Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn (nghiên cứu trường hợp hai tỉnh thanh hóa và bình phước) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.78 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC

------******------

NGUYỄN TIẾN DŨNG

SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN
(Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC

------******------

NGUYỄN TIẾN DŨNG

SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN
(Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)



Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS VŨ HÀO QUANG

HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………………...1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ………………………………………………………...3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………….….…5
4. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu……………………………………..........5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………..…7
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết……………………………………………23

PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu……………………………………………………...25
1.1.1. Trên thế giới……………………………………………………………………………....25
1.1.2. Ở Việt Nam………………………………………………………………………………...26
1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của địa bàn nghiên cứu…………………............31
1.2.1. Tỉnh Thanh Hóa…………………………………………………………………………..31
1.2.2 Tỉnh Bình Phước…………………………………………………………………………..35

1.3. Một số khái niệm công cụ………………………………………………………......37
1.3.1. Khái niệm sự tham gia của cộng đồng………………………………………………...37
1.3.2. Khái niệm về phân cấp ……………………………………………………………..…...39
1.3.3. Khái niệm về phát triển lấy cộng đồng làm định hướng……………………..……...41
1.3.4. Khái niệm cộng đồng………………………………………………………………..…...42
1.3.5 Khái niệm cơ sở hạ tầng nông thôn……………………………………………..…......43
CHƢƠNG II:
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM


2.1 Lập kế hoạch có sự tham gia .....................................................................................45
2.2 Lập ngân sách/kiểm toán tham gia ............................................................................50
2.3 Giám sát có sự tham gia .............................................................................................57
2.4 Đơn thƣ khiếu nại và tố cáo ……………………………………………….....…......61
2.5 Tiểu kết ……………………………………………………………………...……...62
CHƢƠNG III:
SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN CSHT NÔNG THÔN
3.1 Các nội dung tham gia trong phát triển CSHT ……………………….......................64
3.1.1. Quá trình tiếp nhận thông tin ………………………………………………………..…64
3.1.2 Tham gia trong các cuộc họp lựa chọn công trình……………………………...…….69
3.1.3 Sự tham gia trong Ban điều phối dự án xã……………………………………….…….74
3.1.4 Tham gia đóng góp các nguồn lực ……………………………………...............……..77
3.1.5 Tham giám sát xây dựng và duy tu bảo dưỡng công trình ………………..…………80
3.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự tham gia…………………………………..........…….84
3.2.1 Các yếu tố về nhân khẩu xã hội của cộng đồng…………………………………...….84
3.2.2 Vai trò của trưởng thôn…………………………………………………….................…89
3.2.3 Chính quyền cấp xã………………………………………………………………………..92
3.2.4 Các tổ chức trung gian/xã hội dân sự…………………………………………….…....95
3.2.5 Các yếu tố về cơ chế chính sách…………………………………………………….….99
3.2.5.1 Quá trình phân cấp quản lý đầu tư cho cấp xã…………………………..…………99

3.2.5.2 Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở………………………………..…..….....103
3.3 Tiểu kết …………………………………………………………………...……….105

PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận ……..………………………………………………………………………107
2. Khuyến nghị…………………………………………………………………………109
2.1 Những khuyến nghị chung………………………………………………………………...109
2.2 Các khuyến nghị cụ thể…………………………………………………………………....110


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng khâm phục trong
lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Năm 1993 Việt Nam vẫn còn khoảng 58% dân số sống
trong nghèo đói, năm 1998 con số này là là 37% và năm 2002 đã giảm xuống 29%1.
Những con số này thể hiện một cách tập trung những nỗ lực cải cách của Việt Nam kể từ
khi tiến hành đổi mới vào năm 1986. Trên cơ sở không ngừng nâng cao khả năng tiếp
cận với các dịch vụ giáo dục và y tế, Việt Nam đã và đang tiếp tục đạt đƣợc những thành
quả đáng kể trong quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Ngoài ra,
Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và đóng một vai trò tích cực
hơn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế của khu vực và toàn cầu.
Khu vực nông thôn có diện tích đất chiếm 92% diện tích lãnh thổ Việt Nam với 75% dân
số sinh sống đang trở thành một trong những trọng tâm của các chính sách phát triển ở
Việt Nam. Hiện nay, khu vực này mặc dù đã đƣợc đầu tƣ nhiều và đã có những chuyển
biến tích cực, song còn nhiều yếu kém. Hiện nay trong khu vực nông thôn vẫn còn 16%
dân cƣ sống cảng nghèo đói, 7 triệu ngƣời thiếu việc làm [13; 4]. Sự yếu kém của khu
vực nông thôn còn thể hiện ở cả cơ sở hạ tầng. Hai thập kỷ qua, hạ tầng nông thôn tuy đã
đƣợc đầu tƣ và cải thiện đáng kể, nhƣng về cơ bản vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về
hệ thống đƣờng xã, cung cấp nƣớc tƣới và cung cấp điện.
Những năm vừa qua, Việt Nam đã có những nỗ lực để phát triển toàn diện khu vực nông

thôn thông qua các chƣơng trình, dự án đầu tƣ. Theo đó, các dự án phát triển nông thôn
tổng hợp đang ngày càng trở thành công cụ hữu hiệu trong công cuộc xoá đói, giảm
nghèo và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong những thập kỷ gần đây. Trong các dự án
phát triển nông thôn tổng hợp thì lĩnh vực cơ sở hạ tầng luôn đƣợc coi là một trong
những khía cạnh đƣợc xem xét đầu tƣ vì nó mang tính quyết định lớn đến sự phát triển
chung của nông thôn. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo cho ngƣời dân ở nông thôn có
thể tiếp cận nhiều hơn với thị trƣờng đồng thời cũng cải thiện đƣợc tình hình sản xuất và
sinh hoạt trong cộng đồng của mình. Trong công tác quản lý dự án thì hiệu quả quản lý
1

Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 của Nhóm tƣ vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam.


đầu tƣ cơ sở hạ tầng cũng sẽ đóng vai trò quyết định đến hiệu quả chung của đầu tƣ và
chất lƣợng của công trình xây dựng.
Trong những năm trƣớc đây, nhiều chƣơng trình của Chính phủ đã sử dụng phƣơng pháp
tiếp cận từ trên xuống thiếu sự tham gia của ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo và các
nhóm dễ bị tổn thƣơng, nên đã làm hạn chế tính hiệu quả của các sáng kiến giảm nghèo
và kết quả là thiếu sự cam kết, sự đóng góp và tinh thần làm chủ của ngƣời dân đối với
những công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động giảm nghèo. Kinh nghiệm của
nhiều dự án trong vòng 5 năm qua cho thấy một nhu cầu bức thiết phải xây dựng những
cơ chế phù hợp để các nhóm mục tiêu dự án tham gia nhiều hơn vào quy trình ra quyết
định, từ việc lập kế hoạch đến giám sát, đánh giá, vận hành bảo dƣỡng công trình đầu tƣ.
Có nhƣ vậy, hiệu quả của công trình đầu tƣ mới đƣợc đảm bảo và có tính bền vững.
Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhiều chƣơng trình cải cách theo hƣớng
đảm bảo việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ với chất lƣợng tốt hơn cho ngƣời dân. Nhìn
chung, Việt Nam đang thí điểm áp dụng một hệ thống lập kế hoạch, lập ngân sách và
thực hiện các chƣơng trình, dự án phát triển đƣợc phân cấp nhiều hơn cho các cấp địa
phƣơng. Cụ thể là theo tinh thần của Nghị định số 29 (Ban hành năm 1998) của Chính
phủ về “phát huy dân chủ cấp cơ sở” thì các cấp chính quyền đã có cam kết rõ ràng hơn

về trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và đẩy mạnh sự tham gia của ngƣời dân vào
những công việc quản lý chung ở địa phƣơng.
Quá trình phân cấp cùng với nó là sự tham gia mạnh mẽ từ phía ngƣời dân đang là một
trong những chủ trƣơng đang đƣợc triển khai từng bƣớc trong nhiều lĩnh vực nhƣ quản
lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tƣ phát triển, ngân sách nhà nƣớc, v.v. ở các cấp chính
quyền địa phƣơng khác nhau và là một nội dung quan trọng của Chƣơng trình Cải cách
hành chính công của Chính phủ giai đoạn 2001-2010. Phân cấp quản lý các hoạt động
đầu tƣ phát triển cấp xã cũng đã đƣợc từng bƣớc triển khai trong hệ thống quản lý nhà
nƣớc cũng nhƣ các dự án phát triển nông thôn sử dụng nguồn vốn trong nƣớc và nguồn
tài trợ. Việc phân cấp này góp phần thúc đẩy việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng
cƣờng hiệu quả và tính bền vững của các hoạt động đầu tƣ.
Ở một khía cạnh khác, xu hƣớng hội nhập toàn cầu cùng với sự gia tăng những ảnh
hƣởng của nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam đã đặt ra những yêu cầu về sự phát triển
bền vững về mặt xã hội. Điều đó đã quy định cho khoa học Xã hội học những nhiệm vụ
nghiên cứu mang tính thực tiễn về sự phát triển bền vững ở Việt Nam.


