Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 188 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾNĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................... 5
1.1. Các công trình nghiên cứu vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa tăng trƣởng
kinh tế và phát triển văn hóa ................................................................................... 5
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện mối quan hệ giữa tăng
trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam ................................................ 15
1.3. Các công trình nghiên cứu về phƣơng hƣớng và giải pháp thực hiện mối
quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa..................................... 20
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ....................... 24
Chƣơng 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀPHÁT
TRIỂN VĂN HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................ 26
2.1. Khái niệm tăng trƣởng kinh tế, phát triển văn hóa, mối quan hệ giữa tăng
trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa .................................................................... 26
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế ........................................................................ 26
2.1.2. Khái niệm phát triển văn hóa .......................................................................... 34
2.1.3. Khái niệm mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ........ 42
2.2. Mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ......................................................................................................................... 47
2.2.1. Bối cảnh thời kỳ đổi mới và tính tất yếu phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa ở Việt Nam .......................................................................................... 47
2.2.2. Nội dung mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt
Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...... 51
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 64
Chƣơng 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT
TRIỂN VĂNHÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI - THỰC
TRẠNGVÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA .............................................................. 66
3.1. Thành tựu trong thực hiện mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát
triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới .................................................. 66




3.1.1. Tăng trưởng kinh tế tạo nền tảng vật chất, trở thành động lực cho sự phát
triển văn hóa trong công cuộc đổi mới ..................................................................... 66
3.1.2. Phát triển văn hóa giữ vai trò nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, nhân tố
điều tiết cho tăng trưởng kinh tế ............................................................................... 79
3.2. Hạn chế trong thực hiện mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát
triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới ....................................................................... 86
3.2.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chủ yếu theo chiều rộng, chưa bền vững,
chưa tương xứng với vai trò là cơ sở vật chất, động lực cho phát triển văn hóa .............. 86
3.2.2. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức và bất cập
trong giáo dục trên lĩnh vực văn hóa kìm hãm tăng trưởng kinh tế ........................ 90
3.3. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ........................................................................... 100
3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu ............................................................... 100
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................................. 102
3.3.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ................................... 108
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 114
Chƣơng 4. MỐI QUAN HỆ GIỮATĂNG TRƢỞNG KINH TẾVÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI- PHƢƠNG
HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP..................................................................................... 117
4.1. Phƣơng hƣớngthực hiện mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát
triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ................................................ 117
4.1.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng nhanh
kết hợp hài hòa với xây dựng và phát triển nền văn hóa thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học, nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước ........... 117
4.1.2. Thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa có hiệu
quả, phát huy đồng thời vai trò của văn hóa và kinh tế trong sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội ...................................................................................................... 119
4.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trƣởng kinh tế với phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ....... 121


4.2.1. Nâng cao nhận thức, hoàn thiện cách thức tổ chức thực hiện Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ trongthực hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa ..................................................................... 121
4.2.2. Tạo nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ..................... 126
4.2.3. Thực hiện đổi mới đồng bộ trên lĩnh vực tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với xây dựng nền văn hóa thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học.............................................................................................................. 134
4.2.4. Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế
thị trường tới phát triển văn hóa và xã hội ............................................................. 139
4.2.5. Tăng cường hội nhập quốc tế về kinh tế gắn với phát triển văn hóa và hội
nhập văn hóa ........................................................................................................... 143
Tiểu kết chƣơng 4 .................................................................................................. 147
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ............................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 164


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đời sống con người bao gồm hai phương diện vật chất và tinh thần. Đời sống
vất chất và đời sống tinh thần có thể được hiểu là kinh tế và văn hóa, là những hoạt
động thực tiễn cơ bản của con người. Phát triển xã hội được đánh giá trên nhiều tiêu

chí, trong đó có hai tiêu chí cơ bản là tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
Chúng cùng tồn tại trong một thể thống nhất, tác động qua lại, cùng quy định lẫn
nhau và hướng đến mục đích chung là vì sự phát triển của con người. Sự hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa cũng là một trong những tiêu chí để
đánh giá sự phát triển toàn diện, bền vững của một quốc gia.
Về mặt lý luận, đề tài này đã và đang được quan tâm trong thời gian gần đây.
Vấn đề tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là mối quan hệ tương đối phức tạp,
có nhiều ý kiến xoay quanh, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong điều kiện và tình hình
hiện nay. Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững đất nước, việc gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa cần phải được nghiên cứu sâu và luận giải
dựa trên những cơ sở khoa học, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và việc thực hiện quan triệt Nghị quyết
của Đảng vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo.
Về mặt thực tiễn, ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đã nhiều lần khẳng định
tư tưởng về sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Thực chất của
mối quan hệ này là đảm bảo mục tiêu gắn kết một cách hài hòa, cân đối giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.
Đây cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững của một
quốc gia. Nhận thức về vấn đề này, Đại hội XI Đảng ta đã thông qua nhiều văn kiện
quan trọng, trong đó có Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ ra một trong tám mối quan hệ
lớn cần giải quyết ở Việt Nam “giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [35, tr. 73]. Điều này tiếp
tục được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác định là một trong chín mối quan
hệ lớn cần giải quyết: “Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, đảm

1



bảo an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân…”
[37, tr.271]. Như vậy, có thể nhận thấy, Đảng ta đã chủ trương kết hợp mục tiêu
tăng trưởng kinh tế với mục tiêu phát triển văn hóa, vì sự phát triển bền vững của
đất nước, hướng tới mục tiêu của phát triển toàn diện, hướng tới con người và vì
con người - một mục đích nhân văn cao đẹp.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã giành được những thành tựu rất
quan trọng: nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, đạt mức tăng trưởng khá cao, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, dân chủ trong xã hội
tiếp tục được mở rộng, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững.
Nhìn chung, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi tạo điều kiện, tiền đề nâng cao thế
và lực để nước ta phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới. Song, trên thực tế,
chúng ta mới chỉ tập trung nhiều cho đổi mới và tăng trưởng kinh tế, chưa quan tâm
thực sự và tương xứng việc phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đó chính là
nguyên nhân sâu xa của tình trạng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội về sự
suy thoái tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, lối sống, nguy cơ về sự phát triển của chủ
nghĩa thực dụng ngày càng lớn. Đó là nghịch lý diễn ra trong quá trình phát triển đất
nước, cùng với tăng trưởng kinh tế ngày càng cao là sự xuất hiện những hiện tượng đi
xuống của văn hóa, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và giáo dục.
Như vậy, có thể thấy sự thiếu đồng bộ, chưa tương xứng giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa vẫn còn là vấn đề bức xúc, cấp thiết đòi hỏi cần có sự
nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn nữa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kiên định mục tiêu định hướng chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới của nước ta, cần có sự nhận thức khách quan,
đầy đủ và toàn diện về mặt lý luận, thực trạng và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa tại Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới. Do đó, chúng tôi chọn “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” là đề tài luận án nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Từ những luận giải lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, luận án làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp
2


