VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________
VŨ HỒNG NAM
HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HOÁ
THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: TS. HỒ NGỌC HIỂN
Phản biện 1: TS. NGUYỄN AM HIỂU
Phản biện 2: PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội 8 giờ 45 ngày 07 tháng 10 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thương mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của các
hoạt động trung gian thương mại càng được coi trọng, vì tính ưu việt là
nhanh chóng, ít rủi ro, chi phí thấp và dễ dàng gia nhập hoặc từ bỏ thị
trường nên chúng hỗ trợ đắc lực cho thương nhân. Là một loại hình
trung gian thương mại, ĐLTM nói chung, đại lý mua bán hàng hóa ở
VN nói riêng, tuy mới hiện diện trên thị trường và mới được ghi nhận
trong pháp luật thương mại, nhưng ngày càng được các thương nhân ưu
tiên chọn lựa.
Trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện các
quy định pháp luật thương mại mà cụ thể là thực trạng pháp luật điều
chỉnh hoạt động đại lý mua bán hàng hóa ở VN, em lựa chọn đề tài:
“Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá theo pháp luật thương mại VN”
cho luận văn Thạc sỹ với mong muốn nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực HĐ này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề pháp lí về hoạt động ĐLTM nói chung, HĐ đại lý
mua bán hàng hóa nói riêng đã được đề cập đến trong một số sách
nghiên cứu về các chế định trung gian thương mại như Giáo trình Luật
thương mại của một số cơ sở đào tạo ( Trường đại học Luật Hà Nội,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội v. v…); PGS.TS Nguyễn Như
Phát và TS. Phan Thảo Nguyên Pháp luật thương mại dịch vụ VN và
Hội nhập kinh tế quốc tế; PGS.TS Phạm Duy Nghĩa Chuyên khảo
Luật kinh tế; …
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp lý về HĐ đại
lý mua bán hàng hóa, luận văn đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam
về HĐ đại lý mua bán hàng hóa, từ đó đề xuất các phương hướng và
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh HĐ
đại lý mua bán hàng hóa ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ bản chất pháp lý của HĐ đại lý
mua bán hàng hóa và pháp luật điều chỉnh loại HĐ này.
- Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐ
đại lý mua bán hàng hóa, từ đó nếu được những bất cập, hạn chế trong
quy định của pháp luật.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật điều chỉnh HĐ đại lý mua bán hàng hóa, đưa ra một số đề
xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh HĐ đại lý mua bán hàng
hóa ở VN
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: các quan điểm pháp
lý và pháp luật thương mại VN điều chỉnh về HĐ đại lý mua bán hàng
hóa, pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về HĐ đại lý mua bán
hàng hóa, thực tiễn xây dựng và áp dụng quy định của pháp luật về HĐ
đại lý mua bán hàng hóa ở VN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của HĐ
đại lý mua bán hàng hóa trên cơ sở lý luận cũng như các quy định liên
quan đến HĐ đại lý mua bán hàng hóa trong BLDS 2015, LTM 2005 và
một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
2
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật về
HĐ đại lý mua bán hàng hóa theo pháp luật VN để từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm vận dụng vào điều kiện thực tế ở VN. Đồng thời luận văn
cũng dựa trên cơ sở các quan điểm đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của Đảng Cộng sản VN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cứu cụ thể. Bao gồm: phương pháp biện chứng khoa
học; phân tích, đánh giá; tổng hợp, so sánh, đối chiếu; khảo sát thực
tiễn; thống kê; hệ thống và một số phương pháp bổ trợ khác… Đồng
thời thực hiện việc kết hợp giữa các nhóm phương pháp để nghiên cứu,
giải quyết những yêu cầu mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt
động đại lý và HĐ đại lý mua bán hàng hóa, theo đó phân tích kỹ về
khái niệm, đặc điểm pháp lý, luận giải một cách có hệ thống và chiều
sâu bản chất pháp lý của HĐ đại lý mua bán hàng hóa, cho phép phân
biệt với một số hoạt động thương mại cận kề khác như: mua bán hàng
hoá, uỷ thác mua bán hàng hóa, nhượng quyền thương mại…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế điều chỉnh pháp
luật đối với quan hệ HĐ đại lý mua bán hàng hóa, làm rõ nguyên nhân,
từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật để nâng cao
hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với HĐ đại lý mua bán hàng hóa. Nội
3
dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu
tham khảo giúp cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chế định pháp
luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa ở VN hiện tại và trong tương lai.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động đại lý mua bán
hàng hóa và pháp luật về hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Chương 2. Thực trạng pháp luật thương mại Việt Nam về hợp
đồng đại lý mua bán hàng hóa
Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật thương mại về hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẠI LÝ MUA
BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 . Hoạt động đại lý thương mại và vai trò của hoạt động đại lý
thương mại
1.1.1 Khái quát về lịch sử hình thành hoạt động đại lý thương
mại – Dịch vụ trung gian thương mại
Quá trình phân công lao động xã hội và trao đổi hàng hóa trên thế
giới đã xuất hiện và phát triển khá sớm trong lịch sử xã hội nhân loại.
