Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.87 KB, 14 trang )

A) MỞ ĐẦU
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra rất phổ biến trong đời
sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm nhưngvi phạm
hành chính đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể cũng như cá
nhân và toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn kịp thời. Trong thời
gian hiện nay, khi những vi phạm hành chính đang có chiều hướng gia tăng về số
lượng với tính chất càng ngày càng phức tạp, thì yêu cầu cấp thiết là phải quy
định một hệ thống hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả để áp dụng
cho cá nhân hay tổ chức vi phạm sao cho phù hợp, hiệu quả, phát huy được tính
răn đe, giáo dục, ngăn chặn đẩy lùi và phòng chống hiệu quả nhất. Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm 2008) đã
quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc
phục hậu quả. Việc “đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt
vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả” cho chúng ta một cách
nhìn toàn diện hơn về phương diện lý luận cũng như thực tiễn xử phạt vi phạm
hành chính ở nước ta hiện nay, nhất là trong lúc Quốc hội đang tiến hành thông
qua Luật Xử phạt vi phạm hành chính.
B) NỘI DUNG
I)

Cơ sở lý luận:

1) Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính:
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn
cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp
xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường
hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhânvi phạm
hành chính.
Theo khoản 2, Điều 1 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi
bổ sung năm 2007 và năm 2008): “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối


với cá nhân, cơ quan tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính”.

1


2) Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
khắc phục hậu quả:
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính thể hiện sự răn đe, trừng phạt của
pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý
nhà nước thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi về vật chất hoặc tinh thần, mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử
phạt, góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và
các quy tắc quản lý nhà nước.
Trong nhiều trường hợp ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành
chính như đã nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Về mặt bản chất,
biện pháp cưỡng chế hành chính này không có tính trừng phạt người vi phạm
hành chính mà chỉ nhằm mục đích khắc phục những hậu quả do vi phạm hành
chính đã để lại trên thực tế.
Theo Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung
năm 2007 và năm 2008) quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
và các biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
“ Điều 12. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc
phục hậu quả
1. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một
trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;

b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
3. Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này,
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện
pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây
lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện;
2


d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại;
đ) Biện pháp khắc phục hậu quả khác do người có thẩm quyền quyết định áp
dụng theo quy định của Chính phủ.
4. Người nước ngoài vi phạm hành chính còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục
xuất được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng
trường hợp cụ thể”.
II)

Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả:
1) Đánh giá tính hợp lý của các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính:


1.1) Các hình thức xử phạt chính:
a) Cảnh cáo:
Điều 13, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “Cảnh cáo được áp dụng đối với
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối
với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.
Như vậy, người chưa đủ 16 tuổi thực hiện vi phạm hành chính này có thể bị xử
phạt cảnh cáo với điều kiện: họ thực hiện vi phạm đó lần đầu và có tình tiết giảm
nhẹ. Điều này phù hợp với ý nghĩa của quy định là giáo dục nhiều hơn trừng phạt.
Tuy nhiên, cảnh cáo thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của nhà nước đối với cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình
thức xử phạt mang tính giáo dục đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối
tượng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không được coi là có án tích và
không bị ghi vào lí lịch tư pháp. Do nó vẫn mang tính cưỡng chế nhà nước nên nó
gây cho người bị xử phạt những tổn hại nhất định về mặt tinh thần. Thực tế, hình
phạt cảnh cáo có tác dụng khác biệt đối với từng cá nhân vi phạm cho nên hình
phạt cảnh cáo có thực hiện được mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật hay
không, vẫn là điều cần xem xét.
Hình thức cảnh cáo ít được áp dụng trong thực tiễn xử phạt có nhiều lý do. Chủ
yếu là ý thức pháp luật của mọi người chưa cao và tình trạng tiêu cực trong đội
ngũ cán bộ áp dụng chế tài nên dẫn đến tình trạng cảnh cáo ít được áp dụng và áp
dụng không đúng. Một số người có thẩm quyền phạt nặng người vi phạm hành
chính ngay cả khi chỉ đáng phạt cảnh cáo.