nhằm thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, luận giải một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng (thành tựu và hạn chế), nguyên nhân của
thực trạng đó và một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong những năm đổi mới.
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp mang tính định hướng nhằm thực
hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt
Nam trong những năm đổi mới tiếp theo.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: về không gian là ở Việt Nam, về thời gian là trong
thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay). Về tăng trưởng kinh tế, luận án khảo sát
trên hai tiêu chí tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thu nhập bình quân trên đầu
người (GDP/người). Về phát triển văn hóa, luận án khảo sát trên ba lĩnh vực: tư
tưởng, đạo đức, lối sống; môi trường văn hóa và giáo dục. Nội dung mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam, luận án nghiên cứu sự
tương tác qua lại giữa hai lĩnh vực tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa và hệ
quả của sự tương tác đó.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết cổ điển về tăng
trưởng kinh tế, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, các công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, tác giả sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và các phương pháp: lịch sử - logic, phân
tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa, tiếp cận hệ thống,

3


phương pháp tiếp cận tổng hợp và liên ngành để phân tích việc giải quyết mối quan
hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa…
5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận xoay quanh mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam: khái niệm mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, chủ thể và các nhân tố ảnh hưởng
tới việc thực hiện mối quan hệ này ở Việt Nam.
Thứ hai, luận án phân tích, làm rõ thực trạng (thành tựu và hạn chế), đồng thời
chỉ rõ các nguyên nhân của thực trạng thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Thứ ba, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam
trong những năm đổi mới tiếp theo.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Về lý luận:
Luận án góp phần hoàn thiện hơn cách hiểu về mối quan hệ giữa tăng trưởng

kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Về thực tiễn:
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tư vấn hoạch định các
chính sách về kinh tế và văn hóa của Đảng và Nhà nước, phục vụ nghiên cứu và
giảng dạy triết học về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bài viết của tác giả và tài liệu
tham khảo, luận án được trình bày trong 4 chương 11 tiết.

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa tăng
trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa
Trên thế giới, vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa và mối
quan hệ giữa chúng đã được nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau bởi các
nhà khoa học, nhà hoạt động văn hóa và các tổ chức quốc tế:
Năm 1972, nhà sử học nổi tiếng người Anh Arnold Tonybee với tác phẩm
“Nghiên cứu về lịch sử - một cách thức diễn giải” (Nxb Thế giới, Hà Nội,2002),
một công trình đồ sộ 12 tập từ năm 1934 – 1972. Đây là một công trình tổng hợp và
so sánh các nền văn minh, đồng thời là một tác phẩm trình bày quan điểm hiện đại
về lịch sử. Tác giả khảo sát 31 nền văn minh trên thế giới, trong đó có Việt Nam từ
thời tiền sử đến nay. Theo quan điểm này, ông cho rằng, văn hóa chính là động lực
của sự phát triển.
Tác phẩm “Giáo dục - của cải nội sinh” do J. Dolo chủ biên đã khẳng định đi
vào thế kỷ XXI, vấn đề giáo dục sẽ nổi lên hàng đầu, nhân cách văn hóa được hình
thành trong giáo dục là nội dung cốt lõi được đề cập tới trong thời đại ngày nay.

Năm 2003, Hội nghị bàn tròn các Bộ trưởng giáo dục họp ngày 09-10/10/2003 tại
trụ sở UNESCO ở Paris đã đưa ra thông cáo “Hướng tới các cộng đồng tri thức”.
Thông cáo nhấn mạnh, xã hội tri thức là con đường nhân văn hóa quá trình toàn cầu
hóa, bảo đảm quyền con người, nhân phẩm và đoàn kết với nguyên tắc: tự do ngôn
luận, mọi người được tiếp cận với thông tin và tri thức, tôn trọng nhân phẩm, đa
dạng văn hóa, đa dạng ngôn ngữ, giáo dục có chất lượng cho mọi người, đầu tư vào
khoa học và công nghệ, chấp nhận thông hiểu các hệ thống tri thức khác nhau.
Nhà tương lai học Alvin Toffler cho rằng lịch sử phát triển của xã hội loài
người là sự thay thế các nền văn minh với bộ ba tác phẩm “Thăng trầm quyền lực”,
“Cú sốc tương lai” “Làn sóng thứ ba” (Nxb Thanh niên, 2002). Sau khi phân chia
tiến trình lịch sử của nhân loại thành các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau
dựa vào yếu tố công cụ kỹ thuật trong nền sản xuất với ba làn sóng văn minh: văn
minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học mà sự phát triển của tri

5


thức có vai trò quyết định. Bằng những luận chứng sâu sắc, A. Toffler đã làm rõ về
tri thức, quyền lực, chủ thể quyền lực, phẩm chất các loại quyền lực trong truyền
thống, từ quyền lực bạo lực đến quyền lực của cải, cho đến quyền lực của tương lai
– quyền lực tri thức. Từ đó, tác giả chỉ ra sự trỗi dậy của một quyền lực trên quy mô
toàn cầu – quyền lực tri thức - nguồn gốc của mọi phương thức sáng tạo của cải mới
làm thay đổi lịch sử nền văn minh vật chất, văn minh tinh thần của nhân loại trong
thời đại ngày nay và trong tương lai. Tư tưởng của ông đã tuyệt đối hóa vai trò của
tri thức trong sự phát triển xã hội.
Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đã diễn ra nhiều biến cố trong
đời sống chính trị quốc tế. Nhà chính trị học người Mỹ Samuel P.Huntington đã viết
cuốn sách “Sự va chạm của các nền văn minh” (Nxb Lao động, Hà Nội, 2003), đề
cập tới sự đụng độ của các nền văn minh sẽ là diễn biến cuối cùng của xung đột
toàn cầu trong thế giới hiện đại. Sau Chiến tranh lạnh, thế giới không phân chia