Thời kỳ đầu, hoạt động mua bán hàng hoá chủ yếu được diễn ra trực
tiếp giữa người sản xuất ra hàng hoá và người tiêu dùng. Sau này, cùng
với sự ra đời của những thương nhân lấy việc bán hàng làm nghề nghiệp
chính cho mình, thì hoạt động mua bán hàng hoá càng phát triển mạnh
mẽ và được tiến hành dưới nhiều hình thức hết sức đa dạng, phong phú
với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau.
4
1.1.2 Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với một số hoạt
động trung gian thương mại khác
Theo pháp luật Thương mại VN, thì ĐLTM là một trong bốn
hình thức của trung gian thương mại. Mang bản chất của trung gian
thương mại nên ĐLTM với các hình thức trung gian thương mại khác
có rất nhiều điểm tương đồng mà có thể nhận ra ngay ở khái niệm quy
định tại khoản 11 điều 3 LTM 2005 “Các hoạt động trung gian thương
mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương
mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt
động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán
hàng hoá và ĐLTM”.
Tuy nhiên, mỗi hình thức hoạt động trung gian thương mại đều
mang những đặc điểm riêng biệt, để phân loại các hình thức này chủ
yếu dựa vào vai trò và tư cách của bên trung gian trong quan hệ với bên
thứ ba.
* Đại lý và đại diện
Trong quan hệ với bên thứ ba, bên đại diện nhân danh bên giao
đại diện còn bên đại lý nhân danh chính mình để giao kết và thực hiện
HĐ với bên thứ ba. Bên đại diện chỉ được thực hiện những hoạt động
trong phạm vi được ủy quyền, đôi khi bên thứ ba hiểu nhầm là mình
trực tiếp quan hệ với bên đại diện. Còn bên đại lý là chủ thể trực tiếp
giao kết và thực hiện cũng như chịu trách nhiệm với bên thứ ba về HĐ
đã ký kết.
* Đại lý và môi giới
Một là, về chủ thể có sự khác biệt. Bên môi giới bắt buộc phải là
thương nhân, còn các bên được môi giới không nhất thiết phải là thương
nhân, song trong quan hệ đại lý thì cả hai bên giao đại lý và bên đại lý
đều phải là thương nhân.
5
Hai là, bên môi giới chỉ thực hiện các hoạt động tìm kiếm và
cung cấp thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, thu xếp
các bên được môi giới tiếp xúc và trực tiếp giao kết HĐ với nhau.
Ba là, về hình thức của HĐ, LTM 2005 không quy định về hình
thức của HĐ môi giới phải được lập thành văn bản, trong khi hoạt động
ĐLTM bắt buộc phải là văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp
lý tương đương.
* Đại lý và ủy thác
Một là, về chủ thể, quan hệ ủy thác có thể được thiết lập giữa
thương nhân với thương nhân, giữa thương nhân với một hoặc các bên
không phải là thương nhân, trong khi quan hệ đại lý chỉ có thể được
thiết lập giữa các thương nhân.
Hai là, phạm vi hoạt động của ĐLTM rộng hơn hoạt động ủy
thác.
Ba là, bên đại lý được tự do hơn bên nhận ủy thác trong việc lựa
chọn bên thứ ba để giao kết và thực hiện HĐ.
Bốn là, quan hệ ủy thác thường mang tính vụ việc, đơn lẻ còn
quan hệ đại lý thường là quá trình hợp tác lâu dài giữa bên giao đại lý
và bên đại lý.
1.1.3 Vai trò của hoạt động đại lý thương mại trong nền kinh tế
thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh và tự do cạnh
tranh được bảo đảm khiến các thương nhân phải không ngừng tìm kiếm
một phương thức linh hoạt và ưu việt để tăng hiệu quả hoạt động kinh
doanh thu về nguồn lợi nhuận tối đa. Tham gia vào quan hệ ĐLTM là
một phương thức kinh doanh được nhiều thương nhân ưa chuộng, góp
phần phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Vai
trò của hoạt động ĐLTM trong trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở
những khía cạnh sau:
6
Thứ nhất, ĐLTM góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa
và từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển nói chung và ngành thương mại dịch
vụ nói riêng.
Thứ hai, hoạt động ĐLTM mang lại hiệu quả lớn cho thương
nhân trong quá trình phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ ở thị trường
trong nước, mở rộng ở thị trường nước ngoài.
Thứ ba, hoạt động ĐLTM tạo điều kiện thuận lợi cho người
tiêu dùng, nhất là người tiêu dùng ở những nơi có điều kiện kinh tế, xã
hội khó khăn tiếp cận được với hàng hoá và dịch vụ một cách tốt nhất.