Phát triển bền vững là một khái niệm mang tính học thuật khá phức tạp, mặc dù nó đã và
đang gây nhiều tranh cãi, nhƣng mục tiêu cuối cùng mang tính khái quát hơn của sự phát
triển bền vững lại mang tính xã hội và nhân văn, nhƣ đƣợc nêu trong Hiến chƣơng của
Liên hiệp quốc về Quyền con ngƣời. Đó là, “đảm bảo cho mỗi người quyền có được
những điều kiện sống thích hợp cho sức khỏe và phúc lợi bao gồm đồ ăn, quần áo, nhà
ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác”.
Về cơ bản, phát triển bền vững xã hội có cốt lõi nằm ở việc giải quyết những mối quan
hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, cũng nhƣ phát triển con ngƣời.
Tuy nhiên, ngay cả với một cách hiểu sơ lƣợc nhƣ vậy, thì sự phát triển bền vững về mặt
xã hội vẫn còn là một chủ đề lớn và phức tạp. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt xã hội, bên cạnh việc thúc đẩy tăng trƣởng
về mặt kinh tế, bảo vệ môi trƣờng, thì vẫn còn những quá trình và những yếu tố xã hội
cần đƣợc chú ý xem xét đúng mức, chẳng hạn: (i) hệ thống chính sách cần thiết đầu tƣ

cho con ngƣời, thúc đầy phát triển con ngƣời, đảm bảo các nhu cầu cơ bản trong cuộc
sống của họ, (ii) cải thiện điều kiện sống, cơ sở hạ tầng thiết yếu của nhóm ngƣời nghèo,
đặc biệt là nhóm xã hội nhạy cảm dễ bị tổn thƣơng, (iii) huy động sự tham gia rộng rãi
và có hiệu quả của cộng đồng và mọi ngƣời dân vào quá trình phát triển, và (iv) tăng
cƣờng về mặt thể chế các quá trình địa phƣơng của xã hội dân sự.
Đây cũng chính là những nhiệm vụ xuyên suốt mà Đảng và Nhà nƣớc giao phó và yêu
cầu đối với khoa học xã hội nói chung và Xã hội học nói riêng.
Từ những vấn đề đã nêu, có thể khẳng định rằng, sự tham gia của cộng đồng là một
trong những chủ đề đang đƣợc quan tâm cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình
phát triển hiện nay.
Trên tinh thần "Phát triển nông thôn là công việc của chính người dân nông th ôn, với sự
giúp đỡ tích cực của Chính phủ”, sự tham gia của cộng đồng đã và đang là nhân tố quan
trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của công cuộc phát triển nông thôn và
đất nƣớc. Với ý nghĩa đó, đề tài nghiên cứu "Sự tham gia của Cộng đồng dân cư trong
việc Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn" hy vọng sẽ góp phần vào việc nhận thức thực
trạng sự tham gia cũng nhƣ một số nhân tố ảnh hƣởng đến sự tham gia của cộng đồng
trong phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực ti ễn
2.1 Ý nghĩa khoa học


Đề tài nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các lý thuyết, các khái niệm xã hội học vào việc
tìm hiều và mô tả sự tham gia của cộng đồng dân cƣ qua đó đƣa ra đƣợc một thực trạng
về sự tham gia của ngƣời dân trong các lĩnh vực thuộc về cơ sở hạ tầng nông thôn.Qua
đó tiến hành giải thích thực tế về sự tham gia dƣới giác độ xã hội học và tìm hiểu các yếu
tố ảnh hƣởng đến sự tham gia của cộng đồng.
Thông qua quá trình nghiên cứu, các khái niệm liên quan đến cộng đồng và sự tham gia
sẽ đƣợc làm sáng tỏ hơn, đồng thời phát hiện ra một số quy luật mang tính xã hội của
quá trình tham gia của ngƣời dân.
Trên cơ sở vận dụng tri thức xã hội học vào nghiên cứu, các khái niệm và các lý thuyết

thuộc xã hội học đại cƣơng có điều kiện va chạm và cọ sát với thực tiễn xã hội, qua đó
góp phần nhìn nhận lại các khái niệm và lý thuyết và rút ngắn khoảng cách giữa lý luận
và thực tiễn cuộc sống.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua mô tả và giải thích các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình tham gia của ngƣời
dân, nghiên cứu sẽ khuyến nghị các giải pháp mang tính thực tiễn cho các nhà quản lý và
các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể, nghiên cứu sẽ khuyến nghị những giải pháp tăng
cƣờng hiệu quả của sự tham gia của ngƣời dân trong việc lập kế hoạch phát triển thôn
bản, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phƣơng, trong phát triển cơ sở hạ tầng ở cơ
sở.
Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở tham khảo cho việc huy động sự tham gia của ngƣời
dân ở các vùng nông thôn, qua đó tạo điều kiện cải thiện toàn diện chất lƣợng cuộc sống
và phúc lợi xã hội cho các cộng đồng dân cƣ nông thôn. Ngoài ra kết quả nghiên cứu
cũng sẽ làm cơ sở tham khảo cho các cơ quan thiết kế chƣơng trình, dự án đầu tƣ hƣớng
vào phát triển toàn diện lĩnh vực nông thôn. Đặc biệt là trong lĩnh vực giảm nghèo và
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Với ý nghĩa này, đề tài sẽ góp phần vào việc hoàn
thiện các phƣơng pháp tiếp cận và các công cụ để huy động đến mức tối đa sự tham gia
tích cực của ngƣời dân trong quá trình phát triển.
Nghiên cứu cũng nhằm đƣa ra những bằng chứng đáng tin cậy cho sự nhìn nhận lại vai
trò của ngƣời dân nông thôn cũng nhƣ sự tham gia của họ đối với chính các quyết định
liên quan trực tiếp đến đời sống của họ dƣới góc độ xã hội học. Nhƣ đã đặt vấn đề ở
phần mở đầu, sự nghiệp phát triển nông thôn là công việc của chính ngƣời dân nông
thôn, với ý nghĩa đó họ phải đƣợc tham gia vào các quá trình kinh tế xã hội diễn ra và có
ảnh hƣởng đến chính cuộc sống của họ bằng các phƣơng pháp và công cụ hiệu quả nhất.


Ngoài ra, với tỷ lệ dân cƣ sinh sống ở vùng nông thôn cao, nghiên cứu cũng mong muốn
góp phần xác định lại những ảnh hƣởng mang tính tất yếu của các cộng đồng dân cƣ
nông thôn đối với toàn bộ tiến trình hình thành và phát triển xã hội nông thôn và các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập và mở cửa.

Cuối cùng, trên cơ sở toàn bộ kết quả nghiên cứu, đề tài cũng mong muốn sẽ đóng góp
đƣợc một phần đối với chính quyền địa phƣơng trong việc quản lý đời sống kinh tế xã
hội ở nông thôn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm chỉ ra thực trạng về sự tham gia của ngƣời dân trong việc phát
triển cở sở hạ tầng ở nông thôn.
Qua đó phân tích các yếu tố ảnh hƣởng đến sự tham gia, dự báo xu hƣớng của việc ngƣời
dân tham gia trong tƣơng lai.
Nghiên cứu sẽ đƣa ra một số kết luận và khuyến nghị cho việc huy động sự tham gia của
cộng đồng vào phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn.
Dựa vào mục đích đã nêu, nghiên cứu sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu


Làm rõ những khái niệm, những cơ sở lý luận và thực tiễn, phƣơng pháp luận
nghiên cứu vấn đề sự tham gia của cộng đồng.



Khái quát một số nghiên cứu về sự tham gia của ngƣời dân và quá trình phân
cấp trên thế giới và Việt Nam.



Phân tích thực trạng về sự tham gia của ngƣời dân trong phát triển cơ sở hạ tầng
thông qua việc làm rõ nội dung, hình thức và hiệu quả của sự tham gia. Phân
tích các nguyên nhân thành công và thất bại trong quá trình huy động sự tham
gia của ngƣời dân.




Phân tích và làm rõ vai trò của các nhân tố ảnh hƣởng đến sự tham gia của
ngƣời dân trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, qua đó dự báo xu hƣớng về
sự tham gia.



Đƣa ra các kết luận, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, các khuyến nghị cho
việc huy động sự tham gia của ngƣời dân đạt hiệu quả cao.