thành Bắc – Nam, Đông – Tây theo hệ tư tưởng mà gắn với các nền văn minh. Sự
thống trị của các nước phương Tây trên nhiều lĩnh vực bắt đầu suy giảm, nhường
chỗ cho sự phát triển của nhiều nước, đặc biệt là châu Á, trong đó có Việt Nam.
Mối liên hệ giữa các quốc gia được hình thành trên một nền tảng mới. Những tranh
chấp về sắc tộc, tôn giáo, phong trào tôn giáo cực đoan, chủ nghĩa khủng bố quốc
tế, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phân hóa giàu nghèo… Như vậy, nguồn gốc của các
xung đột không còn là kinh tế nữa mà chuyển sang là văn hóa với bản sắc riêng biệt
của các quốc gia dân tộc. Theo đó, các quốc gia cần có những chính sách văn hóa
phù hợp.
Thomas L. Friedman trong tác phẩm “Chiếc Lexus và cây Ôliu” đã đưa ra cái
nhìn xuyên suốt về hệ thống quốc tế mới đang làm biến đổi tình hình thế giới hiện
nay. Toàn cầu hóa đã thay thế Chiến tranh lạnh, mang lại sự hội nhập về tư bản,
công nghệ, thông tin xuyên qua biên giới quốc gia. Qua những câu chuyện và những
chuyến đi khắp nơi, ông đã mô tả cặn kẽ sự xung đột giữa chiếc Lexus và cây Ôliu
– tượng trưng cho quan hệ căng thẳng giữa hệ thống toàn cầu hóa hiện đại với
những sức mạnh văn hóa, địa lý, truyền thống và cộng đồng từ ngàn xưa. Tác giả
mô tả cặn kẽ sự chống đối mãnh liệt do toàn cầu hóa gây ra cho những con người bị
thua thiệt. Ông cũng nói rõ những gì chúng ta cần làm để cân bằng giữa chiếc Lexus

6


và cây Ôliu – nghĩa là cân bằng giữa toàn cầu hóa với văn hóa truyền thống. Đây
đồng thời là vấn đề chung của mọi quốc gia, dân tộc. Bởi lẽ, không một đất nước
nào, cộng đồng người nào có thể đứng ngoài vòng xoáy toàn cầu hóa.
Công trình “Economics and Culture” (Kinh tế và văn hóa, Cambridge
University Press, 2001) David Throsby đã nghiên cứu mối quan hệ của hai lĩnh vực
rất khác nhau, kinh tế và văn hóa. Công trình xem xét cả hai khía cạnh kinh tế của
hoạt động văn hóa, và bối cảnh văn hóa của kinh tế và hành vi kinh tế. Tác giả bàn
về sản phẩm văn hóa có giá trị cả về kinh tế và văn hóa, giới thiệu các khái niệm

vốn văn hóa và tính bền vững, thảo luận về sự sáng tạo trong việc sản xuất các sản
phẩm văn hóa và dịch vụ, văn hóa trong phát triển kinh tế, các ngành công nghiệp
văn hóa và chính sách văn hoá. Từ đó, ông khẳng định văn hóa là nguồn lực trực
tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Cuốn sách “The Economics of Cultural Policy” (Kinh tế học về chính sách
văn hóa, Cambridge, Cambridge University Press, 2010) David Throsby cho rằng
sự hiểu biết về bản chất của cả kinh tế và giá trị văn hóa được tạo ra bởi khu vực
văn hóa là điều cần thiết để làm chính sách hiệu quả. Ông phê phán các chính sách
văn hóa truyền thống, nặng về hỗ trợ tài chính cho nghệ thuật, cho di sản văn hóa,
thể chế kinh viện như bảo tàng, triển lãm. Chính sách văn hóa đang thay đổi, chú
trọng vào những ngành công nghiệp sáng tạo. Muốn xây dựng chính sách tốt cần
dựa vào quan điểm giá trị kinh tế và giá trị văn hóa đều được tạo bởi lĩnh vực văn
hóa. Cuốn sách là tài liệu tổng quát đầu tiên về ứng dụng của lý thuyết kinh tế và
phân tích cho các lĩnh vực rộng lớn của chính sách văn hoá.
Ở Việt Nam vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa cũng được quan tâm nghiên
cứu, đặc biệt trong những thập kỷ gần đây:
Công trình KX.05-01 “Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hóa con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế” (2006), Hồ Sỹ Quý làm chủ nhiệm đã chỉ rõ chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam trong nghiên
cứu về phát triển văn hóa, con người trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế. Công trình phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người; mối quan

7


hệ giữa văn hóa với con người của một số nhà tư tưởng như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trường Tộ; một số đức tính quý báu của người Việt Nam: cần
cù, hiếu học, thông minh, đoàn kết, nghĩa tình…; đồng thời khái quát bộ công cụ đo
lường chỉ số phát triển con người của UNDP, chỉ số phát triển của con người Việt

Nam; phân tích sự tác động của khoa học và công nghệ tới sự phát triển của văn hóa.
Công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” (2008) của Trần Thọ Đạt (chủ
biên), Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu và khái quát về mặt lý luận các
mô hình tăng trưởng kinh tế vĩ mô nổi tiếng nhất trên thế giới, từ truyền thống tới
hiện đại. Tác giả nghiên cứu thực nghiệm tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở các nước
công nghiệp phát triển, nguồn lực tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Đồng thời công trình giải thích một số “thần kỳ” trong tăng trưởng ở Đông Á và đi vào
phân tích các nguồn tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 1986 – 2002.
Công trình “Tác động của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh,
thành phố Việt Nam” (2008) của Trần Thọ Đạt, Đỗ Tuyết Nhung, Nxb Đại học
Kinh tế quốc dân nghiên cứu về vai trò và tác động của vốn con người đối với tăng
trưởng kinh tế. Nghiên cứu chủ yếu được thể hiện trong cuốn sách đã khẳng định
vốn con người là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nhân tố đầu vào trong
tăng trưởng; định nghĩa về tăng trưởng kinh tế và các nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế, áp dụng hàm sản xuất mở rộng để kiểm chứng vai trò của con người
đến tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2000 – 2004 ở Việt Nam.
Công trình “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội” của Đỗ Huy trên Tạp chí Triết học, số 12 năm 2009 đã phân tích sáu vấn đề
bức xúc cần chú ý trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là,
phải quan tâm tới thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước trong
mối tương quan với các nước khác; phải chú ý tới các hệ hình tư duy gắn với những
lợi ích; vấn đề gia tăng dân số và các hệ lụy của nó; vấn đề giáo dục; vấn đề cơ chế
thị trường; vấn đề chống tham nhũng. Theo tác giả, các vấn đề này đặc biệt quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, gắn liền với thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