Trước khi ĐLTM ra đời, khách hàng muốn mua hàng hoá chính
hãng phải đến đúng địa điểm kinh doanh của thương nhân nên chi phí
phải bỏ ra cho hàng hoá tăng cao. Từ khi ĐLTM xuất hiện, khách hàng
có thể dễ dàng tiếp cận với hàng hoá chính hãng qua mạng lưới đại lý ở
tỉnh, địa phương của mình. Khách hàng có cơ hội được sử dụng hàng hoá,
dịch vụ chất lượng chính hãng với giá cả và hậu mãi tốt từ các đại lý.
1.2 Bản chất pháp lí của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
Hoạt động đại lý mua bán hàng hóa được thực hiện trên cơ sở HĐ
đại lý mua bán hàng hóa, hay nói cách khác, HĐ đại lý mua bán hàng
hóa là công cụ pháp lý để thực hiện hoạt động đại lý mua bán hàng hóa.
LTM 2005 không đưa ra khái niệm đại lý mua bán hàng hóa, cũng như
khái niệm HĐ đại lý mua bán hàng hóa mà chỉ quy định khái niệm
ĐLTM nói chung tại Điều 166: “ĐLTM là hoạt động thương mại, theo
đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh
chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch
vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Theo quy
định tại Điều 385 BLDS 2015 thì HĐ là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ các
7
định nghĩa trên có thể đưa ra khái niệm HĐ đại lý mua bán hàng hóa
như sau:
“HĐ đại lý mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên,
trong đó một bên (bên đại lý) nhân danh chính mình để thực hiện việc
mua, bán hàng hóa cho bên kia (bên giao đại lý) để hưởng thù lao”
HĐ đại lý mua bán hàng hóa có các đặc điểm pháp lý sau:
Thứ nhất, Chủ thể của HĐ đại lý mua bán hàng hóa phải là các
thương nhân.
Thứ hai, bên đại lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực
hiện việc mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý. Đây là một đặc điểm
quan trọng của HĐ đại lý, cho phép phân biệt HĐ đại lý với HĐ đại
diện cho thương nhân.
Thứ ba, trong quan hệ HĐ đại lý, bên đại lý không phải là chủ sở
hữu đối với hàng hóa mà chỉ là người được bên giao đại lý ủy thác việc
định đoạt hàng hóa mà thôi.
Thứ tư, để thực hiện HĐ đại lý, bên đại lý vừa phải thực hiện các
hành vi pháp lý (Giao kết HĐ với khách hàng), vừa phải thực hiện các
hành vi thực tế (nhận hàng hóa từ bên giao đại lý để giao cho người
mua trong trường hợp đại lý bán, hoặc nhận tiền từ bên giao đại lý để
thanh toán cho khách hàng; nhận hàng từ khách hàng để giao cho bên
đại lý trong trường hợp đại lý mua bàng).
Thứ năm, HĐ đại lý là một dạng HĐ dịch vụ; bên đại lý bán hàng
hoặc mua hàng cho bên giao đại lý để nhận thù lao.
Trong quan hệ HĐ đại lý mua bán hàng hóa, các quyền và nghĩa
giữa bên giao đại lý, bên đại lý với nhau cũng như với khách hàng có sự
khác biệt rõ nét với HĐ phân phối hàng hóa. Việc phân biệt HĐ đại lý
mua bán hàng hóa với HĐ phân phối hàng hóa có ý nghĩa quan trọng
trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ HĐ và
bảo vệ quyền lợi khách hàng.
8
Thứ nhất, trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên giao đại lý
chỉ giao hàng hóa cho bên đại lý bán hàng mà không chuyển quyền sở
hữu hàng hóa cho bên đại lý (thực chất bên giao đại lý chuyển quyền
chiếm hữu hàng hóa cho bên đại lý).
Thứ hai, trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên giao đại lý
có quyền ấn định giá bán hàng hóa và bên đại lý bán hàng hóa có nghĩa
vụ phải bán hàng theo đúng giá mà bên giao đại lý đã ấn định.
Thứ ba, quan hệ phân phối hàng hóa với tính chất là một quan hệ
“mua đứt, bán đoạn”, nhà phân phối không có trách nhiệm phải tuân thủ
những chỉ dẫn của nhà cung cấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng
hóa cho khách hàng của mình.
1.2.2 Một số nguyên tắc cơ bản của hợp đồng đại lý mua bán
hàng hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa về bản chất cũng là một HĐ dân sự,
chính vì vậy, những nguyên tắc của HĐ dân sự cũng mang tính chỉ đạo
đối với HĐ đại lý mua bán hàng hóa.
Thứ nhất, Nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng, không vi
phạm điều cấm của luật, không vi phạm trật tự công cộng, không trái
đạo đức xã hội
Thứ hai, Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Thứ ba, Nguyên tắc đảm bảo cam kết
Thứ tư, Nguyên tắc không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác
Thứ năm, Nguyên tắc tôn trọng tập quán trong lĩnh vực đại lý
mua bán hàng hóa.