4. Đối tượng khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là sự tham gia của cộng đồng dân cƣ trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là những ngƣời dân nông thôn tại hai tỉnh Thanh Hóa và
Bình Phƣớc.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: nghiên cứu đƣợc tiến hành tại xã Bù Gia Mập - Phƣớc Long - Bình
Phƣớc và xã Thành Minh - Thạch Thành – Thanh Hóa.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu đƣợc tiến hành từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006.
4.4 Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng dân cƣ trong việc phát triển cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng dân cƣ là một quá trình rộng lớn và đề tài
này sẽ không đề cập đến phạm vi rộng lớn đó. Đề tài chỉ đề cập đến những nội dung
tham gia cơ bản nhất của ngƣời dân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ ở cấp
thôn bản. Cụ thể, đề tài sẽ tập trung vào phân tích sự tham gia của ngƣời dân trong việc
xây dựng các loại hình công trình sau:

Đƣờng giao thông nông thôn (bao gồm cả cầu và đập tràn);
Trƣờng học;
Trạm y tế;
Nhà sinh hoạt cộng đồng/ nhà văn hóa;
Chợ nông thôn;
Công trình thủy lợi nhỏ; và
Công trình nƣớc sạch.
Nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích sự tham gia của ngƣời dân ở việc tiếp nhận thông tin,
họp lựa chọn công trình, tham gia vào Ban điều phối dự án xã, tham gia vào tổ giám sát
và vận hành bảo dƣỡng công trình và tham gia đóng góp các nguồn lực cho việc xây
dựng các công trình. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sẽ tiến hành phân tích một số yếu tố ảnh


hƣởng đến quá trình tham gia nhƣ đặc điểm nhân khẩu xã hội, vai trò của chính quyền cơ
sở, của các tổ chức trung gian và một số yếu tố về thể chế chính sách. Sự tham gia của
cộng đồng trong nghiên cứu này đƣợc xem xét nhƣ một quá trình, từ giai đoạn lựa chọn
công trình cho đến khi công trình hoàn thiện và bàn giao cho cộng đồng quản lý và sử
dụng. Thông qua quá trình đó, sự tham gia của cộng đồng sẽ đƣợc biểu hiện ra ở nhiều
khía cạnh mang tính xã hội nhƣ: hình thức tham gia, mức độ tham gia, hiệu quả tham gia
và các tác động về mặt xã hội của sự tham gia đó đối với việc cải thiện đời sống của họ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghhiên cứu
5.1 Phương pháp luận
5.1.1 Phương pháp luận Mác – Lênin
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử cho rằng, thực tế xã hội có
thể nhận thức đƣợc; và quá trình nhận thức này phải đi từ đơn giản đến phức tạp, từ trực
quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, từ khía cạnh bên ngoài, không bản chất của các
hiện tƣợng xã hội đến khía cạnh sâu hơn của chúng. Điều đó cũng có nghĩa rằng nhận
thức xã hội cần phải bắt đầu từ những nghiên cứu thực nghiệm, song không dừng lại ở
đó. Nói cách khác, không chỉ nên dừng lại ở việc mô tả, quan sát, phân loại các sự kiện
mà phải tiếp tục đi xa hơn, sâu hơn vào bản chất của sự kiện xã hội để chỉ ra đƣợc tính

quy luật xã hội học, để tạo ra các giả thuyết mới, các quan điểm và nhận định khoa học
mới cũng nhƣ các lý thuyết mới...và chính từ các giả thuyết mới này xuất hiện sự cần
thiết các cuộc nghiên cứu xã hội học mới để kểm tra và khẳng định giả thuyết đó. Quá
trình này đƣợc tiếp tục sẽ giúp chúng ta nhận thức đƣợc ngày càng sâu sắc về bản chất
của thực tế xã hội [23; 60].
Mặt khác, trong các nghiên cứu xã hội học, phƣơng pháp luận triết học Mác xít yêu cầu
không đƣợc xem xét các hiện tƣợng xã hội một cách siêu hình, mà phải xem xét chúng
một cách biện chứng. Có nghía là các hiện tƣợng xã hội cần phải đƣợc xem xét một cách
hệ thống, chúng cần phải đƣợc đặt trong tƣơng quan liên hệ với các sự vật hiện tƣợng xã
hội khác; và chúng cần phải đƣợc xem xét trong mối quan hệ có tính quy luật, có sự
phục thuộc và quyết định lẫn nhau.
Các sự kiện,hiện tƣợng xã hội không thể đƣợc nghiên cứu nhƣ những vật thể bất động,
hoặc chỉ có sự thay đổi về số lƣợng; mà chúng cần phải đƣợc nghiên cứu và xem xét nhƣ
là đang trong trạng thái vận động có tính quy luật, trong đó nhìn nhận sự phát triển bao
gồm cả về mặt số lƣợng và chất lƣợng Các sự vật hiện tƣợng cần phải đƣợc xem xét ở cả


mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài để từ đó có thể thấy đƣợc nguồn gốc của sự
vận động và phát triển.
Các nghiên cứu xã hội học cũng cần phải đƣợc đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Có
nghĩa là ki phân tích một sự vật hiện tƣợng xã hội thì cần phải xuất phát từ thực tế lịch
sử xã hội cụ thể chứa đựng sự vật hiện tƣợng đó. Thực tế lịch sử cần đƣợc xem xét nhƣ
cơ sở, mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực nghiệm [23; 61].
Vì vậy, đề tài sẽ xem xét sự tham gia của cộng đồng dân cƣ trong phát triển cơ sở hạ
tầng ở nông thôn không phải là một hoạt động mang tính đơn lẻ, mà nó có mối liên hệ
biện chứng cũng nhƣ mối liên hệ nhân quả với các quá trình kinh tế xã hội khác. Có
nghĩa là sự tham gia của ngƣời dân, một mặt sẽ tác động lên các quá trình xã hội khác
nhƣ là một nguyên nhân mang tính khách quan; mặt khác nó lại bị tác động bởi các yếu
tố xã hội khác ở ngay chính xã hội nông thôn nhƣ một hệ quả tất yếu.
5.1.2 Một số lý thuyết được sử dung trong nghiên cứu

5.1.2.1 Lý thuyết phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng nhƣ một khái niệm lý thuyết và thực hành xuất hiện vào những năm
1940 tại các nƣớc thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm
phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm này nhƣ một công
cụ để thực hiện các chƣơng trình phát triển quốc gia với nhiều chƣơng trình việc trợ quy
mô lớn về kỹ thuật, phƣơng pháp và tài chính vào thập kỷ 50 – 60 của thế kỷ trƣớc.
Lý thuyết phát triển cộng đồng dựa trên nguyên lý cho rằng mục tiêu cuối cùng của
PTCĐ là tạo ra sự chuyển biến xã hội trong đó tăng cƣờng năng lực tổ chức, khả năng
đoàn kết xã hội, hƣớng tới khả năng nâng cao tính cộng đồng.
Trọng tâm của PTCĐ là con ngƣời (thành viên của cộng đồng) và phát triển con ngƣời vì
con ngƣời. Điều này có nghĩa thƣớc đo của phát triển đƣợc hiểu theo nghĩa rộng của khái
niệm này, tăng trƣởng kinh tế chỉ là một trong những khía cạnh của phát triển. Những
tiến bộ về vật chất không kèm theo sự phát triển của khả năng con ngƣời và định chế xã
hội chỉ là những thành công có tính thời hạn và không bền vững. Do vậy, mục tiêu bao
trùm của PTCĐ là góp phần mở rộng và phát triển các nhận thức và hành động có tính
chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực tự quản cộng đồng. Mục tiêu tổng
quát trên đƣợc thể hiện dƣới 4 khía cạnh sau:
-

Hƣớng tới cải thiện chất lƣợng cuộc sống của cộng đồng, với sự cân bằng về vật
chất và tinh thần, qua đó, tạo những chuyển biến xã hội trong cộng đồng.


-

Tạo sự bình đẳng trong tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, kể cả các
nhóm thiệt thòi nhất đều có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và đƣợc tham
gia vào các hoạt động phát triển, qua đó, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội.

-


Củng cố các thiết chế/ tổ chức để tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và tăng
trƣởng.

-

Thu hút sự tham gia tối đa của ngƣời dân vào tiến trình phát triển.

