Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.58 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRỊNH THỊ LIÊN

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CỦA TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG ANH HOÀNG

Đà Nẵng - Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trịnh Thị Liên



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết đề tài.................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
5. Bố cục đề tài............................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ................................................................... 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC . 8
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ ............... 8
1.1.1. Các quan điểm trước Mác về bản chất con người ............................... 8
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người.......10
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC . 13
1.2.1. Nguồn nhân lực ..................................................................................15
1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực ..................................................................19
1.2.3. Vai trò nguồn nhân lực trong quá trình phát triển .............................21
1.2.4. Nội dung phát triển nguồn nhân lực ..................................................24
1.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÌ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ............. 32
1.3.1. Kinh nghiệm của Singapo ..................................................................32
1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản ................................................................34
1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc...............................................................36
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng ............................................38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 40
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA
TỈNH QUẢNG NAM ......................................................................................... 41


2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NAM TRONG XU

THẾ PHÁT TRIỂN .............................................................................................. 41
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội
của Quảng Nam............................................................................................41
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Nam ...................44
2.2. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA TỈNH QUẢNG
NAM..................................................................................................................... 47
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Quảng Nam ........................................47
2.2.2. Một số vấn đề cấp bách đối với sự phát triển nguồn nhân lực ở
Quảng Nam ..................................................................................................58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 63
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NH M PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CỦA TỈNH QUẢNG NAM TRONG XU HƯ NG HỘI
NHẬP QUỐC TẾ ............................................................................................... 64
3.1. NH NG C

S

LÝ LUẬN ĐỂ XÂ

DỰNG CHIẾN LƯ C PHÁT

TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA TỈNH QUẢNG NAM ............................... 64
3.1.1. Quan điểm xem con người là trung tâm của quá trình phát triển ......64
3.1.2. Quan điểm xem giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc
sách hàng đầu của sự phát triển ...................................................................67
3.1.3. Đẩy mạnh cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa ..............72
3.1.4. Chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ là nhiệm vụ cấp thiết. .........................75
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ

ẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC


CỦA QUẢNG NAM............................................................................................ 79
3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dựa trên lợi thế của
tỉnh Quảng Nam ...........................................................................................79
3.2.2. Đầu tư ngân sách để nâng cao sự nghiệp giáo dục – đào tạo ............84
3.2.3. Phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến để đảm bảo
chất lượng, hiệu quả sản xuất nâng cao đời sống xã hội .............................91


3.2.4. Phát triển môi trường văn hóa, tạo động lực phát triển bền vững ....97
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................. 102
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 105
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động

28

bảng
1.1


Việt Nam năm 2011
2.1

Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá thực tế phân

45

theo khu vực kinh tế qua các thời kỳ
2.2

Thống



dân

số

phân

theo

giới

tính

48

Biến đổi cơ cấu dân số, lao động và việc làm của


49

và phân theo thành thị, nông thôn
2.3

Quảng Nam
2.4

Số lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo trình

52

độ chuyên môn kỹ thuật và lĩnh vực đào tạo
2.5

Lực lượng lao động đang làm việc phân theo ngành
kinh tế

55


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Thế kỷ XXI mở ra bối cảnh mới khi mà quá trình toàn cầu hoá diễn ra
ngày càng sâu rộng, cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với
những bước tiến như vũ bão nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ nanô... Những thành tựu đó đã trở thành
động lực hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, kinh nghiệm của

những nước đi sau, muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần tiếp
thu và phát triển công nghệ tiên tiến của thế giới. Muốn vậy, phải phát triển
nguồn nhân lực ở tầm quốc gia và ở m i địa phương có bản lĩnh chính trị, đạo
đức, kiến thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những tri thức, kinh nghiệm,
công nghệ của những nước đi trước, nh m ứng dụng có hiệu quả vào hoạt
động thực tiễn ph hợp với điều kiện thực tế của m i quốc gia, địa phương,
cơ quan, doanh nghiệp. Thực tế chứng minh, không thể đảm bảo các yếu tố
phát triển nếu không có một nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và được sử dụng có hiệu quả. Điều này
càng được sáng tỏ khi tiếp cận với những thành tựu của khoa học - công nghệ
hiện đại và kinh tế tri thức. Ngày nay vai trò của các lợi thế truyền thống
trong phát triển như: yếu tố tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn lao
động rẻ ... ngày càng giảm bớt. Nguồn nhân lực với tri thức và trí tuệ trở
thành nguồn tài sản vô c ng quý giá, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và
phát triển của mọi quốc gia và v ng lãnh thổ. Với tất cả những gì nhân loại đã
đạt được chứng tỏ r ng con người c ng với trí tuệ của mình đã khẳng định địa
vị thống trị và có thể tiến xa hơn nữa trong việc làm chủ tự nhiên và xã hội.
Các quốc gia phát triển trên thế giới đạt được rất nhiều thành tựu rực rỡ về
mọi mặt, đó là nhờ họ biết phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực, có chiến
lược phát triển, sử dụng nhân lực một cách hợp lý. Việt Nam - một nước đang


