Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HẬU

CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HẬU

CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng của tôi.
Các số liệu, tài liệu được trích dẫn trong luận văn theo nguồn đã công bố. Kết
quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả

Trần Văn Hậu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................................................................8
1.1 Khái niệm, chất lượng xét xử thẩm vụ án hình sự ...............................................8
1.2. Ý nghĩa của nghiên cứu chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................11
1.3. Cơ sở xác định chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................................15
1.4. Các tiêu chí đánh giá và tác động đến chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
...................................................................................................................................20
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..........23
2.1. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
thành phố Đà Nẵng ....................................................................................................23

2.2. Đánh giá chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở thành phố Đà Nẵng .27
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...............................................41
3.1 Yêu cầu của giải pháp .........................................................................................41
3.2. Các giải pháp cụ thể ...........................................................................................44
3.3. Các giải pháp khác .............................................................................................50
KẾT LUẬN ..............................................................................................................58


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HĐXX

Hội đồng xét xử


TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TP

Thẩm phán

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

Tên bảng
Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của
TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 – 2016

Trang

24

Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị và kết quả xét
2.2.

xử phúc thẩm của TAND TP Đà Nẵng và TAND cấp cao tại
Đà Nẵng từ năm 2012 – 2016

25


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó
Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố
tụng theo quy định của pháp luật nhằm xác định một người có tội hay không có tội

và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Đây là giai đoạn xét xử lần thứ nhất
của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Do đó, đòi hỏi những người tiến hành tố
tụng phải tập trung trí tuệ, giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, công minh,
chính xác và có sức thuyết phục, đồng thời lại phải tuân theo những quy định của
pháp luật.
Trong những năm qua, Tòa án nhân dân các cấp đã có nhiều cố gắng trong
công tác giải quyết, xét xử các vụ án nói chung và các vụ án hình sự nói riêng, góp
phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hoạt động giải quyết, xét xử án hình
sự vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, chất lượng chưa cao. Trong công tác
xét xử ở một số địa phương vẫn còn có vụ kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội
phạm, số vụ án bị hủy, bị sửa còn cao. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong
xét xử còn có những vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng, việc thu thập, đánh giá chứng
cứ không đầy đủ, không đúng. Hoặc khi xét xử Thẩm phán thiếu thận trọng, không
vô tư, khách quan dẫn đến xét xử không đúng người, đúng tội.
Toà án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới là:
Khi xét xử đã cố gắng bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, để ra những bản án, quyết định đúng

1


pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [1]. Chất lượng
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã được nâng lên một
bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn

định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tất cả những phân tích nêu trên là lý do để tôi lựa chọn đề án "Chất lượng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sỹ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những phạm vi thực
hiện chế độ hai cấp xét xử, mà pháp luật tố tụng hình sự quy định, đây là cấp xét xử
lần đầu vụ án hình sự, do vậy mà một trong những vấn đề pháp lý đặt ra thu hút
nhiều ý kiến tranh luận ở nước ta trong suốt một thời gian dài kể từ khi BLTTHS
năm 1988 ra đời và sau đó tiếp tục kế thừa bổ sung có sữa đổi là BLTTHS năm
2003 và cho đến thời điểm hiện nay khi ban hành BLTTHS năm 2015, đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Đó là:
- Hoàng Mạnh Hùng (2010), Hiệu quả của hoạt động xét xử trong tố tụng hình
sự. Luận án tiến sĩ, Hà Nội. Luận án đã xây dựng khái niệm khoa học về hiệu quả
của hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự trên cơ sở phân tích, đánh giá, làm rõ
bản chất của nó; Tác giả luận án đã phân tích, làm sáng rõ nội dung, ý nghĩa hiệu
quả của hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự, qua đó góp phần tạo ra sự thống
nhất về nhận thức vấn đề hiệu quả của hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự. Đồng
thời luận án cùng đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật TTHS và những
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp như đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, tăng
cường nhận thức pháp luật và năng lực hoạt động của các chủ thể tham gia vào quá
trình tạo nên hiệu quả của hoạt động xét xử...[11].
- Hồ Nguyễn Quân, Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tại phiên
tòa, Thông tin khoa học kiểm sát, Hà Nội, Bài viêt đã đưa ra giải pháp về kiện toàn đội ngũ Thẩm phán nhằm nâng