Hai khái niệm then chốt của phát triển cộng đồng là tăng cường năng lực và tạo quyền
lực đƣợc coi là hai trọng tâm của phát triển cộng đồng, để tạo đƣợc điều này, phát triển
cộng đồng phải là một quá trình luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của một chương trình
phát triển cộng đồng là giúp cho cộng đồng đi từ một tình trạng kém phát triển, không tự
mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tới tự lực [27; 50].
Phát triển cộng đồng là một quá trình diễn ra theo các bƣớc tuần tự từ thấp đến cao bao
gồm bƣớc chính là thức tỉnh (nhận diện vấn đề), tăng cƣờng năng lực (chuẩn bị nguồn
lực - tập luyên) và tự lực (tự giải quyết các vấn đề của mình). Trong đó, thức tỉnh là giai
đoạn cộng đồng nhận diện về tình trạng phát triển của mình, xác định các khó khăn
thuận lợi và xác lập những vấn đề ƣu tiên. Sau đó cộng đồng sẽ đƣợc tăng cường năng
lực thông qua những hỗ trợ từ phía bên ngoài và kết hợp với khả năng của bản thân để
khắc phục những hạn chế và tăng cƣờng kiến thức và kỹ năng để hành động. Tăng cƣờng
hoạt động liên kết, khả năng tổ chức, lãnh đạo và quản lý để hành động tập thể có hiệu
quả hơn. Các hoạt động trong 2 bƣớc nêu trên sẽ giúp cộng đồng trở nên tự lực. Mục
đích cuối cùng không phải là mọi khó khăn, khủng hoảng không còn nữa, mà mỗi lần
gặp khó khăn, cộng đồng có thể tự huy động nguồn lực từ bên trong và bên ngoài để giải
quyết vấn đề [27; 51].
Phát triển cộng đồng tuân thủ những định hƣớng nhất định, đó là phát triển cộng đồng
phải dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (bottom – up) xuất phát từ nhu cầu của
chính ngƣời dân. Muốn tự phát triển chính ngƣời dân phải tự ý thức cũng nhƣ tự tổ chức
để bảo vệ quyền lợi của mình. Phát triển cộng đồng phải đồng bộ trên mọi khía cạnh
của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, văn hóa…phải cùng đƣợc nâng lên. Chỉ tiến công

vào một khía cạnh thì không thể nào phá vỡ đƣợc cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, dốt
nát và bệnh tật. Nguồn lực thì có hạn nhƣng tính đồng bộ của sự phát triển luôn đòi hỏi
các chƣơng trình phải có tính toán các điểm đột phá khẩn, từ đấy tìm ra chìa khóa của sự
phát triển. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh sự tham dự của quần chúng và coi đó là đƣờng
lối phát triển cộng đồng. Yếu tố tổ chức là hết sức quan trọng. Các tổ chức thuộc chính


quyền địa phƣơng phải đƣợc điều chỉnh để thực hiện chƣc năng phát triển, cũng nhƣ phải
hỗ trợ để xây dựng và củng cố các tổ chức của ngƣời dân tại cộng đồng. Sự tham gia của
chính quyền phải đƣợc coi nhƣ một nhân tố bên trong, nó không phải là một lực lƣợng
đứng bên ngoài hoặc bên trên cộng đồng, mà là một thành phần quan trọng của cộng
đồng [27; 49].
Yêu cầu đối với phát triển cộng đồng là phải tạo đƣợc những chuyển biến xã hội. Đó là
sự thay đổi nhận thức, hành vi của ngƣời dân nhằm mục đích phát triển. Đó là việc tạo
đƣợc chuyển biến trong cơ cấu tổ chức và các mối tƣơng quan lực lƣợng trong chính
cộng đồng đó. Ngoài ra, phát triển cộng đồng cũng yêu cầu một sự phát triển năng lực
trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” ngƣời dân. Ngƣời dân không thể hành động nếu
thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động đơn phƣơng, riêng lẻ mà phải kết hợp với
các cá nhân, tổ chức cùng một chí hƣớng và quyền lợi để tạo thành quyền lực chung.
Muốn cho ngƣời dân tự làm thì tổ chức thông qua đào tạo, huấn luyện là then chốt.
Ngoài ra hoạt động đánh giá cũng là một bƣớc quan trọng để “đo lường” hiệu quả xã hội
của các dự án phát triển cộng đồng và mở ra những vấn đề mới cho cộng đồng. Từ đó
tăng cƣờng tính hiệu quả của các dự án [27; 49].
Phát triển cộng đồng phải tuân thủ theo những quy tắc hành động nhất định trên cơ sở
niềm tin rằng mọi ngƣời dân và các cộng đồng hoàn toàn có khả năng giải quyết các vấn
đề của họ trong cuộc sống. Năng lực tự quản là một năng lực tự có và tiềm ẩn trong các
cộng đồng, vấn đề của phát triển cộng đồng là cần đánh thức hoặc củng cố năng lực đó.
Phát triển cộng đồng chỉ có thể thành công trên cơ sở xuất phát từ ý chí và nội lực từ bên
trong. “Làm thay, “nghĩ hộ” là những tƣ duy và hành động xa lạ với phát triển cộng
đồng. Mọi chƣơng trình hành động phải do cộng đồng tự quyết nhằm bảo đảm tính tự

chịu trách nhiệm của họ. Trong phát triển cộng đồng, cần chú ý và đảm bảo tính dân chủ
và công bằng xã hội trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung của cộng đồng. Tuy nhiên, dân
chủ đòi hỏi một quá trình làm quen, trong đó hình thức dân chủ nhất chính là tính tổ
chức và tính kỷ luật. Hoạt động phát triển cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân quả, muốn tạo ra hiệu quả mang tính tổng thể phải có một chuỗi các hoạt động liên quan
và phụ thuọc lẫn nhau. Bên cạnh đó, phát triển cộng đồng cần ƣu tiên các hoạt động
mang tính đột phá cũng nhƣ các mục tiêu ƣu tiên trên cơ sở đặt trong một cách nhìn
mang tính tổng thể. Phát triển cộng đồng bao gồm các đối tƣợng ƣu tiên là ngƣời nghèo
và ngƣời thiệt thòi. Nghèo, dân trí thấp…là các vấn đề của phát triển cộng đồng. Các
hình thức hợp tác là cơ sở để phát huy tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng đồng
trong phát triển cộng đồng. Song song với nó, cần xây dựng và củng cố khả năng hợp tác


để cộng đồng có khả năng ứng phó trong các tình huống nảy sinh khó khăn. Việc xác
định những hỗ trợ từ bên ngoài từ chuyên môn đến các nguồn lực vật chất – tài chính là
rất cần thiết đối với công tác phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, các vấn đề đó chỉ đƣợc coi
là chất xúc tác. Điều quan trọng là “cách nghĩ” và “cách làm” của ngƣời dân đã thay
đổi đến mức độ nào [27; 53].
5.1.2.2 Lý thuyết về Xã hội dân sự/ xã hội công dân (civil society)
Hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra các cuộc luận đàm về các hiện tƣợng và thực tế hoạt
động của các hiệp hội; ngƣời ta nhận thấy ngày càng có nhiều quan tâm tới các tổ chức ở
trong nƣớc với thực tế là con số các tổ chức ngày càng tăng lên trong hầu hết các lĩnh
vực của cuộc sống. Thậm chí nhà nƣớc cũng ngày càng quan tâm hơn tới các tổ chức và
làm sao để cho các tổ chức này đóng một vai trò hữu ích hơn trong việc phát triển xã hội
và hạn chế tham nhũng. Mặc dù hầu hết mọi ngƣời dân cho rằng các tổ chức quần chúng
là các tổ chức phổ biến chủ yếu ở Việt Nam, Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội 20062010 (SEDP) - chiến lƣợc phát triển của Việt Nam cho thời gian tới do Đại hội Đảng
Cộng sản lần thứ 10 tổ chức vào tháng 4/2006 phê duyệt, đã đề cập tới sự tồn tại và khả
năng tham gia của các tổ chức khác nhau. Chỉ riêng điều đó thôi cũng là một minh chứng
về sự quan tâm của chính phủ và dân chúng đang tăng lên [9; 7].
Xã hội Dân sự là: Vũ đài nằm ngoài gia đình, nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài thị
trường, là nơi người dân liên kết với nhau để thúc đẩy các quyền lợi chung [9; 7].