1.2.3 Phân loại hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa rất phong phú, đa dạng trong thực
tế. Về mặt khoa học, người ta có thể chia HĐ đại lý thành những loại
khác nhau, dựa trên những tiêu chí khác nhau như:
9
Căn cứ vào nội dung HĐ mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý
thực hiện mà chia thành đại lý mua hàng và đại lý bán hàng.
Căn cứ vào phương pháp quy định giá mua, giá bán hàng hóa
đại lý và cách tính thù lao đại lý mà chi thành đại lý hoa hồng và đại lý
bao tiêu.
Căn cứ vào phạm vi quyền hạn được bên giao đại lý ủy nhiệm
mà chia thành đại lý độc quyền và tổng đại lý.
LTM 2005 quy định ba hình thức đại lý mua bán hàng hóa cơ bản
là: đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền, tổng đại lý mua bán hàng hóa;
ngoài ra thương nhân được tự do lựa chọn hình thức đại lý mua bán
hàng hóa khác phù hợp với nhu cầu kinh doanh của các bên. LTM 2005
cung như các văn bản hướng dẫn thi hành không đưa ra khái niệm về
các loại HĐ đại lý nói trên. Căn cứ và quy định của BLDS 2015 về HĐ
và khái niệm về các hình thức đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền, tổng đại
lý theo quy định tại điều 169 LTM 2005, có thể đưa ra các khái niệm
như sau:
+ Hợp đồng đại lý bao tiêu
+ Hợp đồng đại lý độc quyền
+ Hợp đồng tổng đại lý mua bán hàng hóa
+ Các hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa khác do các bên thỏa
thuận
1.3 . Pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
1.3.1 Pháp luật về quan hệ đại lý mua bán hàng hóa ở một số
quốc gia trên thế giới
Việc xác định điều kiện, năng lực chủ thể của các bên tham gia
quan hệ HĐ
Về đối tượng của HĐ
Về hình thức HĐ
Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HĐ
10
Về chấm dứt HĐ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực
hiện dịch vụ
1.3.2 Một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về điều
chỉnh quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Các chủ thể tham gia quan hệ đại lý mua bán hàng hóa rất đa
dạng, làm nảy sinh nhiềm nhóm quan hệ xã hội - kinh tế khác nhau:
- Quan hệ ủy quyền giữa bên giao đại lý và bên đại lý để thực
hiện các hoạt động mua, bán hàng hóa;
- Quan hệ mua, bán hàng hóa, giữa bên đại lý và bên thứ ba;
- Quan hệ giữa bên giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba trong
hoạt động đại lý;
- Quan hệ giữa cơ quan thương vụ của cơ quan chủ quản thương
mại ở nước ngoài với các thương nhân khi họ muốn cơ quan này cung
cấp thông tin, giới thiệu và chắp nối họ với các đối tác phù hợp để thiết
lập các giao dịch thương mại;
- Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, đầu tư
trong việc hỗ trợ, hướng dẫn các thương nhân tìm kiếm đối tác thực
hiện dự án đầu tư hoặc giải quyết những yêu cầu, mâu thuẫn, tranh chấp
giữa các bên.
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh những nhóm quan hệ trên tản
mạn trong nhiều văn bản thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như
BLDS 2015, LTM 2005, và các Bộ luật, luật chuyên ngành... Trên cơ sở
LTM 2005 là cở sở pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động
ĐLTM, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu của LTM
2005 điều chỉnh hoạt động ĐLTM với những nhóm quy phạm sau:
- Các quy phạm quy định về các hình thức ĐLTM.
- Các quy phạm điều chỉnh quan hệ HĐ đại lý giữa bên giao đại lý
và bên đại lý.
11
- Các quy phạm quy định quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý,
bên đại lý với bên thứ ba trong hoạt động đại lý.
+ Các quy định về hình thức đại lý mua bán hàng hóa
+ Các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại lý mua bán
hàng hóa giữa bên giao đại lý và bên đại lý
+ Các quy phạm quy định quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý,
bên đại lý với bên thứ ba trong hoạt động đại lý mua bán hàng hóa.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ MUA BÁN HÀNG HÓA
2.1 Các quy định về chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý
mua bán hàng hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa được xác lập giữa bên đại lý và bên
giao đại lý. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý
bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy
quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ (Khoản 1 Điều 167
LTM 2005).