2


cao chất lượng xét xử tại phiên tòa. Cụ thể là: phải xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ

về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
Trình độ, năng lực của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số lượng không đủ,
công việc quá tải, áp lực công việc đè nặng thì hiệu quả chắc chắn không cao. Do
đó, cần có quy định về việc mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán không chỉ đối với
cán bộ đang công tác trong ngành mà còn cả những người là Luật gia, Luật sư nếu
họ đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật. [47].
-

Http://www.baophuyen.com.vn/164/170119/nang-cao-chat-luong-xu-an-hinh-

su.html. Bài viết đã nêu ý kiến của Thẩm phán Nguyễn Anh Pha. Theo đó, để nâng cao
chất lượng xét xử án hình sự, từng Thẩm phán phải nâng cao trách nhiệm, kỹ năng
nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức theo lời dạy của Bác Hồ là “Phụng công,
thủ pháp, chí công, vô tư”. Trong đó, tăng cường trách nhiệm của người Thẩm phán
trong hoạt động xét xử là yếu tố hàng đầu. “Bởi Thẩm phán khi được phân công xét
xử án hình sự không chỉ phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, phát hiện kịp thời những
mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, mà còn là người chủ tọa phiên xử nên phải đánh giá
thận trọng, đầy đủ khách quan, toàn diện các chứng cứ buộc tội, gỡ tội để xác định
đúng sự thật vụ án. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư, người bào chữa
tham gia các vụ án theo quy định của pháp luật”, Thẩm phán Nguyễn Anh Pha phân
tích thêm [48].
- Tôn Thiện Phương (2015), Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong
tố tụng hình sự, Tạp chí KH-CN Nghệ An, số 3. Bài viết đưa ra các giải pháp nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Đó là, cải thiện mội trường tranh tụng; nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử; nâng cao hiệu quả phối hợp hoạt động giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng [16].
- Nguyễn Ngọc Kiện (2012), Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân
dân số 10/2012, số chuyên đề tháng 05/2012.
Bài viết đề xuất khắc phục những bất cập về thực thi pháp luật, ở nhóm các

vần đề: Về lập quy và hoạt động thực tiễn, về mặt đạo đức nghề nghiệp, chuyên

3


môn nghiệp vụ và đào tạo các chức danh tư pháp và nhóm vấn đề về cơ sở vật chất
phục vụ phiên tòa. Các giải pháp mang tính thực tiễn này có ý nghĩa tích cực, hướng
cho hoạt động tố tụng được chuyên nghiệp hóa và theo hướng đổi mới phiên tòa
hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp hiện nay [13].
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề chất lượng xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong TTHS, cũng như xuất hiện trên nhiều tạp chí chuyên
ngành. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn được đề
cập trong các công trình nghiên cứu, cũng như các bài viết về các vấn đề khác có
liên quan như: Nguyễn Hữu Chính (2012): Một số vấn đề về tranh tụng tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2012, số chuyên đề tháng
07/2012; Trần Văn Độ (2012): Một số vấn đề về hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm, Tạp chí Kiểm sát số 8/2012, số chuyên đề;
Trương Hòa Bình (2014): Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án - giải pháp
đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Báo Công lý, số
87 (1205) ngày 29/10/2014...
Trong các công trình trên, theo tác giả biết thì chưa thấy có công trình nào
nghiên cứu một cách trực diện về chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực
tiễn tại một địa phương là thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, vấn đề chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đến nay vẫn còn
nhiều ý kiến, nhiều quan điểm khác nhau, việc xây dựng nội dung điều luật sao
cho phù hợp cả về lý luận và thực tiển vẫn chưa đạt hiệu quả cao, mặt dù BLTTHS
năm 2015 ra đời tiếp tục kế thừa, có sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn chưa đạt. Điều
này cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ về vấn
đề chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong mối quan hệ giữa lý luận và thực

tiễn của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng, để đưa ra được hướng hoàn
thiện phù hợp.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật về xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng như thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra những giải
pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
như khái niệm, ý nghĩa..., các tiêu chí đánh giá Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự;
- Phân tích các quy định pháp luật TTHS về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Đánh giá thực trạng Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND hai
cấp thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế, vướng mắc,
thiếu sót và nguyên nhân của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng quy định tại thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, luận văn chỉ nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003 về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có
đối chiếu với quy định này trong BLTTHS năm 2015. Do BLTTHS năm 2015 đã
khắc phục hầu hết những bất cập trong BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm hình

sự nên luận văn chỉ tập trung vào giải pháp tăng cường các biện pháp triển khai thi
hành tốt BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nâng cao chất
lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

