám sát yêu cầu thực tiễn nước ta hiện nay, trong
phạm vi đề tài này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
đối tượng học sinh các trường Trung cấp chuyên nghiệp ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích : Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết và phân tích thực trạng của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho học sinh các trường Trung cấp chuyên nghiệp ở Hà Nội, đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh Trung cấp chuyên nghiệp trong
điều kiện hiện nay.
*Nhiệm vụ :
- Làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và sự cần thiết của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh các trường TCCN ở Hà Nội hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh các trường TCCN ở
Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho
học sinh TCCN ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh
các trường TCCN.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho

đối tượng học sinh các trường TCCN trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận : Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc, về đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ...


* Phương pháp nghiên cứu : Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử và
logíc, kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và điều tra xã hội
học...
6. Đóng góp của luận văn.
- Góp phần làm rõ sự cần thiết phải giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh
TCCN nói chung và học sinh các trường TCCN ở Hà Nội nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy hoặc tổ
chức giáo dục đạo đức truyền thống trong các nhà trường và các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội đóng
trên địa bàn Hà Nội.

7. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN
NGHIỆP Ở HÀ NỘI HIỆN NAY.

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ “giá trị” ra đời cùng với sự ra đời của triết học; vấn đề “giá trị” đã được đặt ra trong
triết học Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp thời cổ đại. Đến cuối thế kỉ XVIII, khái niệm “giá trị” xuất hiện gắn
liền với việc xem xét lại cách luận chứng truyền thống về đạo đức học đặc trưng cho thời kỳ cổ đại và

trung cổ. Đến thế kỉ XIX, khái niệm “giá trị” được đề cập một cách đầy đủ hơn bởi các nhà giá trị học
như Lôtxơ, Nitzh, Hacman, Điuây… Theo từ điển triết học giản yếu (dịch) “Giá trị là khái niệm triết học
và xã hội học chỉ ý nghĩa của các hiện tượng vật chất cũng như tinh thần có khả năng thoả mãn nhu cầu,
phục vụ lợi ích của con người” [53, tr.175].
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Xô Viết thì “Giá trị là sự khẳng định hay phủ định ý nghĩa của
các đối tượng thế giới xung quanh đơn vị con người, giai cấp, nhóm của toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị
được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của


các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối
quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên
tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng tâm thế và mục đích”[70, tr.51-52].
Còn theo các nhà nghiên cứu Viện Lịch sử kinh điển ở Lai-xích (Đức) thì “Giá trị giống như là
điểm tích tụ về tư tưởng của một giai cấp hoặc của một chế độ xã hội nhất định. Điều đó có nghĩa là giá
trị thể hiện một cách lịch sử cụ thể các mục tiêu, quy tắc, lý tưởng về lợi ích xã hội, các yêu cầu của một
chế độ xã hội và của một giai cấp nhất định. Do đó, trong nhiều trường hợp giá trị là định hướng phát
triển cơ bản trong đời sống tinh thần nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định” [29, tr.54].
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giá trị và đã đưa ra những quan
điểm, những định nghĩa khác nhau. Song, ở đây chúng tôi thống nhất với quan điểm: “Giá trị trước hết là
một phạm trù triết học dùng để chỉ sự đánh giá những thành quả lao động sáng tạo vật chất và tinh thần
của con người, nó có tác dụng định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động của xã hội nhằm vươn
tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội”[60,tr.18].
Như vậy, giá trị là tất cả những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn liền với cái hay, cái đúng, cái đẹp
và có khả năng định hướng tích cực cho hành động của con người theo hướng Chân - Thiện – Mỹ, góp
phần vào sự phát triển của xã hội. GS. Nguyễn Trọng Chuẩn, trong “Vấn đề khai thác các giá trị truyền
thống vì mục tiêu phát triển” khẳng định: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính
diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến
cái có khả năng thôi thúc con người hành động và vươn tới” [9, tr.136].
Giá trị rất phong phú và đa dạng, do vậy trên thực tế cũng có rất nhiều cách phân loại. Căn cứ vào
lĩnh vực hoạt động, có giá trị kinh tế, giá trị khoa học…; căn cứ vào không gian, có giá trị nội sinh và giá

trị ngoại nhập; căn cứ vào thời gian, có giá trị truyền thống và giá trị hiện đại; căn cứ vào tính chất chung
nhất của giá trị, có hai loại là giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế - xã hội, gắn bó trực tiếp với tồn tại xã hội,
quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Giá trị vật chất là cơ sở sản sinh các giá trị tinh
thần, suy cho cùng nó quyết định nội dung, tính chất, phương hướng phát triển của giá trị tinh thần. Giá
trị tinh thần thể hiện trong lĩnh vực ý thức xã hội, nó là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý
chí… được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, phong tục tập
quán…
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội, được con người lựa
chọn nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội.
Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.


Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, giá trị đạo đức
được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh
và chuẩn hoá hành vi con người. Tuy nhiên, giá trị đạo đức cũng không nhất thành, bất biến mà có biến
đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm “truyền thống”, theo gốc từ Latinh được viết là “Trađio” nguyên nghĩa của nó là
“truyền lại”, “giao lại”, “nhường lại” và “phân phát”.
Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về “truyền thống”. Theo GS. Trần Văn
Giàu, “Truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và
hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực cũng có thể tiêu cực”[23, tr.101].
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn thì cho rằng “Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những
yếu tố di tồn của văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen, lối
sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được
truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài”[10, tr.19].
Như vậy, có thể coi truyền thống dân tộc là phức hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập
quán, thói quen, lối sống, ý chí… của chính dân tộc đó. Nó được hình thành trong quá trình lịch sử lâu
dài, đã trở nên ổn định mang đặc trưng dân tộc và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống là
một bộ phận của ý thức xã hội mà ý thức xã hội lại luôn chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bởi vậy,

truyền thống của một dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do con người tự lựa chọn cho
mình. Nó được hình thành, được quy định bởi chính điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội mà dân tộc đó đã
trải qua. Song phải thừa nhận rằng, truyền thống là một trong những yếu tố bền vững nhất, khó thay đổi
nhất trong ý thức xã hội, cho dù tồn tại xã hội đã thay đổi. Chính vì tính bền vững, tính bảo thủ của truyền
thống, nên trong mỗi thời điểm nhất định, bao giờ nó cũng mang tính hai mặt: mặt giá trị và mặt phản giá
trị. Có những truyền thống tích cực tạo ra được sức mạnh cho dân tộc, lại có những truyền thống tiêu cực
cản trở sự phát triển của dân tộc; có những truyền thống trước đây có giá trị tích cực, nhưng khi điều kiện
lịch sử - xã hội thay đổi, nó không còn giá trị nữa, thậm chí trở thành sức cản rất lớn. Về vấn đề này,
trong tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapáctơ”, C.Mác đã viết: “Truyền thống của tất cả
những thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống”. Do vậy, không nên quan
niệm truyền thống nào cũng tốt đẹp, mà từ những điều đã trình bày trên, ta cần lưu ý, có hai loại truyền
thống: cái lạc hậu, lỗi thời - cần khắc phục; cái tạo nên giá trị và bản sắc - cần kế thừa, phát huy và phát
triển. Cái tạo nên giá trị và bản sắc – đó chính là các giá trị truyền thống.
Vì vậy, “Khi nói đến giá trị truyền thống thì hàm ý đã muốn nói tới những giá trị tương đối ổn
định, tới những giá trị là tốt đẹp, là tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc dân tộc; có khả năng truyền lại qua
không gian, thời gian, những gì cần phải bảo vệ và phát triển”[11, tr.753].


Giá trị truyền thống tiêu biểu cho bản sắc dân tộc, tuy vậy, nó vẫn biến đổi chứ không phải nhất thành
bất biến. Sự biến đổi đó diễn ra nhanh hay chậm, tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó điều kiện kinh tế - xã
hội là quan trọng.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành hệ giá trị tinh thần của mỗi dân tộc; nó là
nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Nói đến giá trị đạo đức truyền thống là nói đến những chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp, tiêu biểu của một dân tộc được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cho nên khi nói đến giá trị đạo đức truyền thống cũng là nói đến những giá trị đạo đức được hình thành
và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc, nó có tính “di truyền xã hội”.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được thử thách qua nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau; nó được hun đúc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Vượt qua
những diễn biến phức tạp của lịch sử dân tộc, các giá trị đạo đức truyền thống đó khẳng định



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Anh(2002), “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hoá gia đình truyền thống
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr.17-20.
2. Lê Thị Tuyết Ba(2002), “Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học (5), tr.26-28.
3. Lương Gia Ban(1999), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương(2007), Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương(2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Chí Bảo(1998), “Đổi mới ở Việt Nam, một số vấn đề triết học về con người và xã
hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.24-29.
7. Bộ giáo dục và đào tạo(1996), Định hướng giáo dục giá trị đạo đức trong các trường đại học
(kỷ yếu hội thảo khoa học), Hà Nội.
8. Bộ giáo dục và đào tạo(2005), Luật giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn(1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển”, Tạp chí Triết học (2), tr.16-19.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn(2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn(2002), Một số vấn đề triết học – con người – xã hội, Nxb khoa học xã
hội, Hà Nội.
12. Thành Duy(1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam(1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam(1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam(1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự
thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam(1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương
khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam(1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


18. Đảng Cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam(2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
20. Phạm Duy Đức (2001), “Xây dựng lối sống và đạo đức xã hội ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hoá ở Thủ đô Hà Nội thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Viện Văn hoá và
Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.212-213.
21. Trần Văn Giàu(1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
22. Trần Văn Giàu(1983), Trong dòng chủ lưu văn hoá Việt Nam – tư tưởng yêu nước, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Trần Văn Giàu(1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tọc Việt Nam,Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
24. Lương Việt Hải(2002), “Sự phân hoá giàu nghèo trong kinh tế thị trường và các giá trị đạo
đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học,(8), tr.23-27.
25. Nguyễn Hùng Hậu(2002), “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong có chế thị
trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8), tr.29-32.
26. Cao Thu Hằng (2003), "Giáo dục giá trị đạo đức trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Triết học
(11),tr.60-63.
27. Nguyễn Phương Hoàng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Học (2003), Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự biến đổi các
giá trị truyền thống của người Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ triết học, Đại học Khoa học xã hội

và nhân văn, Hà Nội.
29. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giá trị lý luận văn hóa và đường lối văn
hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Mai Xuân Hợi (3002), "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội", Tạp
chí Triết học, (3), tr.25-27.
31. Đỗ Lan Hiền (2002), "Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh kinh tế thị trường", Tạp chí
Triết học, (4), tr16-19.
32. Đỗ Huy (1996), "Văn hoá Việt Nam trong sự thống nhất và đa dạng", Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.