2.2 . Giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.2.1 Thủ tục giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Về cơ bản, thủ tục giao kết HĐ đại lý mua bán hàng hóa bao gồm
hai bước là đề nghị giao kết HĐ và chấp nhận đề nghị giao kết HĐ.
a) Đề nghị giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
b) Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
c) Thời điểm giao kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.2.2 Thẩm quyền ký kết hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Theo quy định của BLDS 2015, người ký kết HĐ là đại diện hợp
pháp của các bên tham gia quan hệ HĐ, có thể đại diện theo pháp luật
12
hoặc đại diện theo ủy quyền. Việc ủy quyền lại có hiệu lực phải đáp ứng
được những điều kiện theo quy định tại Điều 564 BLDS 2015 như sau:
Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường
hợp\ có sự đồng ý của bên ủy quyền; hoặc do sự kiện bất khả kháng nếu
không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
2.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
2.3.1 Hình thức của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Quan hệ ĐLTM được xác lập trên cơ sở HĐ. LTM 2005 quy định
rõ “HĐ đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương”. Các hình thức có giá trị tương đương văn
bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức
khác theo quy định của pháp luật. Mọi thỏa thuận bằng lời nói hoặc
thông qua hành vi thực tế đều không có giá trị pháp lý. Quy định này
tương đối khắt khe so với pháp luật thương mại của các nước, quan hệ
đại lý có thể được xác lập bằng văn bản hoặc bằng các hình thức đa
dạng khác, kể cả thỏa thuận bằng lời nói. Nhưng đây là quy định mở
hơn LTM 1997 về hình thức HĐ, đã giúp các bên tham gia ký kết HĐ
đại lý có nhiều cách lựa chọn hơn. Các thương nhân vì những điều kiện
khó khăn mà không thể giao kết với nhau bằng văn bản ký kết trực tiếp
có thể lựa chọn các hình thức khác tương đương mà vẫn đảm bảo giá trị
pháp lý, tiết kiệm chi phí, linh hoạt hơn.
2.3.2 Nội dung của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Nội dung của HĐ đại lý mua bán hàng hóa là các điều khoản do
các bên thỏa thuận, theo đó các bên chủ thể trong quan hệ HĐ hoàn toàn
có thể thỏa thuận và thống nhất về một số điều khoản mà các bên cho là
quan trọng trong việc ràng buộc nghĩa vụ và bảo vệ quyền lợi của mỗi
bên. Các điều khoản này trong một chừng mực nhất định nếu không vi
13
phạm điều cấm của pháp luật thì cần được tôn trọng, thể hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HĐ địa lý mua bán hàng hóa.
2.4 Hiệu lực pháp lý của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.4.1 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
HĐ đại lý mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc bên giao đại lý và bên đại lý khi
tham gia quan hệ đại lý mua bán hàng hóa.
2.4.2 Các trường hợp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa vô
hiệu và xử lý hậu quả vô hiệu
HĐ đại lý mua bán hàng hóa vô hiệu không làm phát sinh quyền
và nghĩ vụ của các bên từ thời điểm ký kết.
* Xử lý hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa bị vô hiệu toàn bộ
* Hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa bị coi là vô hiệu từng phần
thì các bên phải sửa đổi hoặc hủy bỏ nội dung trái pháp luật. Nếu nội
dung vô hiệu đã được thực hiện xong phải bị xử lý về tài sản.
* Nguyên tắc về xử lý tài sản:
* Về trách nhiệm tài sản của cá nhân người ký hợp đồng vô hiệu
2.5 Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.5.1 Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý
a) Quyền của bên giao đại lý
b) Nghĩa vụ của bên giao đại lý
2.5.2 Quyền và nghĩa vụ của bên đại lý
* Quyền của bên đại lý
HĐ đại lý mua bán hàng hóa là loại HĐ song vụ có tính đền bù,
quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý cũng chính là nghĩa vụ và quyền
của bên đại lý. Đối với bên đại lý, trong trường hợp các bên không có
14
thoả thuận khác, bên đại lý có các quyền theo quy định tại Điều 174
LTM 2005 như sau:
- Giao kết HĐ đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ
trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được
giao kết HĐ đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa
hoặc dịch vụ nhất định.
- Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng
đối với đại lý bao tiêu;
- Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo HĐ đại lý;
nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc HĐ đại lý;
- Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các
điều kiện khác có liên quan để thực hiện HĐ đại lý;
- Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt
động đại lý mang lại. Thù lao đại lý do các bên thoả thuận, nếu các bên
không có thoả thuận thì theo quy định tại Điều 171 LTM 2005, thù lao
đại lý được trả dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
Giá trong HĐ đại lý gồm giá mà bên giao đại lý giao cho bên đại
lý (giá giao đại lý) và giá mà bên đại lý bán cho khách hàng. Giá giao
đại lý thường do bên giao đại lý ấn định trong bảng báo giá cập nhật
cho bên đại lý trong từng khoảng thời gian cụ thể. Giá bán hàng hoá cho
khách hàng có thể được xác định theo 3 cách: do bên giao đại lý ấn định
(đối với đại lý hoa hồng); do bên giao đại lý ấn định mức giá trần hoặc
do bên đại lý quyết định (đối với đại lý bao tiêu).
+ Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hóa
hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng
hoa hồng tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hóa hoặc
giá cung ứng dịch vụ.
+ Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán
hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá
15
giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá.
Mức chênh lệch giá được xác định là mức chênh lệch giữa giá mua, giá
bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý
ấn định cho bên đại lý.