8



Công trình “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, văn nghệ
trong thời kỳ đổi mới” (2010), Đinh Xuân Dũng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia,
là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học “Văn học, nghệ thuật Việt Nam
trong quá trình thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” bao gồm tập hợp các bài viết của các nhà khoa học tham gia đề
tài, chú trọng tìm hiểu một số mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng
trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ từ đổi mới đến nay qua các văn kiện, cương lĩnh
của Đảng. Các tác giả đã trình bày quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ, từ
đó, đưa ra quan điểm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với phát triển văn
hóa trong thời kỳ đổi mới. Trong đó, chú trọng tập trung mọi nguồn lực xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phát triển toàn diện, đa
dạng; Đảng chủ trương xử lý đúng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong từng bước và trong từng
chính sách phát triển; Văn hóa Việt Nam góp phần trực tiếp nuôi dưỡng, xây dựng
và phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Công trình “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội nhập quốc
tế” (2010), Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị Quốc gia, đã phân tích một cách sâu sắc
khái niệm văn hóa, các bộ phận hợp thành văn hóa, bản chất và chức năng của văn
hóa, các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành văn hóa dân tộc, sự phát triển
của văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta nói riêng và văn
hóa với phát triển và tiến bộ xã hội nhìn từ cục diện văn hóa châu Á – Thái Bình
Dương nói chung trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, qua thực tiễn Đông Á.
Nghiên cứu về phát triển văn hóa, tác giả khẳng định sự thống nhất giữa mục tiêu và
động lực của văn hóa trong phát triển và tiến bộ xã hội. Từ việc làm rõ những vấn
đề lý luận trên, tác giả nghiên cứu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế,
nghiên cứu sâu về sự biến đổi cục diện văn hóa khu vực châu Á – Thái Bình Dương
qua thực tiễn Á Đông.
Công trình “Kinh tế phát triển” (2011), Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim
Dung, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân đã khái quát những vấn đề lý luận về tăng

trưởng và phát triển kinh tế, tập trung nghiên cứu bản chất, nội dung của tăng
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế. Phân tích các nguồn lực của tăng trưởng kinh

9


tế, chủ yếu tập trung phân tích sự tác động của các yếu tố đầu vào đến tăng trưởng
kinh tế như lao động, tài nguyên thiên nhiên và môi trường, vốn và khoa học công
nghệ. Các mô hình tăng trưởng kinh tế, mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
phân tích lý thuyết về tăng trưởng kinh tế hiện đại và vai trò của ngoại thương trong
phát triển kinh tế.
Công trình “Vai trò động lực tinh thần cho phát triển bền vững của các giá trị
văn hoá truyền thống” của Đặng Hữu Toàn đăng tại Tạp chí Triết học số 7
(242)/2011, tr. 3 – 11, khẳng định trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định, văn hóa nói chung các giá trị văn hóa truyền thống nói
riêng là nền tảng tinh thần của xã hội, là cái làm nên cốt cách, bản lĩnh Việt Nam.
Với tư cách đó, văn hóa Việt Nam nói chung, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam nói riêng đã trở thành mục tiêu phát triển và hơn thế nữa,
còn trở thành động lực tinh thần, thành nguồn lực nội sinh không thể thiếu để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững. Từ đó, tác giả đã phân tích vai trò động lực cho phát
triển bền vững của các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa, giao lưu văn hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công trình “Chăm lo phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội” trên
Tạp chí Tuyên giáo số 3 năm 2011, của Nguyễn Ngọc Hòa, đã nhấn mạnh một xã
hội phát triển không chỉ có tăng trưởng kinh tế mà sự phát triển phải hướng đích
đến các mục tiêu văn hóa, văn hóa phải là thước đo cho tất cả các hoạt động. Văn
hóa không đứng ngoài kinh tế và chính trị. Môi trường văn hóa có ý nghĩa hết sức to
lớn trong đời sống tinh thần của con người, trong sự phát triển bền vững của từng
quốc gia. Mọi sự biến đổi, đảo lộn của môi trường văn hóa đều có thể đi liền với sự
biến đổi, biến động chính trị và sau đó là biến đổi về kinh tế.

Công trình “Xây dựng và phát triển văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường”
của Trần Văn Bính trên Tạp chí Tuyên giáo số 3 năm 2011, đã khẳng định Việt
Nam từ bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường là một hiện tượng hợp quy
luật. Nhờ đó, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, chính trị đạt được một
số thành tựu, đặc biệt là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự
tăng trưởng kinh tế là sự suy thoái về đời sống tinh thần, đặc biệt trên lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Do đó, cần phải có nhận thức đúng về bản chất của kinh tế

10


thị trường và bản chất của văn hóa. Thực tế đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế phải đi
đôi với phát triển văn hóa, nhằm thực hiện các mục tiêu văn hóa là con đường tất
yếu để đạt tới sự phát triển toàn diện về kinh tế xã hội của đất nước.
Công trình “Phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ tài
nguyên môi trường” đăng trên Tạp chí Tôn giáo, số 7 năm 2012 của tác giả Phùng
Hữu Phú đã khẳng định: (1) mối quan hệ cơ bản của phát triển bền vững đất nước là
phải gắn kết hài hòa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, thường xuyên chăm lo, bảo
vệ tài nguyên môi trường; (2) Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển tri thức, sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với văn hóa, văn hóa với kinh tế theo
phương châm: kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế trở thành nhu cầu, đòi
hỏi khách quan; (3) Phát triển kinh tế là cơ sở, là tiền đề vật chất để thực hiện chính
sách xã hội; mục đích phát triển kinh tế thống nhất với mục tiêu phát triển xã hội,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người, vì con người.
Công trình “Quan điểm nhất quán của Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật” trên Tạp chí Tuyên giáo
số 2 năm 2012, của tác giả Hà Đăng, đã khái quát nhận thức chung của Đảng về
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và văn học, nghệ thuật
là mối quan hệ mang tính bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Mối quan hệ

này cũng là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới của những chủ
trương, chính sách mà Đảng ta đã thực hiện nhằm thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Từ cơ sở lý luận đó, tác giả đề cập tới vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và văn học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới
của Đảng qua các văn kiện, nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến
nay, việc đưa các quan điểm của Đảng về mối quan này vào cuộc sống qua các lĩnh
vực cụ thể.
Công trình “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, văn
học, nghệ thuật trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2012), Hội đồng lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, gồm tập
hợp những bài tham luận của các tác giả nghiên cứu quan điểm của Đảng về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật, thực