2

phát triển, từ khi là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, thì cuộc cạnh
tranh trong phát triển ngày càng trở nên gay gắt hơn, thuận lợi và khó khăn,
thách thức luôn đan xen nhau, tác động đến mọi mặt cuộc sống của con
người. Thách thức lớn nhất để đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết để khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế là vấn đề phát triển nguồn nhân lực.

Xuất phát từ quan điểm trên, để thực hiện thành công các mục tiêu,
nhiệm vụ mang tính chiến lược, Đại hội XI của Đảng đã xác định phải đột phá
vào ba vấn đề, đang được coi là những “điểm nghẽn” cần phải khai thông. Đó
là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ...Trong đó, Đảng ta xác định khâu đột phá về phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố giữ vai trò
trung tâm; là khâu quan trọng nhất chi phối việc thực hiện các đột phá khác.
Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
Quảng Nam là một tỉnh ven biển, n m trong v ng kinh tế trọng điểm
miền Trung có nhiều lợi thế trên các lĩnh vực. Vì vậy, đòi hỏi Quảng Nam
trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần phải có chiến
lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm những con người có trình độ học vấn
và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi, có khả năng thích ứng
nhanh, làm chủ công nghệ sản xuất, có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt, có
khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, kỹ năng đã được đào tạo vào quá
trình lao động sản xuất nh m đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đó
phải là nguồn nhân lực của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại. Không chỉ
thế, trong chiến lược phát triển, cần phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng,


3

mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và được sử dụng có hiệu
quả. Đây cũng được coi là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng
trưởng nhanh của một vùng đất còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, thực tế nguồn nhân lực của Quảng Nam hiện nay chưa đáp ứng
được yêu cầu, chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

nhà. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX, nhiệm
kỳ 2010-2015, xác định đột phá nh m thực hiện thắng lợi các mục tiêu là đầu
tư phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhất là nhân lực chất
lượng cao. Cho nên việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn nhân
lực để có những giải pháp nh m tạo ra một sự chuyển biến về chất, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển của tỉnh Quảng Nam đến
năm 2020 là nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
Quảng Nam” để làm luận văn thạc sĩ triết học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu nguồn nhân lực và khảo sát thực trạng nguồn
nhân lực tỉnh Quảng Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nh m phát triển
nguồn nhân lực gắn với sự phát triển tỉnh Quảng Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung vào việc giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
- Thứ nhất, làm rõ các khái niệm nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân
lực và nội dung phát triển nguồn nhân lực.
- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực, vấn đề phát
triển nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Nam.


4

- Thứ ba, trên cơ sở lý luận đưa ra các giải phát nh m phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu thực trạng số lượng, chất lượng, cơ cấu và việc sử
dụng nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ

bản để phát triển nguồn nhân lực vì sự phát triển của tỉnh Quảng Nam.
- Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực, phát triển nguồn
nhân lực trong phạm vi tỉnh Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phép biện chứng duy vật c ng với các nguyên tắc:
nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể và
phát triển, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, chúng tôi
còn sử dụng một số phương pháp như: điều tra xã hội học, thống kê, so sánh,
minh họa để thực hiện đề tài.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước nên đã được
nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau:
Thứ nhất: Về lý luận nguồn nhân lực với tư cách là động lực cho phát
triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam, gắn liền với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được phân tích và thể hiện trong các công
trình sau:“Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiên đại
hóa ở nước ta” của Trần Kim Hải (Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999); “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai


5

trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội” (Đề tài khoa
học cấp nhà nước KX.07.13 do GS.TS.Lê Hữu Tầng làm chủ nhiệm); “Nguồn
lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam”
(Đoàn Văn Khái, luận án tiến sĩ triết học, bảo vệ năm 2000); “Phát triển nguồn

nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (Nguyễn Thanh,
luận án tiến sĩ triết học, bảo vệ năm 2002); “Vai trò của nhân tố chủ quan
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” (Nguyễn
Thị Bích Thuỷ, luận án tiến sĩ triết học, bảo vệ năm 2006) “Lại bàn về phát
triển nhân lực” (Lê Bách, Tạp chí phát triển nhân lực, số (2) - 2007); “Vấn đề
xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam” (TS. Hà Văn Ánh, Tạp chí Phát triển nhân lực, số (1) 2007); “Nguồn lực và động lực cho phát triển phát triển nhanh và bền vững
nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của PGS. TS, Ngô Doãn Vịnh
chủ biên, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011) và các công trình khác.
Trong những công trình nói trên, tiếp cận dưới góc độ Triết học, Kinh tế
học và Xã hội học, các tác giả đã làm rõ: Bản chất của con người trong các
quá trình xã hội; nguồn lực con người, phát huy nguồn lực con người như thế
nào; các khái niệm “nguồn nhân lực” và “phát triển nguồn nhân lực”; nguồn
nhân lực với tư cách vừa là chủ thể vừa là động lực của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, đồng thời là sản phẩm của quá trình này. Các tác giả đều
nhất trí r ng, phát triển ở Việt Nam không thể thành công nếu thiếu một
nguồn nhân lực dồi dào về số lượng, mạnh về chất lượng với cơ cấu ngành
nghề hợp lý.
Tuy nhiên, các công trình nói trên chỉ tập trung phân tích kỹ về số lượng
và chất lượng của nguồn nhân lực, mà chưa đi sâu phân tích đến hai phương
diện quan trọng khác liên quan trực tiếp đến nguồn nhân lực: 1 - Cơ cấu
nguồn nhân lực (cơ cấu về độ tuổi, về trình độ, phân bố về ngành nghề lãnh


6

thổ của nguồn nhân lực); 2 - Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực. Trong luận văn,
tác giả sẽ chú ý nhiều đến hai phương diện này khi bàn về phát triển nguồn
nhân lực của Quảng Nam.
Thứ hai, về chiến lược, con đường và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
được thể hiện trong những công trình tiêu biểu sau:“Giáo dục - đào tạo với

phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế của đất
nước” (Hà Minh, Tạp chí phát triển nhân lực, số (1) - 2007); “Hiện đại hóa
giáo dục - phát triển nguồn nhân lực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế
giới” (Vũ Thị Mai Oanh, Tạp chí Phát triển nhân lực, số (1) - 2007); “Đội ngũ
khoa học và công nghệ - thực trạng, chính sách và kiến nghị” (GS.VS. Nguyễn
Duy Quý, Tạp chí Phát triển nhân lực, số (3) - 2007); “Mấy suy nghĩ về vấn đề
trọng dụng nhân tài ở nước ta hiện nay” (TS. Phạm Công Nhất, Tạp chí Phát
triển nhân lực, số (3) - 2007); “Đào tạo, bồi dưỡng và tái bồi dưỡng cán bộ,
công chức là một công cụ phát triển nhân lực” (Nguyễn Thanh Bình, Tạp chí
Phát triển nhân lực, số (6) - 2008; “Khai thác và phát triển tài nguyên nhân
lực Việt Nam” của Bộ kế hoạch và đầu tư, trung tâm thông tin và dự báo kinh
tế - xã hội quốc gia, PGS.TS.Nguyễn Văn Phúc, Th.S Mai Thị Thu đồng chủ
biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012); “Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá về hội nhập quốc tế” tại Hội thảo
khoa học - thực tiễn đăng trên Tạp chí Cộng sản số (9) 2012) và những công
trình khác.
Trong các công trình nói trên, các tác giả đều đánh giá cao vai trò của
nguồn nhân lực đối với sự phát triển của đất nước; đồng thời khẳng định vai
trò quyết định của giáo dục - đào tạo đối với sự nghiệp phát triển nguồn nhân
lực. Nhiều công trình đã đề xuất các giải pháp kinh tế, chính sách, giáo dục,
văn hoá để phát triển nguồn nhân lực.