Hình 1. Ranh giới mờ nhạt của vũ đài xã hội dân sự


[Nguồn: Irene Norlund, Khỏa lấp sự cách biệt: Xã hội dân dự mới nổi tại Việt Nam, Hà
Nội – 2007].
Nhƣ đã đƣợc trình bày bằng hình vẽ nêu trên, điểm quan trọng về định nghĩa này là rộng
và mở, và nó nhấn mạnh vào các ranh giới mờ nhạt giữa các khu vực khác nhau, đây là
một vấn đề vô cùng quan trọng ở một đất nƣớc nhƣ Việt Nam, nơi mà xã hội dân sự có
mối quan hệ qua lại mật thiết với nhà nƣớc và không tách khỏi nhà nƣớc, nhƣ một số
định nghĩa khác đƣa ra. Định nghĩa này cũng nhằm mục đích đề cập đến trong định
nghĩa của mình các chức năng hơn là các hình thái của các tổ chức đó, hay có thể nói là
định nghĩa này bao hàm mọi nỗ lực nhằm hỗ trợ các hoạt động và các giá trị để cải thiện
phúc lợi của ngƣời dân thông qua các hoạt động từ thiện, nhân đạo và các phƣơng thức
khác.
Luận điểm này coi các tổ chức và các hiệp hội nhƣ là cốt lõi của xã hội dân sự, do các
nhóm không chính thức và các liên minh không đƣợc tính đến. Việc này mở rộng định
nghĩa về xã hội dân sự vƣợt ra khỏi giới hạn chỉ là lĩnh vực hiệp hội đoàn thể để tăng
cƣờng các hoạt động nhằm thúc đẩy các quyền lợi chung. Định nghĩa này hàm chứa đầy
đủ và đủ linh hoạt để điều chỉnh đối với các quốc gia riêng biệt, bởi vì tiêu chí riêng cho
việc định nghĩa xã hội dân sự phụ thuộc vào quan điểm quốc gia.
Từ giữa thập niên 90, một số ít học giả Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu các tổ chức
nhân dân. Vào đầu những năm 2000, một nghiên cứu về các tổ chức công dân đã đƣợc
khởi xƣớng. Các học giả nƣớc ngoài cũng đã bắt đầu viết về đề tài này từ giữa thập niên
90, nhƣng hầu hết các học giả này không xem các tổ chức quần chúng là một bộ phận
của XHDS, đúng hơn, các tổ chức này đƣợc xem là một phần của hệ thống Đảng.
Hiện trạng của các NGO Việt Nam mới nổi cũng gây tranh cãi, do các tổ chức này
không có cơ sở hội viên và lãnh đạo của các tổ chức này đa phần xuất phát từ các cơ
quan Nhà nƣớc hoặc cơ quan Đảng. Hầu hết các tổ chức này không đƣợc xếp loại tổ
chức độc lập. Theo tiêu chí nổi bật nhất (tân-tự do), cơ bản ở Việt Nam là không có
XHDS, cho dù một vài tổ chức có tiềm năng phát triển thành một XHDS2.

Một trong những thách thức căn bản để hiểu XHDS ở Việt Nam là đƣơng đầu với thực tế
là các tổ chức không độc lập với Nhà nƣớc và Đảng mà ngƣợc lại gắn kết chặt chẽ với
nhau và với Nhà nƣớc. Kể từ sau cuộc cách mạng, nhà nƣớc đã xem khu vực nhà nƣớc là
2

Mark Sidel là một trong những học giả đầu tiên chỉ ra số lƣợng lớn các tổ chức ở Việt Nam trong Sidel (1995). Sự nổi lên của khu
vực phi lợi nhuận và từ thiện tại nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong: T adashi Yomamoto ed. (1995) Xã hội Dân sự
mới nổi trong Cộng đồng Châu á T hái Bình Dƣơng. Singapore, ISEAS.


quan trọng bậc nhất ở Việt Nam, và theo nhƣ các học thuyết Mác-xit Lê-nin-nít, Nhà
nƣớc trở thành một cơ quan định ra khuôn khổ cho các tổ chức công dân hoặc XHDS.
Tuy nhiên, kể từ sau công cuộc Đổi mới, các tổ chức và các hiệp hội đã diễn ra ở các
hình thức, chức năng và mục tiêu hoàn toàn khác nhau, và không nghi ngờ gì, trong thập
niên 90, họ đã có đƣợc một vai trò quan trọng.
Mỗi loại hình tổ chức nổi lên trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các nhóm ở làng xã,
các nhóm dựa vào tín ngƣỡng có lịch sử lâu đời nhất, đã tồn tại ở các làng xã từ hàng thế
kỷ nay. Các tổ chức quần chúng đƣợc thành lập gắn với sự thành lập Đảng Cộng sản vào
năm 1930 và cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Các tổ chức này đƣợc xem là các tổ
chức trung gian giữa Đảng và ngƣời dân tiếp sau cuộc cách mạng và sự thiết lập quyền
lực của Đảng vào năm 1954 ở miền Bắc, và 1975 ở miền Nam. Kể từ công cuộc đổi
mới, đặc biệt là cuối thập niên 80, các tổ chức quần chúng dù sao cũng đã thay đổi về
mặt hình thức. Họ ít nhận đƣợc sự quan tâm hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc và phải hoạt động
một cách bán độc lập với tổ chức Đảng. Số lƣợng các tổ chức và các câu lạc bộ cơ sở
trực thuộc các tổ chức quần chúng đã mở rộng một cách đáng kể từ cuối thập niên 90.
Hội phụ nữ và Hội Nông dân đặc biệt phát triển mạnh, đầu tiên là ở các vùng nông thôn,
và các NGO Việt Nam đã bắt đầu nổi lên vào đầu và giữa thập niên 90 là một loại hình
các tổ chức mới. Vào giữa những năm 2000, các học giả, các nhà tài trợ và các tổ chức
đã chấp thuận rộng rãi hơn rằng trên thực tế có một xã hội dân sự đang hoạt động ở Việt
Nam cho dù chỉ có hệ thống chính trị một đảng của đất nƣớc.

Xã hội dân sự đƣợc định nghĩa trong tài liệu này là vũ đài bên ngoài gia đình, nhà nƣớc
và thị trƣờng và là nơi mà ngƣời dân tụ hợp lại với nhau để thúc đẩy những quyền lợi
chung. Định nghĩa này chỉ đúng với Việt Nam với một thực tế là ranh giới giữa nhà nƣớc
và xã hội dân sự là rất không rõ ràng. Ngƣời ta lập luận rằng nếu xét trong bối cảnh toàn
diện của xã hội dân sự, tất cả các tổ chức phải đƣợc coi là một bộ phận của xã hội dân
sự, các tổ chức này bao gồm cả các tổ chức quần chúng, mô hình tổ chức phổ biến nhất,
ở tất cả các cấp và tại hầu hết các địa phƣơng (đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội
Nông dân). Các tổ chức này triển khai các chiến dịch do nhà nƣớc khởi xƣớng, nhƣng họ
cũng thực hiện hàng ngàn dự án và chƣơng trình tín dụng cho ngƣời nghèo, và các chi
nhánh cơ sở của các tổ chức quần chúng này có mức độ độc lập đáng kể để đáp ứng
đƣợc các nhu cầu của cộng đồng. Thứ hai, có các hiệp hội nghề nghiệp tập hợp những
ngƣời có cùng lợi ích nghề nghiệp trong nhiều lĩnh vực tại hầu hết các tỉnh thành. Thứ
ba, các NGO Việt Nam, đa số là có trụ sở tại các thành phố nhƣng lại thực hiện các dự
án tập trung hơn vào một vài lĩnh vực trên toàn quốc và thƣờng trú trọng vào các dự án


về phát triển, giới, y tế và phát triển cộng đồng. Cuối cùng, các CBO đang phát triển
nhanh chóng, trú trọng vào các dịch vụ dân sinh ở cấp cơ sở tại nhiều tỉnh thành. Sự
vững mạnh của xã hội dân sự đƣợc thể hiện qua việc gia tăng về số lƣợng và tính đa
dạng của các tổ chức xã hội dân sự ở các cấp, sự tham gia tích cực vào các Đánh giá
Nhiều bên của hàng ngàn dự án trên cả nƣớc và các cuộc thảo luận công khai trên báo
chí.
Đối với các tổ chức chính thống hơn thì vai trò của nhà nƣớc là tối quan trọng, vì chính
nhà nƣớc thiết lập khuôn khổ chính thức cho các tổ chức này. Nếu nhƣ các tổ chức quần
chúng có quy mô lớn nhất từ trƣớc đến nay, thì hiện nay số lƣợng các tổ chức dân sự
thậm chí còn lớn hơn và rộng hơn về hoạt động, và đã vƣợt ra ngoài tầm kiểm soát của
nhà nƣớc. Tuy nhiên, hiện có thể chƣa thích hợp khi gọi các tổ chức này là tự quản, vì
vẫn có sự liên kết và sự chồng chéo về đặc tính hoạt động với các tổ chức đƣợc nhà nƣớc
bảo trợ. Nhà nƣớc không cấm các tổ chức, điều này đƣợc minh chứng bằng số lƣợng lớn
các hội viên. Mặt khác, nhà nƣớc tham gia vào việc lãnh đạo của Đảng nhiều hơn là