11


trạng của mối quan hệ này và cụ thể ở một số tỉnh thành phố trong cả nước. Từ thực
trạng đó, các tham luận đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để thực hiện tốt hơn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật ở Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công trình “Một số luận điểm quan trọng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập” (2012), Đỗ Thị Minh Thúy (chủ biên), Nxb Văn hóa
Thông tin và Viện Văn hóa, đã nghiên cứu các quan điểm cơ bản về văn hóa của C.
Mác, Ph. Ăngghen, Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận động của văn hóa; các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí của văn hóa trong thời kỳ đổi
mới. Tác giả khái quát quan điểm về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập; xây dựng văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu
dài trong bối cảnh hội nhập. Tác giả làm rõ một số vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa trong bối cảnh hội nhập.
Công trình “Vấn đề phát triển văn hóa qua văn kiện Đại hội lần thứ XI của

Đảng” (2013), Đỗ Ngọc Anh, Đỗ Thị Minh Thúy đã làm rõ Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng, trên lĩnh vực nhận thức mới về văn hóa, định hướng phát triển các lĩnh
vực văn hóa. Công trình đề cập tới một số vấn đề lý luận về phát triển văn hóa như:
vấn đề xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hiện nay;
vấn đề phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh của phát
triển đất nước; vấn đề phát triển văn hóa toàn diện thống nhất trong đa dạng, quan
điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa.
Công trình “Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và chuyển đổi
phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc” (2013), Hội đồng lý luận Trung
ương, Nxb Chính trị Quốc gia là công trình tổng hợp những bài tham luận của các
nhà nghiên cứu lý luận, các chuyên gia về kinh tế của hai nước Việt Nam và Trung
Quốc tại Hội thảo lần thứ tám giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Nội dung của cuốn sách đề cập tới một số vấn đề lý luận về tăng
trưởng kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ sở lý luận của yêu cầu cơ cấu lại
nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi phương thức phát triển kinh
tế ở hai nước, những đặc điểm cơ bản của quá trình này, cũng như trao đổi kinh
nghiệm của mỗi nước trong quá trình phát triển.

12


Công trình “Một cách nhìn toàn cầu hóa cho sự phát triển văn hóa” trên Tạp
chí Triết học số 3 năm 2013, của Nguyễn Tài Đông, cho rằng việc phát triển văn
hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng cần có cách nhìn dân tộc và toàn cầu. Với
cách tiếp cận toàn cầu hóa, văn hóa dân tộc có khả năng bộc lộ rõ hơn đặc trưng văn
hóa của mình thông qua quá trình mở rộng, hội nhập. Đặc trưng của văn hóa được
thể hiện qua nhiều hình thức, trong đó có tính sáng tạo và tính nhân văn. Bước vào
hội nhập quốc tế, văn hóa Việt Nam khi đối thoại với các nền văn hóa khác cần phải
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc bên cạnh việc giao lưu và học hỏi nền văn hóa
các nước trên thế giới.

Công trình “30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam” (2016) của Đinh Thế
Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (đồng
chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia đã khái quái quát bối cảnh quốc tế, trong nước và
đường lối đổi mới của Đảng trong 30 năm (1986- 2016). Các tác giả phân tích và
đánh giá công cuộc đổi mới trên một số lĩnh vực chủ yếu trong đó có phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa và xây dựng con
người Việt Nam. Các vấn đề trên được các tác giả nghiên cứu riêng biệt kháo sát từ
lý luận đến thực tiễn và đưa ra thành tựu, hạn chế, nguyên nhân chủ quan và khách
quan của kết quả đạt được. Từ đó, công trình đưa ra phương hướng và giải pháp
thực hiện công cuộc đổi mới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh giải pháp về hoàn thiện
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các công trình trên
nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa và mối quan hệ giữa chúng từ
nhiều phương diện khác nhau. Có những công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế
hay văn hóa, hoặc triết học… Điều đó có thể khẳng định có nhiều cách tiếp cận
khác nhau trong việc nghiên cứu lý luận về vấn đề này. Có những tư tưởng chỉ đề
cao phương diện tăng trưởng kinh tế mà không coi trọng chỉ tiêu phát triển văn hóa;
cũng có những tư tưởng thiên về phát triển những giá trị của đời sống tinh thần của
con người không đề cập nhiều tới đời sống vất chất; đồng thời tồn tại cả những tư
tưởng nghiên cứu sự cân bằng, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của con người. Đặc biệt, trong những thập kỷ gần đây, khi nhân loại cùng hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững các quốc gia thì việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng

13


trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trở thành một hướng nghiên cứu thu hút được
nhiều sự quan tâm của các nhà tư tưởng, các nhà nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học. Trên thế giới vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
đã được đề cập từ khá sớm, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ thứ XX đến nay.