7

Thứ ba, vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở cấp v ng, tỉnh, thành phố đã có một số công trình khoa học
và luận án nghiên cứu như: “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông
Cửu Long đến năm 2010” (Nguyễn Đình Luận, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ

năm 2005); “Giải pháp phát triển lực lượng lao động ngành công nghiệp của
thành phố Hồ Chí Minh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (Đặng
Ngọc T ng, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2004); “Phát triển nguồn nhân
lực vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020” (B i Thị Thanh, luận án
tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2005); “Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tây Nguyên” (Lê Văn Thanh, luận án tiến sĩ
triết học, bảo vệ năm 2007); “Đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (Nguyễn Văn Sỹ, tạp
chí cộng sản số (10) 2011 ); “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở thành phố Đà Nẵng” của TS. Dương Anh Hoàng (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012); và các công trình khác. Các luận án nói
trên đã đi sâu phân tích đặc điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn
v ng (hoặc tỉnh, thành); làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở các địa phương;
và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các địa phương đó.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
về vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển ở Quảng Nam một
cách toàn diện. Vì vậy, luận văn này sẽ kế thừa và vận dụng sáng tạo những
thành tựu của các công trình khoa học đã công bố để làm sáng tỏ đặc điểm
phát triển c ng thực trạng phát triển nguồn nhân lực của Quảng Nam. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng để góp phần thúc đẩy
sự phát triển nguồn nhân lực ở Quảng Nam.


8

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ
1.1.1. Các quan điểm trước Mác về bản chất con người

Con người luôn là chủ đề trung tâm, muôn thuở của mọi thời đại. Từ thời
cổ đại, các trường phái triết học đã tìm cách lý giải bản chất con người, mối
quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh. Các trường phái triết học
Phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất con người trên cơ
sở thế giới quan duy tâm thần bí hoặc nhị nguyên luận. Kinh Brahman,
Upanshad cho r ng: con người bao gồm thể xác và linh hồn. Khi nhận thức
được Brahman, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát
được linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể xác và mọi khổ não của đời sống trần
tục. Linh hồn con người (Atman) chỉ là biểu hiện, là một bộ phận của “tinh
thần tối cao”. Thể xác chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn.
Về bản chất, linh hồn con người là đồng nhất với “linh hồn tối cao”, cũng như
vạn vật trong vũ trụ chỉ là biểu hiện của Brahman.
Khổng Tử cho r ng: con người là kết quả của âm dương trời đất tương
khắc mà thành. Vì vậy con người phải tuân theo ý trời, hợp với đạo trung hòa.
Con người sống hay chết, giàu hay nghèo, thành hay bại... đều do “thiên
mệnh” quy định.
Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa thể xác và linh
hồn (vật chất và tinh thần), hai phần này tồn tại độc lập với nhau. Đời sống
con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy cuộc đời con người khi
còn sống chỉ là “tầm gửi”, tạm bợ. Cuộc sống vĩnh h ng là phải hướng tới cõi
Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Các học thuyết triết học tôn giáo phương Đông đều phản ánh sai lầm về
bản chất con người, hướng con người tới thế giới thần linh.


9

Đối với chủ nghĩa duy vật tầm thường thì họ cho r ng con người là sản
phẩm tự nhiên, nhưng họ lại tách rời con người với xã hội. Con người chỉ là
con người trừu tượng, con người không phụ thuộc vào thời đại, giai cấp nào

