Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN phương pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.21 KB, 17 trang )

“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I-LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN.
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng
ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp ngừơi lao động
mới bản lĩnh, có năng lực và chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng
với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào
tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi
tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
Việc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học thiết thực góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hoá dạy học và
khuyến khích dạy học phát hiện ra nội udng mới của bài học.
Bản thân chương trình sách giáo khoa mới có đổi mới về mục tiêu và nội
dung giáo dục, cấu trúc chương trình và phương pháp dạy học, đặc biệt là cách
kiểm tra đánh giá, điều kiện và thiết bị dạy học, quản lý và quá trình dạy học
cũng có nhiều thay đổi. Ở sách giáo khoa Toán về nội dung, yêu cầu cơ bản về
tri thức và kỹ năng được đổi mới theo quan điểm Toán học hiện đại, phù hợp với
lứa tuổi học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
Ta đã biết, môn toán ở bậc tiểu học mỗi lớp có một vị trí, yêu cầu và
nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Đặc biệt đối với lớp 3 qua các hoạt động dạy học
Toán, giáo viên tiếp tục giúp học sinh phát triển các năng lực tư duy ( so sánh,
lựa chọn, phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá), phát triển trí tưởng
tượng không gian, tập nhận xét các số liệu thu thập được, diễn đạt gọn, rõ, đúng
các thông tin, cẩn thận, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành
toán.
Chương trình môn toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình môn toán ở
bậc tiểu học. Chương trình này tiếp tục thực hiện những đổi mới về giáo dục
toán học ở lớp 1 và lớp 2: khắc phục một số tồn tại của dạy học ở các lớp 1, 2, 3
theo chương trình cũ, góp phần thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ

1




“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
thông, nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Môn toán lớp 3 góp phần củng cố mở rông kỹ năng giải các bài toán có
lời văn, nâng số lượng phép tính để giải bài toán tới trong đó có một số dạng
toán như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, số lớn gấp mấy lần số
bé, so sánh số bé bằng phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về đơn vị, bài
toán có nội dung hình học.
Với nội dung thực tế, gần gũi với cuộc sống của các em, các em biết trình
bày bài giải đầy đủ gồm các câu trả lời chuẩn các phép tính và đáp số chính xác.
Để tạo điều kiện cho việc dạy học giải toán nói chung, dạy học giải toán có lời
văn nói riêng, trong khuân khổ đề tài này chúng tôi nghiên cứu tìm hiểu phương
pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3.
Vậy vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khắc phục khó khăn của người
thầym hạn chế sai sót, phát huy được sức sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “ phương pháp dạy học
giải toán có lời văn ở lớp 3 ”.
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3
hiện nay.
2. Phát hiện những khó khăn mà giáo viên và học sinh thường mắc phải
trong dạy học giải toán có lời văn.
3. Giải thích những nguyên nhân của những khó khăn của giáo viên và học
sinh trong dạy và giải toán có lời văn.
4. Sử dụng tốt các đồ dung trực quan.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp
3 cụ thể ở dạng sau:

Dạng 1: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.

2


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Dạng 2: Bài toán giải bằng 2 phép tính.
Dạng 3: Bài toán liên quan đến đơn vị.
2. Tìm hiểu thực tế, thực trạng dạy và học toán có lời văn ở lớp 3.
3. Đề xuất một số phương pháp, biện pháp dạy học giúp học sinh khắc phục
khó khăn trong giải toán có lời văn ở lớp 3.

PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG

3


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.Cơ sở toán học:
Như chúng ta đã biết, mọi vấn đề toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống
thực tiễn. Phương pháp dạy học toán ở tiều học là sự vận dụng các phương pháp
dạy học toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, điều kiện dạy học ở
tiểu học.
Ở chương trình toán lớp 3, đối với giải toán có lời văn mức độ đòi hỏi khó
hơn, phức tạp hơn. Ở lớp 1, lớp 2, học sinh quen dần với việc dựa vào phần bài
toán hỏi để đặt câu trả lời, sang đến lớp 3 mức độ nâng cao hơn, giải toán bằng 2
phép tình đòi hỏi học sinh phải tư duy, phải tìm hiểu, phải lựa chọn câu lời giải,
phép tính chi phù hợp nắm được cách trình bày….Tức là học sinh tự phát hiện
vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức và phát triển khả năng phán đoán, suy luận của

mình dưới sự tổ chức điểu khiển của giáo viên.
Đối với dạng toán này, trước khi hướng dẫn học sinh giải toán cần giúp
học sinh nắm chắc được yêu cẩu của bài ra và các mối quan hệ giữa các yếu tố
đã biết của bài toán. Biết phương pháp giải bài toán.
- Đọc- tóm tắt bài toán.
- Tìm phép tính giải bài toán và lời giải.
- Trình bày bài giải và đáp số.
- Kiểm tra bài giải và đáp số.
Với cơ sở toán học đã nói ở trên, ta lần lượt đi vào cụ thể các dạng toán.
Dạng 1: Tìm một trong các phần bằng nhau của 1 số.
Dạng này các em đã được làm quen ở lớp 2, lớp3 đã chuẩn bị cho học
sinh tìm 1/2, 1/3, 1/4 , 1/5, 1/6. Bằng sử dụng hình vẽ và cả thao tác kinh nghiệm
trong đời sống học sinh sự hỗ trợ của bảng chia đã học( như tô màu vào một ô
vuông, khoanh tròn 1/3 số viên bi….).
Lên lớp 3, dạng toán này được thể hiện qua toán có lời văn đòi hỏi học
sinh tóm tắt bài toán ( bằng lời, bẳng viết ngắn gọn, bằng hình vẽ, sơ đồ,…) để

4


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
giúp học sinh tìm ra mối quan hệ giữa các tư liệu trong bài toàn, từ đó nhớ lại
dạng bài tương tự đã học và nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài toàn.
Bài toán: Chị có 12 cái kẹo, chị cho em 1/3 số kẹo đó. Hỏi chị cho em
mầy cái kẹo?
Ở dạng toán này, các em sẽ còn có những thắc mắc, bỡ ngỡ:” làm thế nào
đi tìm 1/3 của 12 cái kẹo? ”
Giáo viên nên gọi vài học sinh nhắc lại nêu tóm tắt bài toán (bằng lời,
bằng viết, bằng hình vẽ). Đây là quá trình giúp học sinh nhận ra vấn đề của bài
học, chẳng hạn, đó là tìm 1/3 của cái kẹo, hay tìm xem 1/3 của 12 cái kẹo gồm

mấy cái kẹo. Để giải quyết vấn đề này, học sinh phải liên hệ tới “Biểu lượng về
1/3” đã học rồi từ đó nêu tóm tắt bài toán bằng hình vẽ hoặc bằng sơ đồ ( xem
hình 1 và hình 2)
12 kẹo

12 kẹo

Hình 1

Hình 2

Khuyến khích học sinh ( dựa vào tóm tắt bài toán như hình 1 hoặc hình 2)
để nêu cách giải quyết vấn đề.
Học sinh nêu: Để tìm 1/3 của 12 cái kẹo ta chia 12 cái kẹo thành 3 phần
bằng nhau (12:3=4 (cái kẹo)). Mỗi phần bằng nhau đó là 1/3 số kẹo.
Giúp học sinh trình bày cách giải quyết vấn đề ở bài toán trên là trình bày
bài giải của bài toán.
Giáo viên hỏi: 4 cái kẹo là số kẹo của ai?
Học sinh xác định được số kẹo đó là số kẹo chị cho em từ đó học sinh sẽ
có câu trả lời chính xác.
Bài giải
Chị cho em số kẹo là:
12:3=4 (cái)
Đáp số: 4 cái kẹo.

5


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Dạng 2: Bài toán giải bằng 2 phép tính.