trong xã hội dân sự. Dự thảo Luật về Hội đã cho thấy nhà nƣớc vẫn đang cân nhắc việc
quản lý xã hội dân sự, điều này ngƣợc với tính chất của hội và tổ chức là dựa trên các
sáng kiến của nhân dân.
Cho dù có sự chồng chéo giữa nhà nƣớc, Đảng và xã hội dân sự tại Việt nam, động lực
của xã hội dân sự không thể đƣợc hiểu một cách đơn giản là vì nhà nƣớc chống lại xã hội
dân sự. Đã có nhiều thay đổi liên quan đến các hoạt động trong phạm vi của nhà nƣớc.
Tuy nhiên, cũng có các hoạt động diễn ra bên ngoài hoặc, ít nhất là tại phần rìa ngoài
phạm vi của nhà nƣớc, trong các nhóm đƣợc hình thành ở cấp cơ sở - thậm chí là cả
trong các tổ chức quần chúng. Các nhóm này gồm các nhóm tôn giáo, nhóm dân tộc
thiểu số, các nhóm văn hoá nghệ thuật và các hình thức khác nhau của hoạt động dân
sinh. Điều này hoàn toàn khác với ý tƣởng về các dự án của CSI, trong đó tính tự chủ là
điều quan trọng đối với các hội.
Kể từ khi bắt đầu đổi mới và đặc biệt là từ khi nền kinh tế phát triển nhanh cùng với các
thay đổi về xã hội trong thập kỷ qua, chính phủ đã phải đối mặt với các vấn đề xã hội gia
tăng cùng với phát triển và tăng dân số. Các vấn đề mới nổi lên đặt ra nhiều thách thức
mới đối với chính phủ; còn chính phủ thì chƣa đƣợc trang bị đầy đủ để tự thực hiện các
nhiệm vụ này. Chính phủ chú trọng vào hỗ trợ cơ sở hạ tầng của bệnh viện và trƣờng
học, với các chiến dịch quốc gia để kiểm soát bệnh dịch và cung cấp dịch vụ cho trẻ em
nghèo. Hệ thống y tế của Việt Nam chƣa phát triển tốt, và với việc áp dụng các chính
sách .xã hội hoá., chính phủ không thể hoặc không sẵn sàng tự mình gánh tránh nhiệm


cải thiện các dịch vụ xã hội. Xã hội dân sự có thể giúp nhận biết và xác định các vấn đề,
và có thể giúp cung cấp các dịch vụ cần thiết. Xã hội dân sự có thể giúp đỡ một cách
hiệu quả hơn khi có những nhu cầu thiết yếu hỗ trợ ngƣời nghèo, những ngƣời ốm yếu,
những ngƣời tàn tật hoặc những ngƣời ít đƣợc tiếp cận hỗ trợ xã hội, chẳng hạn nhƣ ở
các khu vực nông thôn. ở thành phố, có rất nhiều vấn đề mới đối với trẻ em đƣờng phố,
nạn mại dâm, buôn bán trẻ em và phụ nữ, HIV/AIDS và nạn nghiện hút. Có những cách
biệt và nhu cầu mà xã hội công dân có thể thu hẹp và đáp ứng đƣợc còn nhà nƣớc thì
không thể bao quát hết. Do đó, nhu cầu cần phải đƣợc nhận biết, và xã hội dân sự phải

tham gia tích cực hơn để xác định nhu cầu và hỗ trợ cho những nơi có nhu cầu lớn nhất.
Bằng việc tạo cho xã hội dân sự một tiếng nói rõ ràng hơn trong mọi khía cạnh của cuộc
sống, không chỉ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mà còn trong việc nâng cao năng lực và
các hoạt động ủng hộ ở các cấp, một quốc gia sẽ đạt đƣợc sự phát triển kinh tế và xã hội
đồng đều hơn. Ngoài ra, xã hội dân sự có một vai trò tiềm tàng rất quan trọng trong việc
tăng cƣờng tính minh bạch và chống tham nhũng.
Sức mạnh của xã hội dân sự là tính chất đa dạng dựa trên hoạt động và tính sáng tạo của
con ngƣời. Việt Nam vẫn là một nƣớc nghèo và phải đối mặt với nhiều rào cản để vƣợt
qua đói nghèo và sự bất bình đẳng đang gia tăng. Việt Nam cũng phải phát huy hết tiềm
năng kinh tế xã hội và giải phóng tiềm năng con ngƣời để giúp đỡ những ngƣời bất hạnh.
Trong khi đó, nhà nƣớc có thể hỗ trợ và khuyến khích xã hội dân sự thông qua nhiều
hình thức hợp tác khác nhau. Nhà nƣớc là ngƣời có trách nhiệm sau cùng đối với ngƣời
dân bằng cách đảm bảo giải quyết các thách thức mới theo cách mà có thể giúp tăng
cƣờng phúc lợi cho nhân dân, nhƣng nhà nƣớc có thể phối hợp với xã hội dân sự, và xã
hội dân sự cũng có thể đóng góp bằng cách tăng cƣờng trách nhiệm giải trình của nhà
nƣớc.
5.1.2.3 Luận điểm về phát triển nông thôn bền vững
Một định nghĩa đƣợc nêu ra ở đây là: Phát triển Nông thôn là…một quá trình thay đổi
bền vững có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng
đời sống của người dân địa phương.
Phát triển nông thôn bền vững nhấn mạnh vào quá trình có chủ ý và bền vững. Phát triển
nông thôn không phải là một công việc làm trong một thời gian ngắn. Nó cần phải đƣợc
theo đuổi trong một thời gian dài nhiều năm và có chủ ý. Nó cũng nhấn mạnh vào nâng
cao đời sống của ngƣời dân địa phƣơng. Một số phát triển “địa phƣơng” (hoặc “khu
vực”) trƣớc đây đƣợc khuyến khích do nhu cầu quốc gia (nhƣ điện, nƣớc hoặc quốc


phòng), hơn là nhu cầu của bản thân ngƣời dân địa phƣơng. Nhu cầu quốc gia tất nhiên
có thể đƣợc đáp ứng thông qua phát triển nông thôn, và bất cứ sự đáp ứng thành công
nào nhu cầu địa phƣơng sẽ đóng góp gián tiếp cho sự phồn thịnh của quốc gia. Nhƣng

khái niệm hiện đại về phát triển nông thôn nhấn mạnh hàng đầu vào việc đáp ứng nhu
cầu của ngƣời dân nông thôn. Phát triển nông thôn đang đƣợc theo đuổi ở hầu hết các
nƣớc trên thế giới. Rất nhiều ngƣời tham gia trong lĩnh vực này cho rằng phát triển nông
thôn có một số đặc điểm, đó là một sự phát triển toàn diện, dựa vào cộng đồng và mang
tính bền vững.
Toàn diện nghĩa là sự phát triển đó phải là cả “từ trên xuống” và “từ dƣới lên”. Nó phải
bao trùm chính sách, tiền tệ và hỗ trợ của Chính phủ (ở mọi cấp) và năng lực, tài nguyên
và sự tham gia của ngƣời dân. Quá trình đó cũng phải có sự tham gia của mọi khu vực
(nhà nƣớc, tƣ nhân, tình nguyện viên) và phải dựa trên tinh thần hợp tác và cộng tác.
Để phát triển nông thôn mang tính toàn diện, cần phải nhấn mạnh vào bốn trụ cột của nó,
đó là con người ( cùng với kỹ năng của họ), kinh tế, môi trường, ý tưởng và tổ chức. Các
yếu tố trên phải đƣợc giữ trong thế cân bằng với nhau, nhƣ các chân của một con trâu,
hoặc các cột trụ của một tòa nhà. Ví dụ, nếu một dự án phát triển phục vụ cho nhu cầu xã
hội và kinh tế của một cộng đồng nông thôn, nhƣng hủy hoại môi trƣờng, thì nhƣ vậy sẽ
không phát triển cân bằng hoặc bền vững.
Phát triển dựa trên cộng đồng. Chúng ta đã nhấn mạnh phát triển nông thôn là…một quá
trình thay đổi có chủ ý, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương.
Với ý nghĩa này, phát triển nông thôn là cho ngƣời dân. Nhƣng nó cũng phải đƣợc theo
đuổi với con ngƣời, và do con ngƣời. Tóm lại phát triển phải dựa trên cộng đồng. Điều
này có nghĩa là phát triển nông thôn phải dựa trên lợi ích, sự tham gia của cộng đồng
sống trong khu vực đó. Nói "cộng đồng" chúng ta ý nói tất cả ngƣời dân sống trong một
khu vực nông thôn cụ thể - đa số và thiểu số, ngƣời già và trẻ, đàn ông và đàn bà, ngƣời
giàu và ngƣời nghèo…Họ là cơ sở cho phát triển nông thôn bền vững vì họ biết rõ nhất
những khó khăn và nhu cầu của mình. Họ quản lỳ nguồn tài nguyên nhƣ đất đai, nhà
xƣởng, sản phẩm địa phƣơng mà quá trình phát triển phải dựa vào đó. Kỹ năng, truyền
thống, kiến thức và năng lực của họ là tiềm năng chính để phát triển; và sự cam kết của
họ là sống còn (nếu nhƣ họ không ủng hộ một kế hoạch nào, kế hoạch đó sẽ không thực
hiện đƣợc). Hơn thế nữa, một cộng đồng càng phát triển và năng động, thì càng có khả
năng thu hút ngƣời dân ở lại, và giữ họ không di chuyển đi nơi khác.