5


- Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định của
BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng từ ngày 01/6/2012 đến ngày
01/6/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà
nước về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cải cách tư pháp;
những tri thức khoa học của triết học, xã hội học, luật học, các học thuyết chính trị
pháp lý.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, điều tra xã hội học, suy luận logic...
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia, tọa đàm
và phương pháp nghiên cứu các bản án và hồ sơ vụ án của Tòa án trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng, để kết hợp giữa lý luận và thực tiển rút ra các kết luận khoa học của
mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về
Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án cấp sơ thẩm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức, kỹ năng nghiệp vụ và tinh thần trách

nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà
Nẵng trong hoạt động giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Hạn chế đến
mức thấp nhất các vụ án bị hủy hoặc bị cải sửa do có vi phạm pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn

6


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật thể hiện chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự và thực tiễn thực hiện ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
thành phố Đà Nẵng.

7


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chất lượng là khái niệm chỉ cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật, hiện
tượng; là cái tạo nên bản chất sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng này
khác với sự vật, hiện tượng khác [43]. Trong triết học, chất lượng biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, sự việc, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối
của sự vật, sự việc phân biệt nó với các sự vật, sự việc khác. Chất lượng là đặc tính
khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài các thuộc tính, các tính chất

vốn có của sự vật. Quan niệm chung nhất về “chất lượng” là cái tạo nên phẩm chất,
giá trị của một người, một sự vật, sự việc.
Bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức
năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân.
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và
các Toà án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa
ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà
nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không
trái pháp luật của vụ việc [49]. Xét xử là một hoạt động đặc trưng, là chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án; Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm
chức năng xét xử. Xét xử là hoạt động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng.
Tòa án sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ

8


các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằng việc xét xử và ra
bản án, quyết định căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xác định bị cáo có tội
hoặc không có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác.
Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không một ai có thể bị
buộc tội mà không qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
bằng bản án. Khi xét xử các Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc: khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án nhân dân xét xử công
khai, trừ trường hợp do luật định; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo
đa số...

Xét xử là chức năng hiến định của Tòa án. Kết quả xét xử của Tòa án là phán
quyết cuối cùng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. “Không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Đây là cơ sở
duy nhất để xác định một người có bị coi là có tội hay không. Xét xử sơ thẩm
VAHS có vị trí, vai trò quan trọng nhất, không chỉ trong giai đoạn xét xử mà còn
trong cả quá trình giải quyết vụ án. Các giai đoạn tố tụng trước đó, chỉ là quá trình
chuẩn bị điều kiện cho xét xử sơ thẩm. Các giai đoạn sau xét xử sơ thẩm là kiểm tra
tính hợp pháp và tính có căn cứ của nó, khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có
và đưa các quyết định, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành [39,
tr.15]. Giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS bắt đầu kể từ thời điểm Toà án cấp sơ thẩm
nhận được hồ sơ vụ án cùng với cáo trạng (hoặc quyết định truy tố) truy tố bị can
trước Toà án, do Viện kiểm sát cùng cấp chuyển sang và kết thúc bằng một bản án,
quyết định giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm. Tại phiên
toà xét xử sơ thẩm VAHS, trên cơ sở những chứng cứ đã được kiểm tra công khai,
khách quan, Toà án cấp sơ thẩm ra bản án xác định bị cáo có tội hay không có tội.
Nếu bị cáo có tội thì đó là tội gì, quy định tại điều khoản nào của BLHS. Ngoài việc
ra bản án, Toà án cấp sơ thẩm còn có thẩm quyền ra các quyết định cần thiết khác
nhằm giải quyết vụ án.
Hiện nay, khái niệm “xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” còn có nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Theo Từ điển luật học, xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa

9


là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [43]. Đây là khái
niệm mang tính khái quát chung để chỉ tất cả việc xét xử sơ thẩm các VAHS, dân
sự, hành chính… Tuy nhiên, định nghĩa này còn sơ sài, chưa làm rõ được đầy đủ
nội dung, mục đích của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự của Đại học Quốc gia Hà Nội, Xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có

thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ
án hình sự trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát, Tòa án sẽ xem xét đánh giá
chứng cứ dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm sở để ra các phán quyết công
minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản án và quyết định của mình [36. tr.339].
Định nghĩa này đã xác định xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự và chỉ ra
được nội dung, mục đích của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, định
nghĩa này xác định xét xử sơ thẩm VAHS là việc “xét xử lần đầu” là chưa thực sự
chính xác. Bởi không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu.
Trong trường hợp tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án để điều
tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét xử lần
thứ nhất.
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Toà án
có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật [37, tr.345]. Định nghĩa này đã xác định được xét xử sơ
thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy nhiên, định nghĩa này mới chỉ xem xét
hình thức của việc xét xử sơ thẩm VAHS để giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định
tố tụng theo quy định của pháp luật mà chưa làm rõ được những nội dung của việc
giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng.
Vụ án hình sự là vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm được quy
định trong BLHS được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định.

10


Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà nước do Tòa án thực hiện ở cấp
xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ
án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội hay
không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã

thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án
hình sự [15, tr. 8].
Từ sự phân tích trên, theo tôi, Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà
nước do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất trên cơ sở xem xét, đánh giá toàn
diện các chứng cứ về việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự để giải quyết vụ án bằng việc ra bản án quyết định bị cáo có
tội hay không có tội, hình phạt và những biện pháp tư pháp, cũng như các quyết
định tố tụng theo quy định của pháp luật.
Như vậy: Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giá trị của hoạt động
xem xét đánh giá bản chất pháp lý đối với vụ án hình sự bởi Tòa án cấp thứ nhất
bằng việc ra bản án quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và biện
pháp tư pháp, cũng như các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Ý nghĩa của nghiên cứu chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác xét xử hình sự
Đảm bảo chất lượng xét xử là một yêu cầu hết sức quan trọng trong công tác
giải quyết, xét xử các loại vụ án. Trong thời gian qua, ngành Tòa án nhân dân đã có
nhiều cố gắng để chất lượng xét xử ngày càng nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu. Vẫn còn trường hợp bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng hoặc áp dụng pháp luật có sai lầm nghiêm trọng do lỗi chủ quan của Tòa án
và đã bị sửa, hủy [31]. Do vây, một trong những yêu cầu cấp bách cần được ưu tiên
hàng đầu, để đáp ứng kịp thời với chức năng, nhiệm vụ mới của Tòa án theo quy
định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và
BLTTHS năm 2015 là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ

11


làm công tác xét xử hình sự. Như vậy, có thể nói chất lượng xét xử góp phần nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử hình sự.

Góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
Đây là công việc quan trọng đầu tiên của quá trình tố tụng vụ án hình sự.
Nghiên cứu hồ sơ tốt là cơ sở để việc xét xử tại phiên tòa được khách quan, đúng
pháp luật. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng cả về nội dung vụ án và thủ tục tố tụng.
Hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp các văn bản, tài liệu được các cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập hoặc lập ra trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự, được sắp xếp theo một trình tự nhất định phục vụ cho việc giải quyết vụ
án và lưu trữ lâu dài.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là tổng hợp các hoạt động: xem xét, đọc, phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án nhằm nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của hành vi phạm tội, qua đó xác định
sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở đó, xác định những vấn đề cần trao đổi, đề
xuất với Lãnh đạo, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như chuẩn bị kế hoạch, xác định
phương án để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thẩm phán cần phải
nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện và đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, tránh tư tưởng chủ quan chỉ nghiên cứu những tài liệu mà mình cho là quan
trọng, còn các tài liệu khác thì bỏ qua. Tuỳ theo hồ sơ vụ án cụ thể, có thể nghiên
cứu hồ sơ theo thứ tự thời gian diễn ra, theo trình tự tố tụng hoặc theo từng tập tài
liệu liên quan đến từng người tham gia tố tụng. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu
đầy đủ, ghi chép, lập được hệ thống chứng cứ của vụ án để làm cơ sở cho việc xây
dựng kế hoạch xét hỏi, điều khiển phiên tòa, tranh tụng và quyết định hình phạt.
Góp phần nâng cao chất lượng xét hỏi và điều hành phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động quan trọng nhất của hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thể hiện sự tập trung nhất chức năng, nhiệm vụ
của Tòa án trong tố tụng hình sự, theo tinh thần cải cách tư pháp. Tại giai đoạn này,
yêu cầu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đúng và đầy đủ các quy định
của pháp luật tố tụng, từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, đến xét hỏi, tranh luận, nghị