- Đối với dạng toán này là dạng toán mới đối với học sinh, các em
đang quen với loại bài toán giải bằng 1 phép tính, dựa vào câu hỏi để viết câu trả
lời. Nhưng đối với bài toán giải bằng 2 phép tính, học sinh rất dễ bị nhầm câu trả
lời và không đủ phép tính đòi hỏi học sinh phải đọc kỹ đầu bài, xác định rõ các
dữ liệu đã cho và phải tìm.
Bài toán: Bể thứ nhất có 4 con cá, bể thứ 2 có nhiều hơn bể thứ nhất 3
con cá. Hỏi 2 bể có bao nhiêu con cá?
- Học sinh đọc đề bài, xác định những dữ kiện đã cho và những dữ
kiện phải tìm.
- Giáo viên tóm tắt theo sơ đồ đoạn thẳng .
Tóm tắt
Bể thứ nhất:
Bể thứ hai:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh:
Muốn tìm số cá ở cả 2 bể, phải biết số cá ở những bể nào (phải biết số cá
ở mỗi bể).
Đã biết số cá ở bể nào, phải tìm số cá ở bể nào ? ( đã biết số cá ở bể thứ
nhất. Phải tìm số cá ở bể thứ hai).
Số cá ở bể thứ hai là: 4+3=7 (con)
Tìm số cá ở cả hai bể?
Số cá ở cả hai bể là:4+7=11 (con)
Học sinh trình bày bài giải;
Số cá ở bể thứ hai là: 4+3=7 (con)
Số cá ở cả hai bể là: 4+7=11 (con)

6


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Đáp số: 11 con

Học sinh nhận xét sự khác nhau của bài toán này với các bài toán đã làm (
đây là bài toán giải bằng hai phép tính).
Dạng 3: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Đây là dạng toán mới đối với học sinh . Do đó giáo viên phải định hướng
rất cụ thể để học sinh nhận thức đúng, chính xác để dẫn đến giải bài toán với
những câi trả lời và phép tính chính xác.
Bài toán: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật
ong? Học sinh phân tích bài toán ( cái gì đã cho, cái gì phải tìm? )
Tóm tắt:

7 can có: 35 lít
2 can có :….lít?

Giáo viên định hướng cho học sinh.
Muốn tìm 2 can có bao nhiêu lít mật ong ta phải tìm 1 can có bao nhiêu lít
mật ong.
Biết 7 can có 35 lít mật ong, muốn tìm mỗi can chứa mấy lít mật ong phải
làm phép tính gì? (phép chia).
35:7=5 (lít)
Biết mỗi can chứa 5 lít mật ong, muốn tìm 2 can chứa bao nhiêu lít mật
ong phải làm phép tính gì? ( phép nhân).
5 x 2=10 (lít)
Học sinh trình bày bài giải.
Số lít mật ong trog mỗi can là:
35 : 7 = 5 (lít)
Số líy mật ong trong 2 can là:
5 x 2 = 10 (lít)
Đáp số: 10 lít

7



“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Giáo viên khái quát: Khi giải “bài toán liên quan đến rút về đơn vị”
thường tiến hành theo hai bước:
Bước 1: Tìm giá trị một phần

(Thực hiện phép chia).

Bước 2: Tìm giá trị nhiều phần đó

(Thực hiện phép nhân).

Đối với những học sinh các em chưa làm bài đựoc giáo viên hướng dẫn cụ
thể tới các em đó.
Giáo viên khuyến khích học sinh tìm nhiều phương án và lựa chọn
phương án tốt nhất để giải bài toán. Học sinh có thể có những câu trả lời không
giống hệt nhau nhưng khuyến khích các em có nhiểu cách trả lời.