2.5.3 Trách nhiệm pháp lí giữa bên giao đại lý, bên đại lý với
khách hàng
Quan hệ đại lý tồn tại song song hai quan hệ HĐ. Sau khi HĐ đại
lý mua bán hàng hóa giữa bên giao đại lý và bên đại lý có hiệu lực, bên
đại lý phải ký kết, thực hiện HĐ mua, bán hàng hoá với bên thứ ba.
Quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba chịu sự điều chỉnh của các quy
định về mua bán hàng hoá. Bên đại lý nhân danh chính mình và phải tự
chịu trách nhiệm với bên thứ ba khi giao kết, thực hiện HĐ.
2.5.4 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
Mặc dù Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại quy định khá chi tiết
về điều kiện, thủ tục, hậu quả pháp lý của việc áp dụng từng chế tài,
giới hạn trách nhiệm và điều kiện áp dụng phối hợp một số chế tài
nhưng việc áp dụng các quy định đó trong thực tế đang gặp nhiều
vướng mắc, nổi bật như sau:
Thứ nhất, Điều 301 LTM 2005 quy định các bên được tự do thỏa
thuận mức phạt vi phạm nhưng mức phạt vi phạm hoặc tổng mức phạt
đối với nhiều vi phạm HĐ đại lý mua bán hàng hóa không quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ HĐ bị vi phạm.
Thứ hai, khoản 2 Điều 299 LTM 2005 quy định: “Trường hợp
bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng HĐ trong thời
hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế
tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.”
Thứ ba, Điều 306 LTM 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm
HĐ chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và
16
các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm HĐ có quyền yêu cầu trả tiền
lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Thứ tư, việc nhận diện một hành vi vi phạm HĐ được coi là vi
phạm cơ bản để hủy bỏ hoặc đình chỉ HĐ trong thực tế rất khó khăn, dễ
nhầm lẫn. Bên cạnh đó, việc LTM 2005 quy định việc tạm ngừng, đình
chỉ, hủy bỏ HĐ chỉ được áp dụng khi đã “xảy ra hành vi vi phạm” HĐ
là khá cứng nhắc và không phù hợp trong nhiều trường hợp.
2.6 Chấm dứt hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa và hậu quả
chấm dứt hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.6.1 Chấm dứt hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
2.6.2 Hậu quả chấm dứt hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ HĐ ĐẠI LÝ MUA BÁN
HÀNG HÓA
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý mua
bán hàng hóa
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về đại lý thương mại phải phù hợp
với chính sách phát triển thương mại của nước ta
Pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa là một bộ phận trong
hệ thống pháp Luật Thương mại của VN. Vì vậy, việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa cần có sự tương
thích với chính sách phát triển chung của đất nước. Việc xác định chính
sách phát triển thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng,
hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa.
17
Việc phân phối hàng hoá, cung ứng dịch vụ thông qua thương
nhân làm đại lý mua bán hàng hóa là một phương thức kinh doanh được
ưa chuộng. Do đó đòi hỏi pháp luật về đại lý mua bán hàng hóa cần có
nhiều quy định mới bổ sung, sửa đổi cho những quy định đã không còn
phù hợp.
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về đại lý thương mại phải đặt trong
tổng thể chung của việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật thương mại,
đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ, thống nhất và khả thi của pháp
luật
Các quy định về HĐ đại lý mua bán hàng hóa là một bộ phận cấu
thành chế định thương mại dịch vụ. Bởi vậy, việc hoàn thiện các quy
định về HĐ đại lý mua bán hàng hóa phải đặt trong tổng thể chung của
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thương mại.
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về đại lý thương mại phải đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của quá trình phát triển
kinh tế ở mỗi quốc gia trong đó có VN. Trong thời gian qua, VN đã
tham gia nhiều tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế như: Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM). Hiệp
định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thương mại về hợp
đồng đại lý mua bán hàng hóa
3.2.1 Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Thứ nhất, quy định của LTM 2005 và Luật Cạnh tranh năm 2004
đang tồn tại mâu thuẫn xung quanh thỏa thuận ấn định giá bán hàng hóa
của các đại lý cho khách hàng và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
18
Thứ hai, LTM 2005 cần bổ sung thêm quy định về một quyền
quan trọng của bên đại lý là quyền được bảo vệ quyền sở hữu danh sách
khách hàng trong hệ thống phân phối không chỉ trong thời gian HĐ đại
lý mua bán hàng hóa có hiệu lực mà cả một khoảng thời gian hợp lý sau
khi các bên đã chấm dứt quan hệ đại lý.
Thứ ba, thực tiễn hoạt động thương mại thời gian qua cho thấy có
nhiều trường hợp các bên ký HĐ đại lý với thoả thuận hình thức đại lý
hoa hồng; bên giao đại lý ấn định cứng giá mua, giá bán hàng hoá
nhưng bên đại lý bán hàng với giá cao hơn giá ấn định.