Còn ở Việt Nam, mối quan hệ này đặc biệt được chú trọng trong những thập niên
gần đây. Điều này ảnh hưởng từ quan niệm chung của cộng đồng thế giới, đặc biệt
là của tổ chức Ủy ban quốc gia về thế giới phát triển văn hóa về vị trí, vai trò của
văn hóa trong phát triển bền vững các quốc gia.
Về mặt lý luận, có thể khái quát lại, các công trình trên đã đưa ra cách hiểu về
tăng trưởng kinh tế, các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa
và nội dung của phát triển văn hóa. Đặc biệt trong khái niệm văn hóa và phát triển
văn hóa có nhiều cách tiếp cận khác nhau: có tác giả tiếp cận văn hóa truyền thống
(tức là văn hóa theo nghĩa gắn với xã hội tiền công nghiệp), cũng có cách hiểu văn
hóa hiện đại (văn hóa thời đại công nghiệp hóa có cả yếu tố văn hóa truyền thống và
văn minh). Do đó, phát triển văn hóa cũng được hiểu theo các cách khác nhau.
Trong luận án này, NCS lựa chọn khái niệm văn hóa theo cách hiểu truyền thống,
nghĩa là các giá trị tạo nên đời sống tinh thần của con người, bao gồm tư tưởng, đạo
đức, lối sống và giáo dục.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa chưa thấy có công
trình nào đề cập tới khái niệm mà chỉ khẳng định vai trò của tăng trưởng kinh tế tới
phát triển văn hóa, đồng thời chiều tác động ngược lại của phát triển văn hóa ảnh
hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Các công trình đều cho thấy đây là mối quan hệ biện
chứng, có sự tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Đã có
những cách nhìn mới khi đánh giá văn hóa trở thành nguồn lực trực tiếp của tăng
trưởng kinh tế thể hiện ở nguồn vốn con người, ở khoa học kỹ thuật… Tuy nhiên,
khi nghiên cứu vấn đề này tại Việt Nam, chưa có tác giả nào chỉ ra các nhân tố ảnh
hưởng tới việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa; cũng như chưa đề cập tới chủ thể của việc giải quyết mối quan hệ này.
Từ những nhận định trên đây, có thể thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa là một vấn đề phức tạp và có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Những công trình khoa học về vấn đề này là những cơ sở lý luận để NCS có thể kế
thừa và phát triển trong luận án ở những chương tiếp theo.
14



1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện mối quan hệ giữa
tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam
Công trình “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc” trên Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000, Đặng Hữu
Toàn; công trình “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với quá
trình thực hiện chiến lược phát triển con người, xây dựng và phát triển nguồn lực
con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trên Tạp chí Triết học, số 1 năm
2001, Đặng Hữu Toàn đều khẳng định xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc cần phải gắn với việc phát triển con người Việt Nam; các tiêu chí về
phát triển con người Việt Nam hiện đại, định hướng xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới.
Công trình “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” (2006),
Nguyễn Văn Nam (chủ biên), Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, đã hệ thống hóa
những vấn đề liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đánh
giá thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2005. Những thành
tựu nổi bật về tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam được phân tích từ tốc độ tăng
trưởng chung của nền kinh tế, nhìn chung nhịp độ tăng trưởng cao và khá ổn định;
tăng trưởng kinh tế được đánh giá từ các yếu tố đầu vào như: vốn đầu tư, yếu tố lao
động; từ các yếu tố đầu ra như tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời tác giả
chỉ ra những hạn chế của tăng trưởng kinh tế Việt Nam như quy mô kinh tế nhỏ bé, tốc
độ tăng trưởng chậm, tụt hậu so với thế giới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả
kinh tế chưa cao, sức cạnh tranh thấp, còn bất bình đẳng và ô nhiễm môi trường.
Công trình “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” (2006), Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia là bộ phận
quan trọng trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước cùng tên (Mã số ĐTĐL –
2003/18). Các tác giả trình bày khái quát thành tựu và hạn chế (cả về mặt lý luận và
thực tiễn) của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong 20 năm (1986 - 2006) trên các
lĩnh vực: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy dân chủ, củng cố khối đại

đoàn kết toàn dân, xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ đó, tác
giả làm sáng tỏ thêm những nhận thức về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
và những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta qua việc
tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới.
15


Công trình “Một số thách thức đặt ra trong quá trình tăng trưởng kinh tế vì
mục tiêu phát triển con người ở Việt Nam hiện nay” trên tạp chí Nghiên cứu Châu
Phi và Trung Đông số 12 tháng 12 năm 2008, của tác giả Trần Đức Hiệp đã khái
quát quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian từ năm 1998 đến năm
2007, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai
đoạn này, đánh giá thực trạng của tăng trưởng kinh tế, đưa ra nguyên nhân của
những thành tựu và hạn chế trên. Đồng thời, công trình đề cập tới thành tựu phát
triển con người dưới tác động của quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, nêu lên
một số thách thức trong quá trình tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu phát triển con
người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Công trình “Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm
đổi mới” (1986 - 2010)” (2010), Phạm Duy Đức (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc
gia, được biên soạn từ kết quả nghiên cứu của đề tài “Phát triển văn hóa Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020” thuộc chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà
nước, mã số KX04.13/06-10. Trong đó, các tác giả tập trung làm rõ: (1) bối cảnh
kinh tế - xã hội tác động đến quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam giai
đoạn 1986 – 2010; (2) thực trạng và bài học kinh nghiệm trong các lĩnh vực xây
dựng con người, phát triển văn hóa, xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống, phát triển
giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ, đời sống văn học, nghệ thuật,…; (3) bài
học và kinh nghiệm trong quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa thời kỳ đổi mới, việc
thực hiện các chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa.
Công trình “Nhận thức về vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam toàn diện, thống
nhất trong đa dạng trong thể chế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

trên Tạp chí Triết học, số 10 năm 2011 của Đỗ Huy, đã khái quát thực tiễn phát
triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới: nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng. Đó là nền văn hóa của cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Tác giả đưa ra một số thực trạng như:
(1) văn hóa Việt Nam chưa phát triển toàn diện, chưa gắn bó chặt chẽ với thể chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Các quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh hội nhập với thị trường tự do trên thế giới đang diễn ra tấp
nập, song cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay lại không đủ

16


mạnh để khắc phục những tiêu cực, những rủi ro, những khủng hoảng do cơ chế thị
trường đem lại.
Công trình “Truyền thống và hiện đại trong phát triển văn hóa và con người ở
nước ta hiện nay” trên Tạp chí Tuyên giáo số 6 năm 2011, của Trần Văn Bính, đã
cho rằng từ năm 1986 Việt Nam bước sang một thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn
với thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình đó,
Đảng khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội, phải đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội. Thực hiện điều đó, cần có sự gắn kết giữa kế thừa, phát huy các giá trị
truyền thống với tiếp thu, lĩnh hội các tinh hoa văn hóa của nhân loại, hình thành
nhân cách mới, diện mạo văn hóa mới của dân tộc trong quá trình đổi mới.
Công trình “Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
(2012) của Trần Thị Minh phân tích thực trạng của việc phát triển văn hóa với tư
cách nền tảng tinh thần của xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam: (1) xu hướng tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế và đánh
giá chưa đúng vai trò văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội; (2) Mâu