Phát triển nông thôn bền vững. Chính phủ Việt Nam đã cam kết theo đuổi những nguyên
tắc của phát triển bền vững, đã đƣợc thông qua tại "Hội nghị thƣợng đỉnh về Trái đất" tổ
chức tại Rio de Janeiro năm 1992. Những nguyên tắc này nhấn mạnh vào một cách nhìn
lâu dài về xã hội con ngƣời và việc con ngƣời sử dụng tài nguyện thiên nhiên của Thế
giới. Trong bối cảnh đấy, phát triển bền vững đƣợc định nghĩa nhƣ sau: "Phát triển
nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai" (Báo cáo Brundtland 1987) .
Một định nghĩa khác về phát triển bền vững cũng đƣợc sử dụng thƣờng xuyên là "Phát
triển tạo ra dòng chảy liên tục các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trƣờng"
Các định nghĩa trên có thể là một điểm xuất phát có ích để suy nghĩ về sự bền vững có ý
nghĩa gì trong phát triển nông thôn. Nhƣng chúng ta không đƣa ra cơ sở để đánh giá một
chƣơng trình hoặc một dự án cụ thể có thực sự bền vững hay không. Chúng ta cần một
định nghĩa có thể hỗ trợ cho việc đánh giá đó, và phản ánh tầm quan trọng của cách tiếp
cận toàn diện và phát triển dựa vào cộng đồng.
Quan điểm3 của Chính phủ Việt Nam cũng cho rằng, “Phát triển nông thôn là một công
tác phức tạp. Nó đòi hỏi sự đóng góp của toàn dân, của tất cả các tổ chức cũng như sự
hỗ trợ của Nhà nước. Đó là sự cộng tác giữa Chính phủ và nhân dân.Phát triển nông
thôn là công việc chính của người dân nông thôn với sự giúp đỡ tích cực của Chính
phủ”.
Cụm từ thứ ba nêu trên là vô cùng quan trọng. Nó đặt sự chủ động trong phát triển nông
thôn với “nhân dân, với sự giúp đỡ của Chính phủ”. Tuy vậy, Chính phủ đóng vai trò
quan trọng với tƣ cách là ngƣời hỗ trợ cơ bản cho quá trình lớn và rộng khắp mang tính
quốc gia này. Chƣơng trình Phát triển Nông thôn nêu rằng vai trò của Chính phủ trong
phát triển nông thôn là tổ chức, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động”, đồng thời công nhận
vai trò chủ chốt của bản thân ngƣời dân nông thôn.Sự cần thiết giao trách nhiệm, ở nơi
thích hợp, cho các chính quyền tỉnh và cơ sở. Vai trò của các tổ chức quần chúng, các
nhóm tự giúp đỡ nhau và các hợp tác xã kiểu mới; và hoạt động đang phát triển của khu
vực tƣ nhân. Vai trò của Chính phủ trong phát triển nông thôn là vai trò lãnh đạo, nhƣng
không phải chỉ là vai trò diễn xuất. Chính phủ tổ chức, chỉ đạo và phối hợp hành động

của hàng loạt các cơ quan, tổ chức và các lợi ích, những ngƣời đóng góp cho quá trình
phát triển nông thôn to lớn này. Phát triển nông thôn phụ thuộc vào sự đóng góp tích cực
của các tổ chức khác nhau trong các khu vực công cộng, tƣ nhân và tình nguyện. Những
3

Chƣơng trình Phát triển Nông thôn” của Chính phủ xuất bản năm 1996


tổ chức này có vai trò bổ sung cho vai trò của Chính phủ và của các tổ chức viện trợ
nƣớc ngoài.
Trong bối cảnh của chính sách “đổi mới” và của việc giao một số chức năng của Chính
phủ cho địa phƣơng, tính chất của nhiều trong số những tổ chức này, và tầm quan trọng
tƣơng đối của vai trò của họ ở Việt Nam đang thay đổi dần. Các chính quyền tỉnh, huyện
và cơ sở, kể cả các Ủy Ban nhân dân, họ có thể đóng vai trò ngày càng tăng không chỉ
trong việc cung cấp và bảo dƣỡng các cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội mà còn trong việc
quản lý các chƣơng trình phát triển. Các tổ chức quần chúng, bao gồm những tổ chức đại
diện cho nông dân, phụ nữ, thanh niên và cựu chiến binh: họ có thể giúp huy động công
sức và tiền tiết kiệm của các thành viên trong tổ chức của họ và có thể cung cấp các dịch
vụ mở rộng, đào tạo và tín dụng. Các hợp tác xã kiểu mới có thể có vai trò chủ yếu trong
việc giúp đỡ các thành viên có đƣợc những hàng hóa, và tiêu thụ sản phẩm của họ và có
đƣợc các thông tin…Các ngân hàng và hiệp hội tín dụng đang đƣơng đầu với thách thức
để có thể huy động thêm tiền tiết kiệm và cung cấp tín dụng là những thứ thiết yếu đối
với nông dân và các doanh nghiệp nhỏ khác.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để giải quyết những vấn đề xã
hội này ở những vùng nông thôn. Chiến lƣợc tới năm 2010 đã đề ra cần phải nỗ lực hơn
nữa để giảm nghèo và tăng mức thu nhập bình quân của cƣ dân nông thôn.
Phát triển dựa vào cộng đống, theo tinh thần này, việc phát triển nông thôn là vì dân.
Nhƣng nó cần đƣợc thực hiện cùng với sự tham gia của ngƣời dân và do dân. Nói tóm lại
nó cần dựa vào cộng đồng. Điều đó có nghĩa là sự phát triển nông thôn cần dựa vào các
lợi ích và sự tham gia của cộng đồng sống trong khu vực. Bởi, “cộng đồng”, chúng tôi

muốn nói tới tất cả những ngƣời sống ở vùng nông thôn nào đó, bao gồm đại bộ dân và
tất cả các dân tộc thiểu số, ngƣời già và thanh niên, đàn ông và phụ nữ, ngƣời giàu và
ngƣời nghèo v.v…
5.1.2.4 Lý thuyết về vai trò xã hội
Vai trò xã hội của các nhân đƣợc xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tƣơng ứng. Nó
chính là mặt động của vị thế xã hội, vì nó luôn luôn biến đổi trong các xã hội khác nhau,
thậm chí trong các nhóm xã hội khác nhau.
Để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế xã hội, mỗi cá nhân cần phải thực
hiện những hành động nhất định; và tƣơng ứng với mỗi vị thế sẽ có một loạt các mô hình
hành vi đƣợc xã hội mong đợi. Chính mô hình hành vi đƣợc xã hội mong đợi là vai trò
tƣơng ứng của vị thế đó.


Trong xã hội nông thôn hiện nay, ngƣời dân nông thôn luôn đóng một vai trò nhất định
đối với cộng đồng mà họ sinh sống. Khi nào những ngƣời dân này đáp ứng đƣợc các
mong muốn mà xã hội kỳ vọng ở họ thì lúc đó họ đã góp phần vào đảm bảo sự ổn định
và phát triển của hệ thống xã hội đó. Ngƣợc lại, khi nào những ngƣời dân này không đáp
ứng đƣợc những mong đợi từ phía xã hội thì tất nhiên sẽ dẫn đến xung đột về vai trò.
Với vai trò là những cá nhân tạo thành cộng đồng xã hội đặc thù, từ trong lịch sử của
mình, những ngƣời dân nông thôn đã có vai trò nhất định trong bảo vệ và phát triển đất
nƣớc. Ngày nay, vai trò của ngƣời dân nông thôn trở thành trung tâm của các mục tiêu
phát triển nông thôn. Trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, ngƣời dân vừa là ngƣời
tham gia, vừa là ngƣời giám sát chính quá trình thực hiện các mục tiêu đó. Do vậy, song
song với những vai trò đã đƣợc xác lập một cách lâu bền từ trong quá khứ, ngƣời dân
nông thôn ngày nay còn đƣợc xã hội kỳ vọng thêm những vai trò mới và cụ thể. Và mức
độ cụ thể về vai trò này đến đâu thì trong từng giai đoạn phát triển nhất định xã hội hiện
đại sẽ xác lập.
Tuy nhiên, khi cá nhân tham gia vào nhiều quan hệ xã hội thì họ sẽ mang nhiều vị thế, và
do đó họ sẽ có nhiều vai trò xã hội khác nhau. Và mỗi vai trò sẽ có những đòi hỏi riêng
để thực hiện chúng. Nên lúc này có thể có nhiều đòi hỏi khác nhau ở nhiều vai trò khác

nhau trong cùng một có nhân. Các các nhân đôi khi có thể phối hợp vai trò, và nhiều khi
không thể phối hợp vai trò, nên dẫn đến căng thẳng và xung đột vai trò.
Vai trò của các các nhân nông thôn hay của các cộng đồng dân cƣ trong việc phát triển
cơ sở hạ tầng thƣờng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Có đôi khi nó là tích cực với các
mục tiêu phát triển này, nhƣng lại là tiêu cực với các mục tiêu phát triển khác; là tích cực
ở thời điểm lịch sử này nhƣng lại mang tính tiêu cực ở một thời điểm lịch sử, một hoàn
cảnh khác. Chính vì lẽ đó, khi xem xét vai trò của ngƣời dân chúng ta cần đặt nó trong
một hoàn cảnh cụ thể với những đòi hỏi và những mục tiêu phát triển cụ thể của phạm vi
và thời kỳ nhất định.
Vận dụng lý thuyết vai trò cho phép tìm hiểu bản chất và những biểu hiện của các quan
hệ xã hội của các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng xã hội ở nông thôn, cho phép
nghiên cứu bản chất các quan hệ xã hội này ở những cấp độ khác nhau. Nhờ vào thuyết
này có thể nghiên cứu đƣợc bản chất của những lệch lạc xã hội ở nông thôn, các xung
đột xã hội trong nội bộ cũng nhƣ giữa các nhóm, các cộng đồng xã hội ở nông thôn [28;
51].