33. Nguyễn Sinh Huy (1995), "Một số biểu hiện xung đột giá trị trong

lĩnh vực đạo đức của đời

sống xã hội", Tạp chí Triết học,(1), tr.15-19.
34. Vũ Khiêu (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Đoàn Văn Khiêm (1996), "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh
niên trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Triết học, (2), tr.10 - 13.
36. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo
đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Thế Kiệt(2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài nghiên cứu hoa học
cấp bộ, Hà Nội.
38. La Quốc Kiệt (chủ biên) (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
39. Lê Thị Lan (2002), "Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo
đức", Tạp chí Triết học, (7), tr.25-27.
40. Văn Lang - Quỳnh Cư - Nguyễn Anh (1989), Danh nhân đất Việt, Tập 2, Nxb Thanh niên,

Hà Nội .
41. Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay, đề tài KX 02-07,Hà Nội.
42. Phan Huy Lê (1995), Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất
nước Việt Nam, Đề tài KX 02-07,Hà Nội.
43. Phan Huy Lê (1996), "Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất, Tạp chí Cộng sản,
(18), tr.30-32.
44. Thanh Lê (2001), Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hoá, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
45. Lê-nin (1997), Toàn tập, Tập 41,Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
46. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức
trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (1+2), tr.105-114.
47. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển đổi sang cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1976), Về giáo dục Thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (1993), Về vấn đề đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


50. Đỗ Mười (1994), Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Nxb Thanh niên, Hà Nội .
51. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây
dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
53. Hữu Ngọc (chủ biên) – Dương Phú Hiệp – Lê Hữu Tầng (1987), Từ điển Triết học giản yếu,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
54. Trần Hồng Quân (1996), "Về vai trò của giáo viên và vị trí của hệ thống sư phạm, Tạp chí
nghiên cứu giáo dục, (3), tr.1-3.

55. Mai Thị Quý (2001), Vấn đề kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn
cầu hóa, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. Mai Thị Quý (2001), "Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa", Tạp chí Triết học, (6), tr.14-17.
57. Hà Văn Tấn (1981), "Biện chứng của truyền thống", Tạp chí Cộng sản, (3), tr.50-54.
58. Lê Thị Hoài Thanh (2002), Quan hệ biên chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo
dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh,Hà Nội.
59. Lê Sĩ Thắng (2002), "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (5), tr.15-19.
60. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin và
Viện văn hóa,Hà Nội.
61. Lê Thi (2003), "Văn hóa gia đình và vấn đề giáo dục con cái xưa và nay",Tạp chí Triết học,
(7), tr.25-29.
62. Trần Hồng Thúy (1995), "Một vài suy nghĩ về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam", Tạp chí Triết
học,(4), tr.42-47.
63. Nguyễn Tài Thư (2001), "Khả năng phát triển giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế
toàn cầu hóa", Tạp chí Triết học, (5), tr.29-33.
64. Đặng Hữu Toàn (2001), "Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân
- Thiện - Mỹ trong bối cảnh toàn cầu hóa", Tạp chí Triết học, (4), tr.27-32.
65. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), “Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống Việt Nam trước xu
thế toàn cầu hoá”, Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.


66. Hoàng Trung (2000), “Vì sao Hồ chí Minh lại đặc biệt chú trọng tới vấn đề đạo đức?”, Tạp
chí Triết học, (4), tr.19-21.
67. Trường Trung học Y tế Hà Nội (2005), Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị,
đạo đức và nhân cách nghề nghiệp cho học sinh TCCN (Hội thảo khoa hoc), Hà Nội.
68. Thái Duy Tuyên (1995), "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều

kiện kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học,(5), tr.36-39.
69. Nguyễn Đình Tường (2002), "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục", Tạp chí Triết học, (6), tr.19-22.
70. Nguyễn Quang Uẩn - Mạc Văn Trang (1994), Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo
dục giá trị. Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07, đề tài KX 07 – 04, Hà
Nội.
71. Viện Mác - Lênin, Viện CNXH khoa học, (1993), Về giá trị tinh thần Việt Nam, Tập 1, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội.
72. Trần Nguyên Việt (2001), "Giá trị nhân văn truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa", Tạp
chí Triết học, (4), tr.33-37.
73. Trần Nguyên Việt (2002), "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân
loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), tr.20-24.
74. Trần Quốc Vượng (1981), "Về truyền thống dân tộc", Tạp chí Cộng sản, (2), tr.28-33.



×