thuẫn giữa yêu cầu đầu tư tương xứng cho phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội - với hạn chế về điều kiện vật chất, kỹ thuật cho sự phát triển này; (3)
Mâu thuẫn giữa yêu cầu quản lý có hiệu quả, có văn hóa trong phát triển văn hóa
với hạn chế trong quản lý nhà nước về văn hóa; (4) Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát
triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần thống nhất của xã hội với sự đa dạng,
khác biệt về trình độ dân trí cũng như quan niệm về văn hóa trong nhân dân.
Công trình “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa: một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, trên tạp chí Tuyên giáo số 1 năm 2012, của Trần
Văn Bính, đã khái quát về mặt lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa. Thực trạng của mối quan hệ này được tác giả khảo sát trên
những thành tựu và hạn chế còn tồn tại của tăng trưởng kinh tế, của phát triển văn
hóa, so sánh, đối chiếu với một số chỉ tiêu phát triển của các nước trong khu vực và
trên thế giới để thấy được vị trí của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Công trình “Xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa” trên Tạp chí Tuyên giáo số 2 năm 2012, của Đào Duy Quát, đưa ra
17


nhận định, sau 25 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh sự tăng trưởng liên tục về kinh tế còn tồn tại một
sự yếu kém đáng lo ngại: năng suất lao động, chất lượng hiệu quả kinh tế, nguy cơ
tụt hậu so với khu vực và thế giới, văn hóa xã hội có nhiều mặt xuống cấp trong tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tình trạng tiêu cực, tội phạm xã hội gia tăng. Để đảm bảo
sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, Đảng ta đã đưa ra Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) chiến lược phát triển văn hóa song song với chiến lược phát
triển kinh tế.
Công trình “Tính dân tộc, hiện đại và nhân văn của quá trình xây dựng nền
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” trên Tạp chí Triết học, số
4 năm 2013, của Cao Thu Hằng, khẳng định trong thế giới hiện đại ngày nay, toàn
cầu hóa là một xu thế khách quan, làmnảy sinh nhiều vấn đề của tất cả các quốc gia,

dân tộc. Trong đó, về lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa phụ thuộc vào đặc
thù, định hướng phát triển của mỗi quốc gia. Quá trình xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn, giúp Việt Nam giữ gìn bản sắc
dân tộc, tạo động lực cho quá trình hiện đại hóa, phát triển con người Việt Nam toàn
diện, góp phần tạo ra sự đa dạng văn hóa, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với tự nhiên, đảm bảo sự phát triển bền vững của
đất nước.
Công trình “Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn
2011- 2020” (2013), Lê Quốc Lý (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, tập
trung nghiên cứu những vấn đề mô hình tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam dựa trên
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khảo sát và đánh giá kinh tế Việt Nam
sau hơn 26 năm đổi mới – hiện trạng và những vấn đề đặt ra dựa trên việc đánh giá
mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ 1991 – 2010, hiện thực các mô
hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, các nghịch lý trong mô
hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và một số kỳ vọng tăng trưởng kinh tế trong
giai đoạn 2011 – 2015. Đặc biệt công trình đề cập tới vấn đề nhận diện lạm phát
ở Việt Nam hiện nay, giải quyết an sinh xã hội trong bối cảnh lạm phát cao,
những nghịch lý trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam: tăng trưởng theo
chiều rộng, hiệu quả chưa cao, tăng trưởng đi kèm bất bình đẳng xã hội, tăng
trưởng kém bền vững…

18


Công trình “Những đặc điểm và con đường tăng trưởng kinh tế và phát triển
bền vững ở Việt Nam” (2013), Tạp chí Khoa học và Tổ quốc tháng 1+2 năm 2013,
Trần Ngọc Hiên, đã khái quát những đặc điểm quan trọng của tăng trưởng kinh tế
Việt nam trong công cuộc đổi mới. Tác giả đề cập tới tính tất yếu phải thay đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, chuyển từ mô hình công nghiệp chủ yếu dựa
vào khai thác tài nguyên và lao động xã hội với những hậu quả xấu về môi trường

và an sinh xã hội, hướng tới xây dựng mô hình tăng trưởng phát triển bền vững với
các mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Tăng
trưởng kinh tế cả về quy mô và chất lượng, đảm bảo cho sự phát triển một nền văn
hóa mới mang tính chất nhân văn, làm cho con người lao động trở thành con người
văn hóa.
Công trình “Tổng kết lý luận và thực tiễn về Phát triển văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam qua 30 năm đổi mới” (2014), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam (Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới) đã trình bày những vấn đề tiến bộ trong
nhận thức về phát triển văn hóa, xây dựng con người; đánh giá về thực tiễn triển
khai đường lối, chủ trương và chính sách về phát triển văn hóa, xây dựng con người
trong 30 năm đổi mới, đặc biệt là trong 10 năm gần đây, đánh giá những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của thực trạng trên. Trên cơ sở đó, báo cáo đề cập chín vấn
đề đặt ra đối với việc phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Trong đó,
nhấn mạnh hiện tượng lệch lạc về giá trị; hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa
con người; giáo dục và đào tạo xuống cấp và chưa có dấu hiệu thoát ra khỏi khủng
hoảng; thiếu quan hệ gắn kết giữa phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội; … Báo cáo khẳng định xây dựng văn hóa và phát
triển toàn diện con người Việt Nam là nhiệm vụ vô cùng quan trọng quyết định sự
phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về thực trạng việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, có thể nhận thấy đây là một vấn đề khá rộng và có nhiều quan điểm khác nhau.
Có các công trình nghiên cứu về thực trạng tăng trưởng kinh tế, có công trình
nghiên cứu về thực trạng phát triển văn hóa. Đề cập trực tiếp tới thực trạng mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam chưa có nhiều
công trình. Có những công trình nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với một lĩnh vực thuộc văn hóa như: đạo đức, lối sống, giáo dục, văn
19



học, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa… Và các công trình này
chủ yếu là các bài báo nghiên cứu, do đó chưa thể hiện được đầy đủ thực trạng của
vấn đề này.
Hướng nghiên cứu về thực trạng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, tất cả các công trình đều đưa ra mặt thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân của thực trạng đó. Do cách tiếp cận khác nhau, quy mô các công trình không
giống nhau nên mối quan hệ này được đề cập ở nhiều mức khái quát hoặc chi tiết,
hoặc sâu sắc khác nhau. Qua các công trình trên, có thể nhận thấy thực trạng của
việc thực hiện vấn đề này ở Việt Nam về mặt thành tựu được ghi nhận là tăng
trưởng kinh tế đã tạo tiền đề, cơ sở vật chất cho phát triển văn hóa, phát triển văn
hóa trở thành nền tảng tinh thần của tăng trưởng kinh tế. Về mặt hạn chế được thể
hiện là tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là chủ yếu, năng suất không cao, hiệu
quả thấp; tăng trưởng kém bền vững, không chú ý đến vấn đề môi trường, an sinh
xã hội; cơ cấu kinh tế lạc hậu, chậm đổi mới do đó chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển văn hóa. Kinh tế thị trường phát triển chưa hoàn thiện đã ảnh hưởng không
nhỏ tới đời sống tinh thần của nhân dân, xuất hiện nhiều hiện tượng phản văn hóa.
Nghịch lý tăng trưởng kinh tế nhưng lại bị suy thoái, xói mòn các giá trị văn hóa
truyền thống ngày càng gia tăng. Thực trạng này ở nước ta là một hiện tượng đáng
báo động trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cách tiếp cận trên là một
trong những cơ sở để NCS phân tích thực trạng của mối quan hệ này ở nước ta
trong luận án.
1.3. Các công trình nghiên cứu về phƣơng hƣớngvà giải pháp thực hiện
mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hóa
Công trình “Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” (1998),
Vũ Đình Bách (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, tác giả nêu lên kinh nghiệm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trong chiến lược tăng trưởng của một số nước châu Á như
Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Malaixia,... Tác
giả nghiên cứu tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua ba giai đoạn (19791985; 1988- 1990; 1991 đến 1998),những cơ hội thuận lợi và thách thức với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Tác giả đưa ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, môi trường,

đảm bảo sự phát triển bền vững. Từ mục tiêu được xác định, tác giả đưa ra ba nhóm
giải pháp: (1) giải pháp về lao động; (2) giải pháp về vốn; (3) Giải pháp về công
20


nghệ. Trong đó, tác giả khẳng định, giải pháp về lao động là quan trọng và quyết
định nhất. Giải pháp này liên quan tới các chính sách và thực hiện hệ thống giáo dục
quốc gia, các vấn đề giải quyết thất nghiệp, thiếu việc làm, về chính sách đối với
người lao động…
Công trình “Xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong hai
mươi năm đổi mới và hội nhập quốc tế - Quan điểm và giải pháp đến 2020” (2010)
(Đề tài KX 03.08/06-10 do Phan Trọng Thưởng làm chủ nhiệm) đã làm rõ các yếu
tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát triển con người, văn hóa Việt Nam trong
hơn 20 năm thực hiện đổi mới. Công trình đưa ra quan điểm chỉ đạo và hệ thống
giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy xây dựng con người và phát triển văn hóa ở Việt
Nam: Quan điểm chỉ đạo là lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động, xác định kiên trì các mục tiêu xây dựng
phát triển kinh tế xã hội vì con người, chú trọng công tác giáo dục, đào tạo đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững. Các giải pháp: (1) Hoàn thiện hệ thống tri thức về văn
hóa và con người. (2) Cần dựa vào kết quả nghiên cứu của khoa học liên ngành để
nhận thức đảm bảo tính khách quan, đúng đắn, (3) Gắn phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa vì mục tiêu chung là phát triển con người, con người được xem là
trung tâm của sự phát triển. (4) Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển văn hóa,
phát triển con người.
Công trình “Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011- 2020. Xu hướng và
giải pháp” (Phạm Duy Đức chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010) đã
khái quát quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam sau 25 năm đổi mới
thể hiện ở các lĩnh vực cơ bản. Từ đó, tác giả nêu lên phương hướng phát triển văn
hóa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 là phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
đại đoàn kết dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, tự cường trong xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với đặc trưng là dân tộc, khoa học, hiện
đại, dân chủ và nhân văn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; thực hiện phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và nâng cao đời sống văn hóa, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả cũng đề cập 5 giải
pháp: (1) nâng cao chất lượng các phong trào văn hóa- xã hội - tư tưởng - giáo dục.
(2) Tiếp tục xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về
văn hóa. (3) Tăng cường nguồn lực cho hoạt động văn hóa. (4) Đẩy mạnh xã hội

21


hóa hoạt động văn hóa. (5) Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước về văn hóa.
Công trình “Phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới” (2011), Đinh Xuân
Dũng, Nxb Thời đại, tập hợp, chọn lọc một số bài viết của các tác giả từ năm 2005
đến năm 2011, đề cập đến các nội dung khá phong phú về phát triển văn hóa trong
thời kỳ đổi mới. Các tác giả đưa ra một số giải pháp để phát triển văn hóa như thể
chế hóa, xây dựng môi trường chính trị, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, xây
dựng lối sống, đạo đức, xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ
và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tuyên giáo trong giai đoạn
hiện nay, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đáp ứng nhu cầu thông tin và định
hướng tư tưởng trong hoạt động báo chí, và trong từng lĩnh vực cụ thể như sự
nghiệp xuất bản, phát hành sách…
Công trình “Đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế” (2012), Vũ
Văn Phúc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia. Cuốn sách là tổng hợp các báo cáo
tham luận tại Hội thảo ngày 19-12-2011 do Tạp chí Cộng sản phối hợp với Viện
Chiến lược và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức. Công trình đưa ra các giải
pháp nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế: (1) Cơ cấu lại chi tiêu công ở Việt
Nam; (2) Nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam; (3) Tái cơ cấu nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước; (4) Tái cơ cấu các ngân hàng thương

mại Việt Nam; (5) Cơ cấu lại nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều
sâu; (6) Tái cơ cấu kinh tế cần tập trung cho một số ngành có thế mạnh; (7) Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay; (8)
Chính sách tài khóa và quá trình tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Những giải pháp
này chủ yếu nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam chuyển từ mô hình
tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng kết hợp hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu, tận dụng mọi nguồn lực hiện có của đất nước.
Công trình “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa và văn học nghệ thuật trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” trên Tạp chí Cộng sản tháng số 1 năm 2012 của tác giả Nguyễn Hồng Vinh
đã phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
được thể hiện ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tác giả xác định bảy
giải pháp để giải quyết tốt hơn mối quan hệ này: (1) Tiếp tục giáo dục, nâng cao
nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa; (2) Rà soát chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch
22


×