3


Nếu đối tượng áp dụng là tổ chức: người đại diện khi thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của tổ chức thường có nhận thức tốt, thậm chí rất am hiểu về pháp luật

trong hoạt động của mình, nên áp dụng hình thức cảnh cáo có mức độ tác động
thấp đối với tổ chức là không tương xứng.
b) Phạt tiền:
Phạt tiền là hình thức xử phạt hành chính được quy định tại Điều 14 Pháp lệnh
xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm 2008) .
Theo khoản 1, Điều 14, Pháp lệnh xử phạt xử phạt vi phạm hành chính: “Mức
phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000
đồng”.
Hình thức phạt tiền là biện pháp cưỡng chế hành chính được quy định sớm nhất
trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở nước ta, được áp dụng đối với
hầu hết các loại vi phạm hành chính. Hình thức này đóng vai trò chủ yếu trong
trong hệ thống các hình thức xử phạt hành chính.
Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người vi phạm phải trong khung
phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đã thực hiện theo
cách: Khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối một hành vi vi phạm hành chính là
mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó, nếu có tình
tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức
tối thiểu của khung tiền phạt, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể
tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Điều này là
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đảm bảo mức phạt không quá cao, cũng
không quá thấp để mọi người không tuân thủ theo pháp luật. Mức phạt này cũng
được điều chỉnh liên tục kể từ năm 1989 cho đến nay để phù hợp với tình hình đất
nước. Khoảng cách quá lớn giữa mức phạt tối đa và tối thiểu làm ta tưởng nhầm
đó là điều vô lý, nhưng thực tế vi phạm hành chính rất đa dạng diễn ra trên mọi
lĩnh vực với tính chất, mức độ khác nhau nên quy định như vậy là hợp lý. Phạt
tiền là biện pháp tác động có mức độ nghiêm khắc cao hơn so với cảnh cáo.
1.2) Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề:
Hình thức xử phạt được áp dụng khi có đủ hai điều kiện sau:
- Văn bản pháp luật về xử phạt hành chính quy định có thể áp dụng biện

pháp xử phạt này đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó;

4


- Cá nhân, tổ chức đã có hành vi trực tiếp vi phạm quy tắc sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề;
Pháp luật quy định rõ ai có thẩm quyền được tước quyền sử dụng những loại
giấy phép, chứng chỉ hành nghề nào. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề, tổ chức, cá nhân vi phạm không được tiến hành các
hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Đây là hình thức xử phạt bổ
sung nhưng hình thức xử phạt này rất nghiêm khắc. Do ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích vật chất, uy tín của người vi phạm hành chính. Do đó, hình thức xử phạt
này mang lại hiệu quả lớn và ngăn ngừa vi phạm hành chính.
Mặc dù là hình thức xử phạt bổ sung nhưng hình thức phạt bổ sung trên rất
nghiêm khắc, trong trường hợp phạt cảnh cáo (chỉ áp dụng với các vi phạm nhỏ,
lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ) nếu áp dụng kèm theo hình phạt bổ sung trên sẽ
không hợp lý. Như vậy, ta thấy chưa hợp lý, cần có sự điều chỉnh.
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính:
Theo Điều 17, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính:
“1. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc
sung vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến
vi phạm hành chính.
2. Không tịch thu tang vật, phương tiện bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
chiếm đoạt, sử dụng trái phép mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, người
sử dụng hợp pháp”.
Đây là việc người có thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịch
thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa tiền bạc…
dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc do vi phạm hành chính mà
có. Thẩm quyền, thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được

pháp luật quy định cụ thể. Hình thức xử phạt này đã tước bỏ quyền sở hữu đối với
tài sản của người vi phạm và chuyển sang sở hữu nhà nước. Điều này đã hạn chế
khả năng tiếp tục vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân. Vì đã làm ảnh hưởng
đến lợi ích vật chất của người vi phạm hành chính. Quy định của pháp luật còn
chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp về tài sản cho người chủ sở hữu, người
quản lý, sử dụng hợp pháp khi họ không có lỗi.
Trong thực tế, ta thấy hình thức tịch thu đang bị vận dụng tùy tiện, còn nhiều
vướng mắc trong thực tế.
Ví dụ: việc đua xe trái phép của một số thanh thiếu niên trong thời gian gần
đây,sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người đua xe
5


mô tô, xe gắn máy, xe máy điện trái phép và tịch thu phương tiện (theo khoản 3,
khoản 6, Điều 37, Xử phạt người đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép, Nghị
định quy định xử phạt trong lĩnh vực giao thông đường bộ Số: 34/2010/NĐ-CP).
Nhưng nếu phương tiện không thuộc sở hữu của người vi phạm mà bị chiếm
dụng, sử dụng trái phép thì sẽ không bị tịch thu vì vậy làm giảm tính răn đe đối
với đối tượng vi phạm. Điều này làm nảy sinh mâu thuẫn về việc có nên cho phép
tịch thu phương tiện đua xe hay không.