Các luận điểm lý thuyết nêu trên sẽ đƣợc vận dụng để phân tích sự tham gia của ngƣời
dân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, qua đó xác định vai trò của họ trong
phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Ngoài ra, nó còn đƣợc dùng để phân tích các vai
trò của các yếu tố trung gian tác động đến khả năng và hiệu quả tham gia của cộng đồng.
5.1.2.5 Lý thuyết vốn con người/ vốn xã hội
Ngày nay, con ngƣời đƣợc xác định là trung tâm của các mục tiêu phát triển. Phát triển
con ngƣời vừa là tiêu chí, vừa là mục tiêu cao nhất của phát triển bền vững. Nói cách
khác, phát triển con ngƣời là phát triển cấp ba, phát triển xã hội là phát triển cấp hai, và
phát triển kinh tế là phát triển cấp một. Bản chất của sự phát triển con ngƣời thực chất là
làm gia tăng giá trị của con ngƣời về các mặt: tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế kỹ
thuật, nghệ thuật, tình cảm xã hội, trí tuệ, pháp lý…Trong phát triển bền vững hiện nay,
phát triển con ngƣời đƣợc coi là nguyên tắc hạt nhân để dẫn đến sự thành công.
Con ngƣời đƣợc coi là một nguồn nhân lực, do đó phát triển nguồn nhân lực là phƣơng

hƣớng cụ thể để phát triển con ngƣời. Tuy nhiên, phát triển con ngƣời không đồng nghĩa
với phát triển nguồn nhân lực. Phát triển con ngƣời làm gia tăng các giá trị nói chung của
con ngƣời, còn phát triển nguồn nhân lực làm gia tăng giá trị sử dụng con ngƣời. Phát
triển nguồn nhân lực chủ yếu phát triển mặt công cụ của con ngƣời, nhƣ là một nguồn
lực tài nguyên, một nguồn vốn và một động lực trong quá trình phát triển.
Lý thuyết vốn xã hội tập trung vào nguồn lực trong xã hội cũng nhƣ cách thức tiếp cận
và sử dụng các nguồn lực đó phục vụ nhu cầu lợi ích cho hành động của cá nhân. Cụ thể,
Lý thuyết vốn xã hội tập trung vào các nguồn lực đƣợc tạo ra bởi các mạng lƣới xã hội.
Nguồn lực ở đây đƣợc xem xét nhƣ là những hàng hóa có giá trị trong xã hội và sự sở
hữu nó có thể giúp cá nhân duy trì, cải thiện sự tồn tại và phát triển của chính họ. Đối
với hầu hết các xã hội, nguồn lực đƣợc đề cập đến là của cải, uy tín và quyền lực. Lý
thuyết vốn xã hội tập trung vào những hành động của con ngƣời để đạt đƣợc và duy trì
các nguồn lực này [14].
Khi nói về nguồn lực, ngƣời ta thƣờng đề cập đến ba loại nguồn lực chính là: nguồn lực
gán cho, nguồn lực giành được và nguồn lực kế thừa. Nguồn lực gán cho là nguồn lực
đƣợc gắn liền với cá nhân đó từ khi sinh ra, nhƣ giới và chủng tộc chẳng hạn. Nguồn lực
giành đƣợc là những nguồn lực có đƣợc do sự nỗ lực phấn dấu của cá nhân, nhƣ học vấn,
nghề nghiệp, tài sản…Còn nguồn lực kế thừa là nguồn lực có đƣợc do các cá nhân đƣợc
kế thừa từ dòng họ, đẳng cấp, tôn giáo hay gia đình. Khi những nguồn lực này đƣợc đầu
tƣ nhằm mục đích trao đổi trong thị trƣờng thì nó trở thành vốn xã hội.


Ngƣời ta cũng phân chia vốn ra làm hai loại là vốn con người và vốn xã hội. Trong đó
vốn con ngƣời bao gồm những nguồn lực mà cá nhân chiếm hữu và họ có thể sử dụng
hay loại bỏ nó một cách tự do mà không quan tâm nhiều đến sự thu hồi. Vốn xã hội bao
gồm các nguồn lực đƣợc sở hữu bởi một mạng lƣới hoặc hiệp hội. Vốn xã hội không
phải là nguồn lực đƣợc sở hữu bởi các cá nhân, nhƣng nguồn lực đó có thể đạt đƣợc
thông qua sự ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp với cá nhân. Do đó, tiếp cận đến và sử
dụng các nguồn lực này chỉ là nhất thời và có thể vay mƣợn trong phạm vi các nhân
không sở hữu chúng [44; 55 - 56].

Luận điểm trọng tâm của lý thuyết này tập trung ở hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Ở cấp độ
vĩ mô, lý thuyết bắt đầu với quan niệm cho rằng cấu trúc xã hội gồm hàng loạt các vị trí
đƣợc sắp xếp theo một trật tự, căn cứ theo giá trị các nguồn lực cơ bản nhƣ: giai cấp,
quyền lực và địa vị xã hội. Cấu trúc này đƣợc sắp xếp theo hình chóp nón căn cứ vào
mức độ tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực. Trong đó, những ngƣời ở gần với đỉnh của
cấu trúc có cơ hội tiếp cận và kiểm soát nhiều nhất các nguồn lực có giá trị, không chỉ vì
các nguồn lực này gắn liền với họ, mà còn do khả năng tiếp cận của họ đến các vị trí
khác khi họ đứng ở vị trí cao. Chính vì thế một cá nhân có vị trí cao bởi vì họ có khả
năng tiếp cận đến nhiều vị trí khác, và họ cũng có quyền điều khiển lớn hơn đối với các
nguồn lực xã hội. Vị trí của một cá nhân trong cấu trúc xã hội thấp thì mức độ ảnh hƣởng
của nó đối với những vị trí xã hội khác và khả năng sở hữu những nguồn thông tin về
nguồn lực trong cấu trúc xã hội cũng thấp hơn. Những ngƣời ở vị trí xã hội cao thƣờng
có nhiều thông tin hoặc có những hiểu biết tốt hơn về nguồn lực của cấu trúc so với
những vị trí thấp hơn. Và họ cũng có nhiều cơ hội và khả năng tiếp cận cũng nhƣ kiểm
soát những nguồn lực cụ thể trong cấu trúc [44; 56].
Lý thuyết này cũng cho rằng khi có rất nhiều kiểu nguồn lực có giá trị thì cũng sẽ có sự
sắp xếp khác nhau theo thứ bậc và giá trị trong cấu trúc. Thứ bậc này có có sự tƣơng
quan giữa thứ bậc của vị trí xã hội và kích cỡ của nguồn lực. Nói cách khác, một ngƣời
chiếm giữ một vị thế cao thƣờng nắm giữ một nguồn lực giá trị nào đó. Cấu trúc thứ bậc
có hƣớng hình chóp nón, và cấp cao hơn có ít ngƣời sở hữu hơn những cấp thấp. Mỗi
cấu trúc nhƣ vậy đều có thể tạo ra và dịch chuyển bằng cách xác định lại mức độ của vị
trí [44; 57].
Đối với cấp trung mô và vi mô, lý thuyết này đƣa ra các giả định về tƣơng tác và hành
động. Trƣớc tiên, quan hệ xã hội đƣợc thực hiện giữa các cá nhân ở những tầng lớp liền
kề và tƣơng đồng trong hình chóp nón – còn gọi là nguyên tắc tƣơng tác tƣơng đồng.
Theo giả định, có sự phù hợp và khả năng chuyển nhƣợng những nguồn lực, hay trao đổi


×