12



án và tuyên án. Yêu cầu cao nhất của hoạt động xét xử là các quyền, nghĩa vụ của bị
cáo và người tham gia tố tụng phải được thực hiện đầy đủ. Tất cả các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án phải được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Quá trình tranh
luận phải đảm bảo dân chủ, khách quan. Việc ra bản án, quyết định phải căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa. Ngoài ra, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa còn phải
bao quát và xử lý tốt tất cả các tình huống phát sinh tại phiên tòa. Điều hành các
hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng của KSV và những người tham gia tố tụng một
cách khoa học, trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Xét hỏi là thủ tục trong xét xử vụ án do Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và
những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực
tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, xem xét hiện
trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra chứng cứ công khai tại phiên tòa để giải quyết
vụ án. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy định từ Điều 206 đến
Điều 216 Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là thủ tục có ý nghĩa quan trọng, quyết định
đối với việc chứng minh vụ án vì ở thủ tục này mọi chứng cứ đều được xem xét,
thẩm tra công khai, những mâu thuẫn giữa các lời khai, giữa lời khai với vật
chứng… được làm sáng tỏ để khẳng định giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
Với ý nghĩa đó, nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là yêu cầu
vừa cấp thiết vừa lâu dài. Thực tiễn xét xử thời gian qua đã nảy sinh một số vướng
mắc cần được tháo gỡ cả từ góc độ lập pháp và áp dụng pháp luật liên quan đến thủ
tục xét hỏi. Như vậy muốn tháo gỡ những vướng mắc thì trong quá trình giải quyết
Thẩm phán phải nắm chắc hồ sơ vụ án, chuẩn bị đề cương điều khiển phiên tòa, lập
kế hoạch xét hỏi phù hợp, trước khi xét xử cần trao đổi tình hình, nội dung vụ án
với Lãnh đạo ngoài ra theo quy định tại Điều 206 BLTTHS thì trước khi tiến hành
xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung nếu có.
Liên quan đến quy định này, có quan điểm cho rằng việc nhà làm luật quy định đọc
bản cáo trạng là một hoạt động trong phần xét hỏi là không hợp lí mà nên quy định
trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Theo chúng tôi, quan điểm này có nhiều nhân
tố hợp lí, phù hợp với đặc trưng của mỗi phần trong phiên tòa hình sự sơ thẩm.