Giáo viên

triệt để khai thác phương pháp học trực quan, quan sát tranh theo các sơ đồ
nhằm giúp học sinh lấy ví dụ về mô hình, mô tả bài toán, biết tóm tắt bài toán
bằng sơ đồ.
Dạy học không phải chỉ đưa ra các kiến thức buộc học sinh phải công
nhận, áp đặt kiến thức cho học sinh mà trong khi dạy học giải toán cho học sinh
thì ngay từ khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán giáo viên cần chú ý tổ chức
cho học sinh đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng.
Dạy học không cung cấp sẵn lời giải cho học sinh mà chỉ định hướng, gợi
ý để học sinh tự phát hiện lời giải. Cho phép học sinh tự suy nghĩ ra nhiều cách

đặt lời giải khác nhau.
2. Cơ sở tâm lý học.
Như chúng ta đã biết tâm lý học thực sự là một cơ sở của phương pháp
dạy học môn tóan ở Tiểu học, tâm lý lứa tuổi được chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu cấp: lớp 1, 2, 3.
+ Giai đoạn cuối cấp: lớp 4, 5.
Khả năng nhận thức của học sinh tiểu học cũng đang được hình thành và
phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng song song với quá trình phát
triển tâm lý.
Dạy học môn toán cũng là một quá trình quan trọng góp phần làm thay

8


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
đổi nhân cách của học sinh nhằm đào tạo được thế hệ trẻ thong minh, năng
động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của cuộc sống trong xã hội hiện đại. Vì vậy
trong quá trình dạy học môn toán, giáo viên cần phải nắm được đặc điểm của
quá trình nhận thức của học
sinh ở từng giai đoạn thì mới đạt hiệu quả cao.
Cụ thể là: học sinh lớp 1, 2, 3 ghi nhớ có chủ định chưa phát triển mạnh.
Tư duy của học sinh luôn từ tính trực quan, cụ thể, khả năng phán đoán, suy luận
chưa chặt chẽ. Do đó giáo viên cần đảm bảo tính trực quan trong dạy học, cần
định hướng gợi ý dẫn dắt để học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề. Mặt
khác cần hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập của bản thân, của
bạn bè tạo cho học sinh niềm vui, hứng thú, niềm tin trong học tập và có ý thức
vươn lên. Đây cũng là một phương pháp giáo dục học sinh thể hiện rõ trong môn
toán, nghĩa là ngoài việc cung cấp trí thức, kỹ năng, kỹ xảo còn dạy cho học sinh
cách học ( phương pháp làm việc trí óc). Như vậy, khi học hết tiểu học trẻ được
phát triển cả về trí tuệ, đạo đức, tình cảm, thẩm mỹ và thể chất đáp ứng yêu cầu

tiếp tục học lên cấp trên hoặc bước vào cuộc sống lao động của những người
công dân.
Như ta đã biết phương pháp dạy học môn toán có thể coi là một “phân
môn” của lý luận học. Vì vậy phải dựa vào các thành tựu khoa học giáo dục. Các
quy luật học của giáo dục sẽ chi phối, tác động lên quá trình dạy học môn toán.
Phương pháp dạy học môn toán phải vận dụng các nguyên tắc cơ bản của lý luận
dạy học để xác định mục đích, đặt các yêu cầu vừa sức học sinh tiểu học, lựa
chọn phương pháp dạy học phù hợp với trình độ và trẻ em Việt Nam.
II. PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN:
Do trình độ nhận thức học sinh ngày càng được nâng cao, kinh nghiệm
sống được tích luý. Vì vậy phải cải tiến phương pháp dạy học bằng cách đưa học
sinh vào những tình huống có vấn đề dưới sự hưóng dẫn có chủ định của giáo
viên. Hướng học sinh học tập nhằm diễn đạt và giải quyết các vấn đề học tập,

9


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
tạo điều kiện cho sự lĩnh hội trẻ chi thức mới và hành động mới, hình thành
năng lực sáng tạo của học sinh. Dạy học sao cho tất cả học sinh đều làm việc
( hay dạy học tổ chức làm việc) là một trong những đinh hướng quan trọng của
việc đổi mới phương pháp dạy toán ở Tiểu học. Đây là một cách dạy học tiên
tiến, nó bám sát nguyên tắc: “dạy học thong qua các hoạt động bằng tay” ( Chứ
không phải bằng tai) của bản thân từng trẻ em”.
Ví dụ: Giả sử giáo viên yêu cầu học sinh tìm những điều đã cho và những
điều phải tìm trong một bài toán nào đó, hãy so sánh 2 cách dạy sau:
Cách 1: Đàm thoại.
Giáo viên hỏi cả lớp “ em hãy cho biết trong bài toán này đâu là cái đã
cho, đâu là cái phải tìm? Ai biết giơ tay?”
Thế thì không có gì bảo đảm là cả lớp đều suy nghĩ để xác định đâu là cái