3.2.2 Hoàn thiện quy định cơ chế áp dụng phối hợp luật chung
và luật chuyên ngành liên quan đến hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa
Để giúp việc áp dụng luật trên thực tế được đơn giản, thuận lợi
hơn, các văn bản pháp luật chuyên ngành cần bổ sung điều khoản quy
định rõ ràng, cụ thể việc phối hợp áp dụng quy định của pháp luật chuyên
ngành và LTM 2005, BLDS 2015. Luật thương mại cũng như Bộ luật dân
sự cũng cần có quy định liên quan đến sự phối hợp áp dụng luật chung,
luật chuyên ngành để tạo sự thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Bên cạnh đó các quy định liên quan đến HĐ đại lý mua bán hàng
hóa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng cần được hoàn
thiện theo hướng:
- Các quy định về HĐ đại lý mua bán hàng hóa trong văn bản
pháp luật chuyên ngành không sao chép lại các quy định rõ ràng trong
LTM 2005 mà chỉ quy định những vấn đề đặc thù trong quan hệ đại lý
của lĩnh vực đó.
- Đối với những vấn đề đặc thù, luật chuyên ngành có thể có quy
định riêng nhưng cần quy định cơ chế áp dụng phối hợp quy định của
luật chuyên ngành và quy định của luật chung mang tính tương trợ và
thống nhất
19
3.2.3 Hoàn thiện quy định về chấm dứt hợp đồng đại lý mua
bán hàng hóa
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 177 của LTM 2005 thì việc
chấm dứt HĐ đại lý mua bán hàng hóa được thực hiện rất dễ dàng:
“Nếu không có thoả thuận khác, các bên có quyền chấm dứt HĐ đại lý
bất cứ khi nào nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết và
chỉ được chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn 60
ngày kể từ ngày thông báo.”
Thứ hai, liên quan đến thời hạn thông báo việc chấm dứt HĐ đại
lý. Nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong mọi trường hợp, HĐ
đại lý được chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn
60 ngày từ ngày thông báo.
Thứ ba, quy định về vấn đề bồi thường khi một bên đơn
phương chấm dứt HĐ đại lý mua bán hàng hóa không phù hợp thực
tế kinh doanh.
Thứ tư, khoản 2 điều 177 LTM 2005 quy định về giá trị khoản
bồi thường mà bên giao đại lý phải trả cho bên đại lý nếu bên giao đại
lý đơn phương chấm dứt HĐ là mang tính chủ quan, không phù hợp với
nguyên tắc tính bồi thường thiệt hại.
3.2.4 Hoàn thiện các quy định pháp luật về hình thức đại lý độc
quyền
Theo quy định của LTM 2005 về hình thức đại lý độc quyền thì
các bên được phép thỏa thuận, bên đại lý là chủ thể duy nhất được cung
ứng một loại hàng hóa và một loại dịch vụ trên một khu vực địa lý nhất
định. Trên thực tế, hình thức đại lý độc quyền được sử dụng khá phổ
biến, nó đã thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với nhiều thương nhân. Việc
xác định các thương nhân tham gia HĐ đại lý độc quyền không nhằm
mục đích hạn chế cạnh tranh thực sự là một vấn đề khó khăn. Pháp luật
cạnh tranh cần bổ sung những quy định tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng hơn
20
để ngăn chặn hình thức đại lý độc quyền gây ảnh hưởng đến cạnh tranh.
Luật thương mại cần “thiết kế” thêm quy định về hình thức đại lý độc
quyền theo hướng chỉ thừa nhận hình thức đại lý độc quyền khi các bên
lựa chọn hình thức này mà không vi phạm pháp luật cạnh tranh. Với các
quy định pháp luật đầy đủ như vậy sẽ giúp các thương nhân không mất
đi cơ hội kinh doanh của mình cũng như đảm bảo được sự tuân thủ pháp
luật được nghiêm túc.
3.2.5 Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến trách
nhiệm của các bên giao đại lý, bên đại lý với bên thứ ba
HĐ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại giữa bên
đại lý và bên thứ ba được hình thành sau khi có HĐ đại lý và luôn chịu
ảnh hưởng của việc thực hiện HĐ đại lý. Thông qua hệ thống đại lý,
khách hàng tiếp cận sản phẩm của nhà sản xuất và được hưởng các chính
sách ưu đãi, giá cả hợp lý. Bên thứ ba là người nhận chuyển giao quyền
sở hữu trực tiếp từ bên giao đại lý, quyền và lợi ích của bên thứ ba cũng
liên quan mật thiết đến không chỉ bên đại lý mà cả bên giao đại lý. Mặc
dù là những quan hệ pháp lý được xác lập trên cơ sở HĐ khác nhau
nhưng quyền lợi và nghĩa vụ của bên thứ ba luôn có sự ràng buộc với
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đại lý. Tuy nhiên, pháp luật
chỉ mới quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hai giữa các bên trong
HĐ đại lý mà chưa có quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba
khi sự vi phạm HĐ của một bên trong quan hệ ĐLTM hoặc việc chấm
dứt HĐ ĐLTM làm thiệt hại cho bên thứ ba. Có sự quy định bảo vệ
quyền lợi cho bên thứ ba, sẽ tạo tâm lý cho bên thứ ba yên tâm giao dịch
với bên đại lý.