13


Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có mục đích là chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo
đảm cho việc tiến hành phiên tòa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các
điều kiện cần thiết bao gồm cả điều kiện về sự có mặt của người tham gia tố tụng,
về chứng cứ và việc xác định nội dung vụ án làm tiền đề cho phần xét hỏi. Với ý
nghĩa đó, đọc bản cáo trạng là hoạt động nhằm làm rõ nội dung vụ án, chuẩn bị cho
phần xét hỏi và nên được quy định trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Khi Kiểm
sát viên trình bày ý kiến bổ sung vào bản cáo trạng, về nguyên tắc, Kiểm sát viên
phải đọc nguyên văn bản cáo trạng đã được giao cho bị cáo. Xác định thứ tự xét hỏi
hợp lí thực sự là công việc không đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, kĩ
năng của người xét hỏi. Về nguyên tắc chung, theo chúng tôi, việc xác định thứ tự
xét hỏi phải xuất phát từ nội dung xét hỏi (các vấn đề cần được làm rõ) trong từng
vụ án, từ đặc điểm của những người tham gia tố tụng và phải đảm bảo nguyên tắc
xác định sự thật vụ án. Về nội dung xét hỏi, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án,
Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa cần lập kế hoạch xét hỏi trong đó
nêu rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ. Cụ thể, Thẩm phán cần xác định được một
cách chính xác những điểm mấu chốt cần làm rõ tại phiên tòa sơ thẩm. Từ nội dung
các vấn đề cần xét hỏi, Thẩm phán xác định thứ tự xét hỏi đối với từng vấn đề một.
Cách thức xét hỏi theo vấn đề như vậy sẽ giúp quá trình xét hỏi được mạch lạc, rõ
ràng, tránh sự trùng lặp, hỏi đi hỏi lại về cùng một vấn đề. Bộ luật tố tụng hình sự
không quy định cụ thể phải hỏi ai trước, ai sau mà tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể,
Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi theo thứ tự hợp lí. Tuy nhiên, trên thực tế, gần
như đã thành thông lệ, việc xét hỏi tại phiên tòa được bắt đầu từ bị cáo. Thứ tự xét
hỏi này không vi phạm quy định của BLTTHS và trên thực tế đã phát huy tác dụng,
giúp việc xét hỏi không bị kéo dài mà vẫn làm rõ được nội dung vụ án.
Góp phần nâng cao chất lượng đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử
Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là quá trình kiểm tra, đánh giá

chứng cứ công khai, toàn diện, bình đẳng và dân chủ tại phiên tòa, đây là khâu
quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Do đó, khác với các giai đoạn
tố tụng trước, hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự ở giai

14


đoạn xét xử được tiến hành công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ nhất của
các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng hình sự. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu
đã được kiểm tra, xác minh, đánh giá công khai, bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa,
Tòa án mới có phán quyết khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
Góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
Bảo đảm các điều kiện, thực thi các quy định của pháp luật để các bên tham
gia tranh tụng. Đảm bảo các vụ án hình sự phải được tranh tụng một cách thực chất,
khách quan, dân chủ tại phiên tòa. Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét một cách toàn diện các luận
điểm, luận cứ và luận chứng của các bên tranh tụng.
Góp phần nâng cao chất lượng viết bản án hình sự sơ thẩm
Bản án hình sự sơ thẩm là văn bản pháp lý nhân danh Nhà nước, bắt buộc các
cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Bản án phải
thể hiện trung thực và đầy đủ nhất về các tình tiết của vụ án, trên cơ sở các tài liệu,
chứng cứ đã được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa. Quyết định của bản án
phải dựa trên kết quả tranh luận tại phiên tòa. Tránh tình trạng “Án bỏ túi”, áp đặt
theo nhận thức chủ quan của Chủ tọa và Hội đồng xét xử.
Góp phần nâng cao chất lượng tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, kết hợp
với xét xử lưu động
Hằng năm, Tòa án xây dựng kế hoạch xét xử các phiên tòa rút kinh nghiệm
theo tinh thần Nghị quyết trung ương 8 của Bộ chính trị để rút kinh nghiệm về
nghiệp vụ và các phiên tòa xét xử lưu động nhằm tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, phòng – chống tội phạm. Tổ chức lồng ghép giữa phiên tòa rút

kinh nghiệm và phiên tòa lưu động nhằm nâng cao chất lượng của phiên tòa, cũng
như tiết kiệm chi phí.
1.3. Cơ sở xác định chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Vị trí pháp lý đặc biệt của Toà án nhân dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo

15


đảm để Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm [2]. Trong số các quan
điểm và chủ trương của Đảng ta về cải cách tư pháp hình sự thì quan điểm và chủ
trương đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quan điểm mang tính đột phá. Theo đó, về
mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp
luật, phải bảo đảm để Toà án thực sự đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp
ở nước ta.
Tòa án với tính cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp xuất phát từ vai trò và
những thẩm quyền hiến định. Chỉ Tòa án với bản án của mình mới có thẩm quyền
coi một người là có tội và phải chịu hình phạt. Điều 31 Hiến pháp Việt Nam xác
định: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Trong tất cả các thiết chế quyền lực Nhà nước, không một thiết chế quyền
lực nào có được thẩm quyền phán xét đó.
Mặt khác cũng xuất phát từ việc bảo đảm một quyền quan trọng của bị can, bị
cáo với tính cách là quyền con người về dân sự. Đó là quyền được Toà án xét xử
khi bị cơ quan Nhà nước buộc tội. Nội dung của Điều 102 Hiến pháp Việt Nam về
thẩm quyền xét xử duy nhất của Tòa án cũng phần nào nói lên yêu cầu này. Toà án
đưa ra phán quyết nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền sửa
bản án, hủy bản án chỉ thuộc về Toà án thuộc cấp xét xử cao hơn (phúc thẩm, giám