đã cho? Đâu là cái phải tìm? Bởi vì thường thường chỉ có 4, 5 em? Thậm chí, 2
em giơ tay xin trả lời. Do đó ta chỉ có thể khẳng định chắc chắn là trong lớp chỉ
có 4, 5 em
( hoặc một, hai em) có suy nghĩ. Những trên thực tế chỉ có một em thực sự làm
việc. Vì thế ta không nên làm như vậy mà nên làm theo hướng như sau:
Cách 2: Tổ chức làm việc.
Giáo viên ra lệnh: Giơ bút chì! ( Cả lớp giơ bút chì).
- Gạc dưới những điều đã chi trong bài toán! ( cả lớp, nghĩa là mỗi
học sinh đều phải chú ý đề toán trong sách giáo khoa để tìm những
cái nào đã cho và gạch dưới).
Trong lúc này, giáo viên đi xuống cạnh các em để đôn đốc các em làm
việc giúp đỡ các em kém. Giáo viên có thể bao quát cả lớp, hễ thấy học sinh nào
không cầm bút chì để gạch thì nhắc nhở em đó làm việc, nhờ có những lệnh làm
việc bằng tay mà những học sinh không chịu làm việc bị lộ ra. Do đó giáo viên
có thể kiểm soat được hoạt động của cả lớp.
Tóm lại: Muốn cho việc dạy học tác động được tới 100% học sinh thì

10


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
giáo viên nên viết bài học thành một hệ thống các công việc mà học sinh có thể
thực hiện được bằng tay. Việc này gọi là thao tác hoá bài học.
Khi lựa chọn các phương pháp dạy học ta cần xác định đặc điểm khả năng
của mỗi phương pháp, phải thấy được những ưu điểm, nhược điểm của các
phương pháp dạy học cho phù hợp với mục đích, nội dung của bài dạy.
Khi lựa chọn các phương pháp dạy học môn toán cần căn cứ vào:
-

Mục đích, nội dung của từng bài dạy ( khi nội dung dạy học thay


đổi thì phương pháp dạy học cũng thay đổi theo).
-

Mục đích dạy học của giờ học toán, chẳng hạn: Mục đích dạy học

chính trong giờ học là giúp học sinh hiểu sâu, củng cố tri thức và kỹ năng giải
toán. Trong giờ học toán thì không thể sử dụng phương pháp giảng hay mô tả
mà phải sử dụng phương pháp luyện tập thực hành.
-

Nội dung tài liệu trong giò học đó.

-

Đặc điểm lứa tuổi học sinh, trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của

học sinh (do năng lực chú ý, kỹ năng nghe giảng của học sinh tiểu học còn kém
nên nói chúng ta không sử dụng một phương pháp mà sử dụng nhiểu phương
pháp kết hợp với nhau, đan xen lẫn nhau).
-

Trình độ, tài nghệ sư phạm của giáo viên.
Ta thấy trong quá trình dạy học môn toán học sinh tiểu học không thể tiếp

thu những khái niệm mới như người lớn hay như học sinh cấp hai được.
Vì vậy trong khi dạy học, học sinh giải toán nhất là dạy “ Giải toán có lời
văn” ta cần linh hoạt lựa chọn các phương pháp dạy học và phương pháp giải
toán ở tiểu học như sơ đồ hình vẽ…Đặc biệt là phương pháp dung hình vẽ mô
phỏng là phương pháp giải quen thuộc để học sinh hình dung, dễ tiếp nhận phù

hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu
học. Đồng thời rèn luyện tư duy toán học cho học sinh.
III. DẠY THỰC NGHIỆM.
1. Mục đích thực nghiệm.