của bất kỳ một giai đoạn lịch sử nhất định.
Với Phoiơbắc - nhà triết học cổ điển Đức cho r ng, con người sản phẩm
tự nhiên, là “cái gương của vũ trụ”, thông qua đó con người nhận thức được
chính bản thân mình. Bản chất con người là tổng thể khả năng, nhu cầu, ham
muốn cũng như năng lực tưởng tượng của mình. Những điều kiện bên ngoài
như môi trường, hoàn cảnh tác động lớn đến ý thức và tư duy của con người.
Qua đó, ta thấy hạt nhân hợp lý trong quan niệm con người của ông là: khẳng
định con người, xã hội loài người là sản phẩm, là một bộ phận của giới tự
nhiên và năng lực của cá nhân con người trong môi trường tự nhiên đó. Tuy
nhiên, ông đã không nhận ra bản chất xã hội của loài người, không hiểu được
vai trò thực tiễn của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Với Hêghen lấy “tinh thần thế giới” làm cơ sở để giải thích các vấn đề của
tự nhiên - xã hội. Theo ông con người cũng như các sự vật xung quanh ta đều
là hiện thân của “tinh thần tuyệt đối”, là kết quả của sự tha hóa “tinh thần tuyệt
đối” mà có. Hêghen cho r ng: tư duy và trí tuệ của con người chỉ có thể hình
thành và phát triển để đạt được đến “tuyệt đối” trong quá trình nhận thức và cải
tạo thế giới để biến tự nhiên từ cái đối lập với con người trở thành cái của mình
và đồng nhất với mình.
Đối với các nhà triết học tư sản hiện đại, quan niệm về bản chất con
người được coi như là một “thực thể”, “thực tồn”; con người sinh ra từ tự
nhiên, mang bản chất tự nhiên, con người là con người tự nhiên. Khi nói tới
cái nhân bản, các nhà triết học tư sản hiện đại đặc biệt quan tâm đến yếu tố
bẩm sinh, di truyền, bản năng sinh học. Họ xem con người chỉ như một cấu


10

trúc vật lý thuần tuý nghĩa là giống cấu trúc của vật. Và tồn tại xã hội chỉ là
tồn tại của chính bản thân m i cấu trúc riêng biệt đó.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con

người
Tiếp thu có chọn lọc hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hêghen,
Phoiơbắc về vấn đề con người và bản chất con người, với thế giới quan và
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - LêNin khám phá ra chìa khoá
tạo ra đột phá trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông xuất phát từ
con người hiện thực, con người cải tạo thế giới và thông qua hoạt động vật
chất của con người để xem xét bản chất con người. Bản chất con người được
các ông đặt trong mối quan hệ của cấu trúc gồm ba mặt; tự nhiên, xã hội, con
người và các cặp quan hệ con người - tự nhiên, con người - xã hội. Đây chính
là một chỉnh thể hợp thành thế giới của con người, mà ở đó con người là trung
tâm, vừa là điểm xuất phát, khâu trung gian nhưng cũng là mục đích cuối
cùng.
Ph.Ăngghen đã chỉ ra bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ ở
việc chế tạo ra công cụ lao động. Những công cụ này, nối dài bàn tay con
người, giúp con người thường xuyên làm biến đổi những điều kiện tồn tại của
mình, cải tạo chúng cho ph hợp với những yêu cầu cần thay đổi, phát triển
của mình, làm giàu thêm những vật phẩm từ tự nhiên. Quá trình cải tạo tự
nhiên cũng là quá trình con vượn trở thành con người.
Xã hội không thể ra đời sớm hơn con người mà đã xuất hiện c ng với
con người, từ khi con người bắt đầu sử dụng công cụ lao động. C.Mác đã
đánh giá rất cao vai trò của xã hội, ông nói: xã hội đã sản xuất ra con người.
Nhưng xã hội không phải là cái gì trừu tượng, bất biến mà ngược lại, con
người và công cụ lao động (lực lượng sản xuất) là nhân tố quyết định sự thay
thế của các phương thức sản xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất


11

định. Nghĩa là, xã hội đã sản xuất ra con người như thế nào thì con người
cũng sản xuất ra xã hội như thế ấy.

Khi nói về bản chất của con người chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:
Con người là một thực thể sinh học - xã hội. Hai mặt tự nhiên và xã hội trong
con người gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời, không có cái xã hội
thuần tuý cũng như không có cái sinh học đơn thuần trong m i con người.
Con người vừa là sản phẩm của giới tự nhiên, mặt khác còn là một thực thể xã
hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự nhiên.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối
quan hệ xã hội. C.Mác đã nêu luận đề nổi tiếng này trong Luận cương về
Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội”. Theo C.Mác, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện hoàn cảnh của lịch sử - xã hội. Con người luôn cụ thể xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định, một thời đại xác định.
Trong điều kiện lịch sử đó, b ng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo
ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực, tư
duy và trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai
cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã
hội …) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Đây là cơ sở
phân biệt sự khác nhau giữa con người và động vật, và là điểm khắc phục sự
thiếu sót của các nhà triết học trước Mác khi không thấy bản chất xã hội của
con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có thế giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người
là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Song điều
quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. C.Mác