1.3) Trục xuất:
Theo Điều 15, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính:
“Trục xuất là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam
phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ quy định thủ tục trục xuất”.
Trục xuất vừa là hình thức phạt chính vừa là hình thức phạt bổ sung. Trục xuất
là hình thức phạt độc lập hoặc áp dụng cùng với hình thức phạt bổ sung tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để vi phạm hành chính.

Ngoài mục đích trừng phạt, răn đe người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt
Nam, quy định này còn ngăn ngừa khả năng tiếp tục vi phạm pháp luật của người
nước ngoài đó trên lãnh thổ Việt Nam.
Tuy vậy, trục xuất là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có thể làm ảnh hưởng đến
quan hệ quốc tế và giữa các quốc gia, nên pháp luật quy định thẩm quyền quy
định thủ tục trục xuất thuộc về Chính phủ và thẩm quyền quyết định áp dụng hình
thức xử phạt trục xuất thuộc về Bộ trưởng bộ công an là hợp lý, phù hợp với tính
chất quan trọng của vấn đề.
2) Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả:
Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm 2008) .
Các biện pháp khắc phục được quy định cụ thể từ Điều 18 đến Điều 21 của Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm
2008).

6


2.1) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo đỡ công trình xây
dựng trái phép:
Quy định này buộc cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính
dẫn đến những thay đổi so với tình trạng ban đầu của sự vật thì phải tự mình bằng
mọi cách đưa sự vật trở lại trạng thái ban đầu. Việc tháo dỡ các công trình xây
dựng trái phép chủ yếu để khắc phục hậu quả những vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng.
Trong thực tế, việc áp dụng quy định trên hoàn toàn cần thiết nhằm đảm bảo
giữ gìn cơ sở vật chất quốc gia, trật tự quản lý nhà nước, để đảm bảo khi vi phạm
xảy ra không những phải có biện pháp xử phạt răn đe. Đồng thời, phải khắc phục
hậu quả đã xảy ra, khôi phục tình trạng ban đầu.

2.2) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra:
Xã hội ngày càng phát triển, nhưng ý thức của người dân cũng như các tổ chức
lại không hề cao trong vấn đề giữ gìn bảo vệ môi trường mình đang sống và làm
việc.
Việc pháp luật quy định các biện pháp khắc phục khi làm ô nhiễm môi trường
hay lây lan dịch bệnh là hoàn toàn cần thiết, nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe lợi
ích cộng đồng, bảo vệ môi trường sinh thái chung. Tùy trường hợp cụ thể, người
có thẩm quyền sẽ quyết định biện pháp thích hợp và có hiệu quả nhất.
2.3) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa,
vật phẩm, phương tiện:
Biện pháp này được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử lý các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan hoặc lĩnh vực có liên quan đến xuất nhập khẩu. Khi
có sự vi phạm, công việc này là cần thiết: nhập khẩu trái phép thì bị đưa ra khỏi
lãnh thổ, nếu hàng tạm nhập tái xuất mà không tái xuất thì bị buộc tái xuất.
Biện pháp này đảm bảo cho sự ổn định của thị trường, không gây hoang mang
lo lắng cho người dân và giữ vững sự quản lý của nhà nước trong mọi lĩnh vực.
Chỉ bằng cách đưa ra khỏi lãnh thổ hay tái xuất những hàng hóa, vật phẩm,
phương tiện này thì mới bảo đảm những điều nêu trên.
2.4) Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi,
cây trồng và văn hóa phẩm độc hại:
Biện pháp này chủ yếu được áp dụng để khắc phục những hậu quả do vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến việc kinh doanh những sản phẩm liên
7


quan đến con người như thuốc chữa bệnh, bảo vệ những giá trị về sức khỏe, giá
trị về cuộc sống vật thực phẩm, văn hóa…
Biện pháp này trên thực tế đã được chứng minh là cần thiết để bảo chất và
những mặt tinh thần chung của cộng đồng. Để bảo vệ con người, vật nuôi, cây