11


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Qua phần thực nghiệm tôi muốn làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Đổi mới phương pháp dạy học tạo ra môi trường khuyến khích từng học
sinh chủ động học tập.
-

Trong quá trình dạy học phải coi học sinh là nhân vật trung tâm,

giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh đều được hoạt động học tập và được phát
triển cao nhất.
-

Giáo viên có quyền lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học

từng bài học, phù hợp với học sinh nhằm đạt yêu cầu của chương trình môn học.
Qua thực nghiệm, kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của phương án đề
xuất trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
2. Nội dung thực hiện.
Sauk hi tìm hiểu thực tế, thực trạng dạy và học của giáo viên và học sinh
trường tôi, tôi nghiên cứu soạn thảo giáo án và dạy học thực nghiệm hai tiết ở
lớp 3A lớp thực nghiệm, còn lớp 3B dạy bình thường với nội dung như sau:
- Tiết 1: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( tiết 22).

- Tiết 2: Luyện tập ( tiết 124).
Thời gian dạy: Tiết 1 ngày 10 tháng 3 năm 2012.
Tiết 2 ngày 12 tháng 3 năm 2012.
Thành phần dự giờ gồm đồng chí hiệu phó chuyên môn, các đồng chí giáo
viên dạy khối lớp 3.
Mục đích, cách thức và trình bày tự bài dạy được ghi trong giáo án.
Sau khi dạy xong 2 tiết ra đề kiểm tra để đánh giá kết quả ở lớp dạy thực
nghiệm và ở lớp không thực nghiệm ( Lớp đối chứng).
Đề kiểm tra như sau:
Bài 1: Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có
bao nhiêu quyển vở.
Bài 2: Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi
muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch?

12


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Bài 3: Lập đề tóm tắt rồi giải bài toán đó:
Tóm tắt:

4 xe: 8520 viên gạch
3 xe:………viên gạch?

Qua hai tiết dạy học bằng phương pháp mới ở lớp 3A ý đồ giáo viên chỉ là
người tổ chức hướng dẫn, gợi mở. Học sinh tích cực, chủ động sáng tạo, giáo
viên giúp học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học, qua đó tự tìm
ra chiến lĩnh kiến thức mới, biến tri thức của loài người thành tri thức của bản
thân. Với phương pháp dạy học như vậy, từng học sinh được tham gia giải quyết
vấn đề. Do đó học sinh hứng thú với việc học tập.

* Kết quả cụ thể.
- Học sinh đã có thói quen nhận dạng toán.
- Nắm chắc được quy định giải toán.
+ Đọc đề bài.
+ Tóm tắt đề.
+ Phân tích, tìm lời giải.
+ Trình bày bài giải.
+ Kiểm tra bài giải và đáp số.
- Có kỹ năng giỉa toán linh hoạt, sáng tạo, ít nhầm lẫn.
- Biết đặt đề toán ( dựa vào tóm tắt) với lời văn phù hợp với thực tế.
- Học sinh hứng thú hơn khi gặp những bài tập về giải toán, không còn lúng
túng cụ thể qua khảo sát chất lượng như sau:
Năm học 2011-2012
Lớp 3 A
Bài

Tóm tắt đúng

Giải đúng

1

100%

97%

2

100%


97%

3

100%

Lớp 3 B

13


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Bài

Tóm tắt đúng

Giải đúng

1

80%

82%

2

75%

79%


3

65%

Kết quả: Năm học 2012-2013
Lớp 3 A
Bài

Tóm tắt đúng

Giải đúng

1

100%

100%

2

100%

97%

3

100%

Lớp 3 B
Bài


Tóm tắt đúng

Giải đúng

1

85%

88%

2

80%

82%

3

70%

Như vậy, nhìn vào bảng tổng hợp trên cho thấy chất lượng của lớp 3A hơn
hẳn so với lớp 3B.
Tóm lại: Học sinh đã nắm chắc phương pháp giải loại toán này và đã vận
dụng sáng tạo, linh hoạt trong giải toán.
* Phần đánh giá của đồng nghiệp.
Các đồng nghiệp cho rằng đây là phương pháp dạy học có ưu điểm, phát
huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, học sinh dễ tiếp thu và