đốc thẩm) và phải dựa trên những căn cứ, theo những trình tự do pháp luật TTHS quy
định. Thẩm quyền đó không thể thuộc về một cơ quan nào khác ngoài các Toà án cấp
cao hơn. Bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của
mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án của TA và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc chấp hành đó. Có thể thấy rằng, một bản án của Toà án đã có hiệu
lực pháp lý cũng có hiệu lực thi hành phổ biến như một văn bản pháp luật.
- Những yêu cầu cơ bản đối với hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án
nhân dân

16


Thứ nhất, việc ban hành bản án, quyết định đúng thẩm quyền theo đúng quy
định của pháp luật tố tụng hình sự
Là một trong những nội dung quan trọng thể hiện tính hợp pháp của bản án,
quyết định của Tòa án. Thông thường, vấn đề thẩm quyền xét xử theo loại việc, theo
lãnh thổ, theo cấp xét xử Tòa án được quy định rất chặt chẽ. Một loại việc không
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mà Tòa án cứ thụ lý, cứ xét xử thì bản án,
quyết định được ban hành sẽ không hợp pháp. Một vụ án thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng lại do Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử cũng
là biểu hiện sai thẩm quyền, nếu không có quyết định lấy vụ án lên để xét xử theo
quy định của pháp luật. Nghiêm trọng hơn là tình trạng nhầm lẫn về vụ việc dẫn
đến việc áp dụng pháp luật ban hành bản án và quyết định oan sai trong tố tụng
hình sự. Một quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, kinh tế có tranh chấp như
hành vi của người chưa chịu trả nợ, chiếm dụng vốn để tranh thủ kinh doanh... thì
người áp dụng pháp luật lại nhầm lẫn thành quan hệ pháp luật hình sự để rồi phải
bắt giam, truy tố, xét xử oan người vô tội. Hoặc ngược lại, một quan hệ pháp luật
hình sự lại "lọt lưới" pháp luật vì người áp dụng pháp luật nhầm lẫn cho là quan hệ
pháp luật hành chính, dân sự nên chỉ cần xử phạt vi phạm hành chính hoặc bồi

thường dân sự là đủ.
Có thể nói một bản án, quyết định sai thẩm quyền thường dẫn đến nhiều hậu
quả xấu cho nền dân chủ và pháp chế của đất nước; vi phạm các quyền tự do dân
chủ của công dân. Tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân còn
thể hiện ở việc bản án, quyết định được ban hành đúng trình tự, thủ tục và trong thời
hạn luật định. Hiện nay, theo quy định của pháp luật nước ta, các bản án, quyết định
được ban hành khi xét xử đều phải là những quyết định, bản án phán quyết theo
nguyên tắc: xét xử tập thể, quyết định theo đa số và phải trải qua các thủ tục tố tụng
chặt chẽ và trong một thời gian luật định. Các thủ tục tố tụng, đặc biệt là các thủ tục
tố tụng tại phiên tòa công khai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Các hành vi vi phạm quy định pháp luật tố tụng khi tiến hành
xem xét giải quyết một vụ án, dù là nhỏ, cũng đều có ảnh hưởng không tốt đến chất

17


lượng xét xử. Ví dụ: nếu không kiểm tra kỹ lý lịch và nhân thân bị can, bị cáo thì dễ
dẫn đến tình trạng kết tội nhầm người, do không chú ý đến việc tranh luận giữa các
bên đương sự và luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ nên Hội đồng xét xử đã
ban hành bản án không đúng với sự thật khách quan của vụ án dân sự hoặc hành
chính.
Thứ hai, thời hạn tiến hành các thao tác tố tụng theo đúng quy định của
pháp luật:
Người áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân phải tôn
trọng các quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn ban hành và tống đạt các
quyết định đưa vụ án ra xét xử; thời hạn tạm giam; thời hạn kháng cáo v.v... Có
những thời hạn càng ngắn càng tốt (như thời hạn tạm giam; thời hạn chuẩn bị xét xử
vụ án...) nhưng cũng có những thời hạn không được phép rút ngắn (như thời gian
tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến lúc mở một phiên tòa hình sự...)
hoặc những thời hạn không được phép kéo dài (như thời hạn giải quyết một vụ án).