12

đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho r ng con người là sản

phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục…Cái học thuyết ấy cho r ng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng phải
được giáo dục” [23, tr.11]. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen cũng cho r ng: Thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần
của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải
do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch
sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn
của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp
của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt
động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời
thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến
giới tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử của mình, con người là sản phẩm
của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử ấy.
Bản chất con người không là cái bẩm sinh, cũng không là cái chỉ sinh ra
một lần là xong, mà nó là một quá trình được trải qua hoạt động thực tiễn. Đó
là quá trình con người không ngừng hoàn thiện khả năng tồn tại của mình.
Hơn một trăm năm trước, khi khẳng định tiến trình phát triển của lịch
sử xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Mác đã nói đến việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo
chung cho sự phát triển xã hội. C.Mác cho r ng: Sự phát triển của lực lượng
sản xuất bao gồm con người và công cụ lao động do con người tạo ra tự nó đã
nói lên trình độ phát triển của xã hội thông qua chiếm lĩnh và sử dụng ngày
càng nhiều tài nguyên tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động
sống của con người. Đây cũng là xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch
sử. Chúng ta biết r ng, sản xuất là quá trình hoạt động thực tiễn cơ bản của


13


con người nh m thoả mãn những nhu cầu của mình. Sản xuất quyết định nhu
cầu, nhưng không có nhu cầu thì cũng không có sản xuất. Nhu cầu con người
tăng lên không ngừng, đòi hỏi con người phải phát triển sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và giảm nhẹ lao động; đồng thời bộ óc (trí
tuệ) và bàn tay con người không ngừng hoàn thiện. Sự phát triển của trí tuệ
con người đã được thể hiện b ng việc truyền đạt, tiếp thu, lưu trữ những tri
thức lý luận và kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự xuất hiện của
lửa, công cụ thủ công, đến công cụ b ng kim loại, cơ khí máy móc, công nghệ
trí tuệ… đã và đang diễn ra trong lịch sử là minh chứng cụ thể nhất cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất mà đặc biệt là con người.
C.Mác đã khẳng định: sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trước
hết có ý nghĩa là “Sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi như
một mục đích tự thân”, nghĩa là mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là
phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải
phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hoá để con
người sống với cuộc sống đích thực của mình. Thực tế trong thời đại ngày
nay, chỉ có con người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã
hội mới là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công
hay thất bại. Sự phát triển từng bước của xã hội ngày nay đang tiếp tục khẳng
định ý nghĩa do con người, phục thuộc vào con người và vì con người.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC
Trong bối cảnh mới mà thời đại đang mở ra, với những xu hướng phát
triển là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự hình thành nền kinh tế chủ yếu
dựa trên nền kinh tế tri thức, hình thái phân công lao động quốc tế mới, vai trò
của các nguồn lực... Để đảm bảo cho quá trình phát triển ổn định, tăng trưởng


14


và bền vững, đòi hỏi ngoài môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi
trường chính trị - xã hội ổn định, phải có tổng thể các nguồn lực: nguồn lực
con người, nguồn vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, cơ sở vật
chất kỹ thuật, công nghệ và nguồn lực ngoài nước...Trong các nguồn lực kể
trên yếu tố quyết định cho sự thành công của quá trình phát triển là nguồn
nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người. Thực tiễn, trong sự nghiệp cách
mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chiến lược phát triển con
người Việt Nam về mọi mặt. Từ Đại hội VI, tư duy về các vấn đề phát triển
của Đảng đã có những khâu đột phá quan trọng. C ng với đổi mới về kinh tế,
chính trị, Đảng ta đã nhận thức đúng về vai trò của nhân tố con người, đặt con
người ở vị trí trung tâm trong sự phát triển xã hội. Đường lối, chính sách phát
triển của Đảng đã khẳng định nguồn lực con người là quý báu nhất, là yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thực tiễn và kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tính đúng đắn
của việc phát huy nguồn nhân lực trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Một
quốc gia không giàu về tài nguyên thiên nhiên (Nhật Bản) nhưng có thể trở
thành một cường quốc kinh tế, phát triển cao về công nghiệp nếu có nguồn
nhân lực dồi dào và chất lượng cao c ng với tình hợp lý hiệu quả trong sử
dụng. Bên cạnh đó có một số nước đã thành công và trở thành những nước có
nền công nghiệp mới như: Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Đài Loan... Những
nước này đã coi phát triển nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu trong mọi quá
trình phát triển kinh tế- xã hội, đầu tư cho nguồn lực con người là đầu tư đem
lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Việt Nam là một nước kinh tế chậm phát triển, vì vậy sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay không t y thuộc vào việc chúng ta có
phát triển tốt nguồn nhân lực hay không. Vậy nguồn nhân lực được hiểu như
thế nào?