14



“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
hứng thú học tập, đồng thời phát huy được năng lực tư duy toán học của học
sinh.
* Qua phần thực nghiệm, bản thân tôi đã thu được kết quả sau:
- Nắm chắc các phương pháp dạy học giải toán cho học sinh, học sinh dễ
tiếp thu và hứng thú học tập, đồng thời phát huy được năng lực tư duy toán học
của học sinh.
- Nắm chắc các phương pháp dạy học giải toán cho học sinh lớp 3 và tác
dụng của từng phương pháp.
- Thấy được khả năng nhận thức của học sinh lớp 3 trong việc giải toán có
lời văn.
- Qua hai tiết thực nghiệm tìm ra những vấn đề còn vướng mắc của học
sinh khi giải toán để từ đó giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy học phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
- Nắm chắc các bước của quá trình giải toán có lời văn.

PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ NGHỊ

15


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Qua phần nghiên cứu cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tế, thực trạng và dạy
thực nghiệm về phương pháp dạy học, giải toán cho học sinh lớp 3 tôi thấy dạy
học giải toán có lời văn có một vị trí rất quan trọng. Trong giải toán học sinh
phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và
khả năng vào các tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát
hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và

trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động nhất, sáng tạo. Vì vậy có
thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí
tuệ của học sinh.
Đặc biệt qua việc nghiên cứu này bản thân tôi thấy rõ hơn trách nhiệm của
bản thân trong việc rèn luyện, học hỏi, nghiên cứu để nâng cao tay nghề, nâng
cao kiến thức cho mình. Đồng thời góp phần cho việc nâng cao chất lượng và
phương pháp dạy học của trường. Người giáo viên phải tâm đắc, say mê với
nghề nghiệp “ tất cả vì học sinh thân yêu”, phải luôn coi trọng việc dạy học, lấy
học sinh làm trung tâm quá trình dạy học, cần giúp học sinh tự giác chủ động
chiếm lĩnh tri thức, tránh để các em tiếp thu một cách thụ động. Trong quá trình
giảng dạy phải thường xuyên kiểm tra đánh giá để động viên, khích lệ kịp thời,
khích lệ long ham mê hứng thú học tập, làm động lực thúc đẩy việc học tập đạt
kết quả cao.
Qua thực nghiệm mạnh dạn đề ra phương pháp dạy học “ Giải toán có lời
văn” cho học sinh lớp 3 và phương pháp “ lấy học sinh làm trung tâm” theo quy
trình sau:
Bước 1: Tim hiểu đề- Tóm tắt.
- Học sinh đọc kỹ đề toán, cần hiểu rõ một số thuật ngữ trong đề bài toán.
- Cần phân biệt rõ cái đã cho “ dữ kiện” và cái cần tìm “ ẩn số”.
- Nhận dạng toán ( ở bước này dung phương pháp vấn đáp là chủ yếu).
Bước 2: Phân tích- Tìm lời giải: ( Bước này dùng phương pháp phân tíchTổng hợp) Học sinh lập kế hoạch giải toán.

16


“ phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3”.
Bước 3: Trình bày lời giải.
Thực hiện các phép tính đã nêu trên kế hoạch giải bài toán và trình bày lời
giải.
Bước 4: Kiểm tra lời giải và đáp số.

Các bước trên không thể áp dụng trong chốc lát mà phải tiến hành thường
xuyên trong quá trình dạy học giải toán để học sinh nắm chắc được quy trình
giải toán, giúp cho việc dạy học giải toán cho học sinh lớp 3 đạt kết quả tốt hơn.
Nhật Tân, ngày 17 tháng 10 năm 2014
Người viết
Phạm Thị Vân Hạnh

17



×