Mọi biểu hiện vi phạm thủ tục và thời hạn ban hành bản án và quyết định của Tòa
án nhân dân đều ảnh hưởng xấu đến tính hợp pháp của nó.
Thứ ba, đảm bảo tính chính xác và khách quan của bản án, quyết định Tòa án
Biểu hiện ở toàn bộ nội dung văn bản, từ việc mô tả các tình tiết của vụ án một
cách khách quan qua việc xét xử đối chiếu các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ
và thẩm tra công khai tại phiên tòa đến việc nhận định một cách chính xác, khách
quan về vụ án. Việc mô tả và nhận định các tình tiết của vụ án còn thiếu sót, cho dù
là tình tiết buộc tội hay gỡ tội trong các vụ án hình sự; tình tiết có lợi hay bất lợi cho
một trong các bên đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động,
kinh tế, hành chính đều dẫn đến kết quả áp dụng pháp luật không chính xác và
không khách quan.
Tính chính xác và khách quan của bản án, quyết định Tòa án nhân dân còn
biểu hiện ở việc chọn quy phạm pháp luật đúng và viện dẫn điều luật, giải thích nội
dung quy phạm pháp luật một cách đầy đủ và chính xác. Chỉ cần người áp dụng
pháp luật viện dẫn điều luật không chính xác; vô tình hay cố ý viện dẫn điều luật

18


không đầy đủ để giải thích, áp dụng pháp luật theo ý định chủ quan của mình thì tất
yếu bản án, quyết định được ban hành không còn khách quan và chính xác nữa.
Điều quan trọng là bản án, quyết định của Tòa án phải thực sự dựa trên các căn cứ
pháp luật, các tình tiết cụ thể của vụ án và là kết quả thực sự của việc tranh tụng
công khai tại phiên tòa thì mới bảo đảm được tính chính xác, khách quan, công
minh và đúng pháp luật.
Tính chính xác và khách quan của bản án, quyết định của Tòa án còn biểu hiện
ở tính trong sáng, giản dị, cụ thể của văn phong bản án; tính mẫu mực của một văn
bản luôn nhân danh Nhà nước; tính chính xác của chính tả và số liệu; tính đúng
pháp luật và tính khả thi của các phán quyết. Những phán quyết của Tòa án nhân
dân đúng pháp luật, không oan, không sai, phải trái phân minh, công tội rạch ròi,

không định kiến, không thiên vị và là sản phẩm của một quá trình lao động nghiêm
túc, đầy trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm.
Tính hợp pháp, tính chính xác, khách quan, công minh của bản án, quyết định
của Tòa án tạo nên sức thuyết phục lòng người, "tâm phục, khẩu phục" của nội
dung bản án và quyết định. Một bản án chính xác, đúng pháp luật, khách quan, có
tình, có lý chắc chắn sẽ được dư luận xã hội, quần chúng nhân dân đồng tình ủng
hộ. Chính tính thuyết phục cao của nội dung bản án, quyết định của Tòa án tạo nên
sức mạnh góp phần rất có hiệu quả vào việc giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật....
Ngoài ra, bản án và quyết định của Tòa án mang tính chính xác, đúng pháp luật,
được nhân dân đồng tình ủng hộ cũng chính là tiền đề quan trọng không thể thiếu
được đối với việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ tư, bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan nghiêm chỉnh
chấp hành
Hiến pháp đòi hỏi mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng các bản án và
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực bởi vì bản án, quyết định Tòa án không chỉ
đơn thuần là của cơ quan Tòa án mà là của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Hiến pháp cũng đòi hỏi những cá nhân, tổ chức đã được xác định quyền
và nghĩa vụ cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án phải có bổn phận và trách

19


×