15


1.2.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực không phải chỉ là số lượng người lao động đã và sẽ có,
mà ở đây bao hàm tổng thể những năng lực lao động (thể lực, trí tuệ, kỹ năng,
thái độ, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm,…) của những người lao
động đó.
Theo giáo trình kinh tế lao động thì nguồn nhân lực được hiểu là nguồn
lực con người, đây là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài nguyên,
nguồn lực tài chính, công nghệ…) thể hiện ở ch trong quá trình vận động,
nguồn nhân lực bị tác động của nhiều yếu tố như tỷ lệ sinh, tử; việc làm, môi
trường, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội…Chính vì vậy, nguồn nhân lực đã
được các nhà nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nguồn nhân lực được
hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho
phát triển. Mặt khác, nguồn nhân lực còn được hiểu như một yếu tố tham gia
trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, là tổng thể những con người
cụ thể tham gia vào quá trình lao động; tức là bao gồm những người có khả
năng lao động, là một bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong nguồn nhân
lực.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là
nguồn lực chủ yếu tạo ra động lực cho sự phát triển. Vì vậy, để đảm bảo tốc
độ tăng trưởng kinh tế - xã hội, thì việc cung ứng đầy đủ, kịp thời số lượng,
chất lượng là hết sức cần thiết. Bất cứ hiện tượng thiếu hụt, dư thừa sức lao
động đều là nhân tố gây ra những khó khăn cho sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp
tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngược lại trình độ của nền kinh tế sẽ quy định
quy mô, chất lượng của nguồn nhân lực.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), nguồn nhân lực là toàn bộ những
người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực, theo



16

nghĩa rộng, là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp
nguồn lực con người cho sự phát triển. Tức là, nguồn nhân lực bao gồm toàn
bộ dân cư có thể phát triển bình thường, theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là
khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia quá
trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực của họ được
huy động vào quá trình lao động.
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân
và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể
nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham
gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó”
[19, tr.17].
Theo T.S Dương Anh Hoàng: “Nguồn nhân lực (nguồn lực con người) là
tổng hợp những phẩm chất, năng lực và sức mạnh của lực lượng người đang
và sẽ tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đó trước hết là những người lao động có sức khoẻ, trí tuệ, đạo đức, trình độ
chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm, quyết tâm phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công b ng, văn minh”. [20, tr.24].
Trong thực tế cũng có quan niệm cho r ng: Nếu đánh giá nguồn nhân lực
ở dạng tiềm năng bao gồm: số người trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi
lao động có thể tham gia lao động (khi có nhu cầu); nếu đánh giá ở dạng thực
tế thì nguồn nhân lực là số người trong độ tuổi lao động theo quy định có khả
năng lao động (có sức khoẻ và được đào tạo nghề). Như vậy, cấu thành của
nguồn nhân lực dạng thực tế là: số người từ 16-60 tuổi đối với nam và từ 1655 tuổi đối với nữ, trong đó giới tinh hoa, lực lượng phát minh sáng chế
(nguồn nhân lực chất lượng cao) làm bộ phận quan trọng nhất.