3.2.6 Bổ sung quy định về bảo mật thông tin và quyền sở hữu
trí tuệ
21
Việc tiết lộ thông tin của một bên sẽ không ảnh hưởng đến quyền
lợi chính đáng của bên còn lại. Luật một số nước đã khái quát nghĩa vụ
bảo mật thông tin của hai bên tham gia quan hệ ĐLTM như sau:
(i) Bên đại lý có nghĩa vụ bảo mật các thông tin về sáng chế, bí
mật kinh doanh hoặc bất kỳ thông tin nào khác do bên giao đại lý cung
cấp theo yêu cầu của bên giao đại lý.
(ii) Bên giao đại lý có nghĩa vụ bảo mật các thông tin do bên đại
lý cung cấp liên quan đến dữ liệu khách hàng của bên đại lý.
KẾT LUẬN
Hoạt động trung gian thương mại và đại lý mua bán hàng hóa là
hiện tượng nẩy sinh tất yếu trong nền kinh tế thị trường do nhu cầu mở
rộng, phát triển hoạt động kinh doanh của thương nhân.
Để thừa nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của loại hoạt động thương
mại này, để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ
HĐ đại lý mua bán hàng hóa cũng như bảo đảm cho việc giao kết, thực
hiện HĐ đại lý mua bán hàng hóa trong một trật tự ổn định, cần có pháp
luật điều chỉnh HĐ. Theo cách quy định của Luật Thương mại hiện nay,
chế định đại lý mua bán hàng hóa là một loại hình trung gian thương
mại đặc thù của VN, theo đó các nhà lập pháp VN đang không thừa
nhận tính chất đại diện theo ủy quyền trong quan hệ ĐLTM nói chung,
đặc biệt là đại lý mua bán hàng hóa do đó pháp luật VN có nhiều điểm
không tương đồng với các nước khi quy định về các vấn đề chủ thể
tham gia quan hệ, hình thức của HĐ, quyền và nghĩa vụ của các bên và
chấm dứt HĐ đại lý.
Bởi vậy, pháp luật VN về HĐ đại lý mua bán hàng hóa là một
vấn đề pháp lý có tính thực tiễn nên được nghiên cứu không chỉ phục vụ
mục đích học thuật nhằm đem đến nhận thức đúng đắn về HĐ đại lý
22
mua bán hàng hóa mà còn là cơ sở khoa học để phát triển các nguyên
tắc pháp lý và quy định thành văn về chế định ĐLTM.
Luận văn đã tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ các đặc điểm
của ĐLTM và HĐ đại lý mua bán hàng hóa, đồng thời trên cơ sở phân
tích và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về HĐ đại lý mua bán
hàng hóa ở VN, luận văn đã chỉ ra một số tồn tại và bất cập trong quy
định hiện hành, cụ thể như:
* Chỉ rõ được các quy định hiện hành điều chỉnh hoạt động đại lý
mua bán hàng hóa ở VN còn một số nội dung không thống nhất: khái
niệm đại lý trong các luật chuyên ngành được hiểu khác với khái niệm
đại lý trong luật thương mại. Các quy định về hình thức của HĐ, quyền
hưởng thù lao của bên đại lý cũng như các quy định về hạn chế cạnh
tranh, chấm dứt HĐ phát sinh trong hoạt động đại lý còn bộc lộ một số
bất cập, chưa đảm bảo quyền tự do giao kết, thực hiện HĐ cũng như lợi
ích của các bên tham gia quan hệ HĐ.
* Một thiếu sót của pháp luật về HĐ đại lý mua bán hàng hóa
hiện nay là quy định chưa rõ trách nhiệm của bên giao đại lý và bên đại
lý với bên thứ ba trong hoạt động ĐLTM, xuất phát từ sự nhìn nhận hạn
chế về tư cách đại diện (nhân danh bên giao đại lý hay nhân danh chính
mình) của bên đại lý khi xác lập giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích của
bên giao đại lý. Các phân tích về bản chất pháp lý của chủ thể tham gia
quan hệ HĐ giúp tìm ra hướng giải quyết cho vấn đề này phù hợp với
pháp luật quốc tế.
* Cho dù khái niệm HĐ đại lý không mới và là một phần của lịch
sử phát triển trung gian thương mại trên thế giới, nhưng giá trị thực tiễn
của việc nghiên cứu vẫn còn trong hiện tại bởi VN đang trong giai đoạn
tiến hành các hoạt động rà soát hệ thống pháp luật về dịch vụ phân phối
và ĐLTM. Trên cơ sở quan điểm và định hướng hoàn thiện pháp luật về
HĐ đại lý, cần quan tâm đến một số vấn đề về thực thi pháp luật cũng
23