trồng khỏi những tác động nguy hại của những vật, sản phẩm là tang vật của vi
phạm hành chính, pháp luật quy định tang vật này phải được tiêu hủy là hoàn toàn
cần thiết. Cũng như vậy, văn hóa phẩm độc hại cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống tinh thần của nhân dân, truyền thống văn hóa dân tộc, nên phải bị tiêu
hủy. Tiêu hủy nhằm mục đích ngăn chặn sự phát tán ra cộng đồng những sản
phẩm này một lần nữa.
2.5) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định:
Do pháp luật không thể dự liệu hết và đặt ra toàn bộ những biện pháp khắc
phục hậu quả của mọi vi phạm hành chính nên nhằm khắc phục những lỗ hổng
của pháp luật đó, Pháp lệnh đã đặt ra quy định về vấn đề này để tránh tạo ra kẽ
hở.
3) Thực trạng của các hình thức xử phạt trong việc áp dụng các
hình thức xử phạt vi phạm hành chính:
Hiện nay vẫn còn tồn tại xu hướng muốn phạt nặng người vi phạm, ngay cả khi
vi phạm chỉ đáng phạt cảnh cáo. Hình thức phạt cảnh cáo vẫn được áp dụng khá
phổ biến đối với các vi phạm trong lĩnh vực trật tự công cộng, trật tự an toàn giao
thông. Ngày nay, ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, vai trò của hình
thức xử phạt cảnh cáo càng lớn và mang tính phổ biến và đạt được mục đích áp
dụng của hình thức xử phạt chính là mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Pháp luật hiện hành quy định việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối
với người từ đủ 14 tuổi trở lên. Trên thực tế, số lượng vi phạm hành chính do
người chưa thành niên thực hiện rất phổ biến là ở độ tuổi từ 11 tuổi đến 12 tuổi
trở lên.
Hiện nay, Pháp lệnh hiện hành của ta chỉ quy định ba hình thức xử phạt chính
là: cảnh cáo, phạt tiền và trục xuất như vậy là quá ít, chúng ta có thể so sánhh với
các nước trên thế giới như Nga hoặc Trung Quốc. Ví dụ: “Chương 3 Bộ luật về vi
phạm hành chính của Nga Quy định về các hình thức xử phạt hành chính. Cụ thể,
có chín hình thức (biện pháp ) xử phạt: 1) Cảnh cáo; 2) Phạt tiền; 3) Thu giữ công
cụ, phương tiện vi phạm; 4) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; 5) Tước các
loại giấy phép (Quyền) đối với cá nhân; 6) Giam hành chính; 7) Trục xuất người

nước ngoài hoặc người không quốc tịch; 8) Cấm giữ chức vụ (trong cơ quan nhà
nước và trong cơ quan lãnh đạo của pháp nhân); 9) Tạm ngưng hoạt động...”
8


Trong khi hình thức phạt tiền chỉ có tính răn đe với “người nghèo” còn “người
giàu” thì tình nguyện chịu nộp phạt để tiếp tục vi phạm. Ngoài ra, hình thức xử
phạt trục xuất cũng có điều cần bàn. Theo Điều 15 PLXLVPHC năm 2002 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2008) quy định về hình thức xử phạt trục xuất thì “Trục
xuất là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam phải rời
khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhưng sống trên lãnh
thổ một quốc gia không chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có người nước
ngoài và người không quốc tịch. Quy định này đã bỏ sót đối tượng là “người
không quốc tịch”. 1
Những hạn chế trên do những nguyên nhân khác nhau như do: khiếm khuyết
trong quá trình soạn thảo văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính; điều
kiện kinh tế xã hội thay đổi; sự phát triển của xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mà
pháp luật chưa kịp điều chỉnh,...
4) Một số giải pháp:
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính cần xuất phạt từ thực tế xã hội. Khi
xây dựng cần đặt ra mục đích là giáo dục, phòng ngừa, răn đe, phải nghiêm khắc
để người vi phạm không tái phạm lần nữa. Không nên áp đặt ý chí chủ quan của
nhà làm luật mà nên xem xét liệu có phù hợp với đời sống xã hội.
Các hình phạt cũng không quá nặng hay quá nhẹ. Quá nặng sẽ mang tính hà
khắc, trừng phạt hơn là giáo dục. Nếu quá nghiêm khắc thì sẽ gây ra sự phản ứng
mạnh mẽ của người dân. Tuy nhiên, nếu quá nhẹ thì dẫn đến tình trạng không
tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật nên ngày càng nhiều vi phạm nghiêm
trọng hơn. Phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, giáo dục đi đôi với tính răn đe,
kết hợp thuyết phục và cưỡng chế. Các quy định của pháp luật không được mâu
thuẫn nhau, tránh sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật với nhau.

Những quy định về các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả
phải có khả năng áp dụng, xử lý linh hoạt đối với các vi phạm hành chính đa dạng
xảy ra trong đời sống xã hội. Nhưng phải tránh áp dụng tùy tiện gây khó khăn cho
nhân dân. Cần phân rõ thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt.

Hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính từ kinh nghiệm của Liên bang Nga, Tác giả: TS.
Luật học.Nguyễn Cảnh Hợp - Trưởng khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh; ThS. Luật học.Cao Vũ Minh - Giảng viên khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh.
1

9


Giữa chế tài hành chính và chế tài hình sự phải xác định rõ ràng, tránh sự nhầm
lẫn, đảm bảo mục đích của từng loại chế tài tương ứng với tính chất mức độ của
các loại vi phạm.
Cần phải bổ sung các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong từng loại lĩnh
vực. Do mỗi lĩnh vực khác nhau thì việc xử phạt cũng phải khác nhau. Quy định
chặt chẽ về thẩm quyền áp dụng để tránh tình trạng lạm dụng quyền hạn để xử
phạt sai thẩm quyền của mình.
Học tập các kinh nghiệm xây dựng pháp luật của nước ngoài và áp dụng một
cách phù hợp với điều kiện Việt Nam.
C) KẾT LUẬN
Xử phạt vi phạm hành chính được coi là biện pháp có hiệu quả trong việc đấu
tranh phòng chống vi phạm chính, bảo vệ trật tự pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể nói xử phạt vi phạm hành chính là nội
dung rất quan trọng của hoạt động quản lí nhà nước. Một trong những điều kiện
đảm bảo thực hiện có động xử phạt vi phạm hành chính là hoàn thiện hệ thống
pháp luật về xử phạt hành chính. Một trong những điều quan trọng đó là không

ngừng hoàn thiện hệ thống hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp khắc phục hậu quả. Sắp tới khi Luật xử lývi phạm hành chính ra đời hy
vọng các hình thức xử phạt vi phạm hànhh chính và các biện pháp khắc phục hậu
quả sẽ được hoàn thiện hơn nữa đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước.

10


MÔ HÌNH HÓA CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ CÁC BIỆN
PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
CHƯƠNG III

Các hình thức xử phạt vi phạm hành
chínhvà các biện pháp khắc phục hậu
quả ( Điều 12)

Tịch thu tang vật, phương tiện có được
để vi phạm hành chính (Điều 17)

Cảnh cáo ( Điều 13)

Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
do vi phạm hành chính ( Điều 18)

Phạt tiền ( Điều 14)

Buộc khắc phục tình trạng ô nhiêmx

môi trường..( Điều 19)

Trục xuất ( Điều 15)

Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam ,
buộc tái xuất hàng hóa ( Điều 20)

Tước quyền sử dụng giấy phép , chứng
chỉ hành nghề (Điều 16)

Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại sức
khỏe,...( Điều 21)

11


CÁC HÌNH THỨC
XỬgiấy
PHẠT VI PHẠM
ử dụng
HÀNH CHÍNH

CÁC HÌNH THỨC PHẠT
CHÍNH

CÁC HÌNH THỨC PHẠT
BỔ SUNG

Cảnh cáo( Điều 13)


Tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề (
Điều 16)

Phạt tiền ( Điều 14)

Tịch thu tang vật,, phương
tiện vi phạm ( Điều 17)

Trục xuất ( Điều 15): có thể
là hình thức phạt chính có
thể là hình thức phạt bổ
sung
CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ

Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo đỡ công trình xây dựng trái phép ( Điều 18).
Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh do vi phạm hành chính gây ra ( Điều 19).
Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương
tiện ( Điều 20).
Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và văn
hóa phẩm độc hại (Điều 21).
Các biện pháp khác do Chính phủ quy định

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)

2)
3)
4)
5)

6)
7)
8)

9)

GIÁO TRÌNH LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM ( đại học Luật Hà Nội)
thongtinphapluatdansu.wordpress.com
duthaoonline.quochoi.vn
giaothongvantai.com.vn
Hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính từ kinh nghiệm của Liên bang Nga;
Tác giả: TS. Luật học.Nguyễn Cảnh Hợp - Trưởng khoa Hành chính – Nhà nước,
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; ThS. Luật học.Cao Vũ Minh - Giảng viên khoa
Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chínhh mô hình hóa ( Luật sư Nguyễn Phúc Thành;
Nhà xuất bản Lao động- xã hội)
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ( sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm
2008).
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả
trong dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính (Ths. Đào Thị Thu An, Vụ Pháp luật
Hình sự-Hành chính, Bộ Tư pháp).
Bàn về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong dự thảo Luật Xử lý vi phạm
hành chính ( ThS. Nguyễn Mạnh Hùng; Giảng viên Khoa Hành chính - Nhà nước,
Trường Đại học Luật Hà Nội).


MỤC LỤC

13


14



×