17


Phát huy những thành tựu của những nhà khoa học đi trước đồng thời
điều tra thực tế việc đào tạo và sử dụng lực lượng lao động trong những năm
qua cũng như những nhận định của các hội thảo khoa học thực tiễn gần đây,
chúng ta có thể khẳng định r ng: nghiên cứu về nguồn nhân lực cần đánh giá,
xem xét ở hai phương diện. Đó là: Số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực là: tổng số lực lượng lao động đang và sẵn
sàng tham gia vào quá trình sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng lao
động được quy định bởi quy mô dân số (số lượng dân, mật độ dân số, tốc độ
tăng dân số) và lực lượng lao động (cơ cấu giới tính, tuổi tác, sự phân bố lao
động theo ngành nghề, theo v ng, lãnh thổ). Số lượng dân số thường chịu tác
động của hai nhóm yếu tố tự nhiên và xã hội.
Một là, nhóm yếu tố tự nhiên, đó là cơ chế sinh học của cơ thể, nhu cầu
và quy luật sinh học của con người. Các yếu tố này sẽ tác động đến tỷ lệ sinh
đẻ và tử vong của dân số, quyết định sự tăng (giảm) dân số và lực lượng lao
động một cách tự nhiên.
Hai là, nhóm yếu tố xã hội, là vấn đề di dân làm tăng (giảm) dân số và
lực lượng lao động trong một không gian và thời gian nhất định. Thực tế,
trong những năm qua, ở nước ta, do tác động của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa c ng các chính sách thu hút lao động của các thành phố lớn đã tạo nên sự
biến đổi lớn giữa dân số, lao động ở nông thôn và thành thị, tỉnh lẻ và các
thành phố lớn. Mặt khác, các cơ chế chính sách dân số, vấn đế kế hoạch hóa
gia đình, hay phong tục tập quán của một số v ng dân tộc thiểu số ở nước ta
cũng tác động đến số lượng dân số.
Chất lượng nguồn nhân lực: Là tổng hợp những phẩm chất và sức mạnh
của người lao động đang và sẵn sàng thể hiện chúng trong thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội nó bao gồm những yếu tố như: Thể lực, trí lực, đạo đức, kỹ
năng và thẩm mỹ… của người lao động. Các yếu tố này tác động gắn bó mật



18

thiết với nhau tạo nên sự phát triển toàn diện của nguồn nhân lực. Trong đó,
m i yếu tố có vị trí, vai trò, tác dụng khác nhau trong việc tạo nên chất lượng
nguồn nhân lực.
Theo GS. Đặng Hữu xác định thì có 6 nhân tố cấu thành chất lượng
nguồn nhân lực bao gồm: 1) Trí lực; 2) Thể lực; 3) Hiểu biết xã hội, lối sống;
4) Năng lực chuyên môn nghiệp vụ; 5) Trình độ văn hoá, học vấn và 6) khả
năng thích ứng, phát triển (xem Đặng Hữu: Kinh tế tri thức và phát triển giáo
dục đại học trong xã hội hiện đại. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế” do Tạp chí Cộng Sản và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tổ
chức tháng 8-2012).
Theo đó, “trí lực” (trí tuệ) là yếu tố cơ bản, quan trọng và là tiêu chí chủ
yếu thể hiện chất lượng nguồn nhân lực. Trí lực là năng lực nhận thức, năng
lực tư duy sáng tạo và thích ứng với hoàn cảnh của con người.
C ng với “trí lực” yếu tố đạo đức, nhân cách là thành phần không thể
thiếu khi nói đến chất lượng nguồn nhân lực. Hồ Chí Minh coi trọng cả đức
và tài và coi đó là hai mặt trong nhân cách của con người phát triển toàn diện.
Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì d tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [28, tr.252-253].
Bên cạnh đó, yếu tố thẩm mỹ cũng ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
nhân lực. Bởi vì, theo C.Mác và Ph.Ăng ghen thì “Sự phát triển thẩm mỹ
đúng đắn sẽ có tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở trình độ cao
hơn, đặc biệt nó có giá trị định hướng cho các hoạt động trí tuệ, cho việc sử
dụng các thành tựu của trí tuệ, của khoa học vào mục đích nhân văn, tiến bộ
xã hội vì cuộc sống hạnh phúc của con người” [24, tr.54].



19

Khi nói đến chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta không thể không xem
xét các yếu tố tác động, ảnh hưởng như: tỷ lệ sinh, yếu tố sức khỏe, yếu tố
giáo dục – đào tạo; giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc…
Vậy bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển chính là việc phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng cả về số lượng và chất lượng.
1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển của các hình thái
kinh tế nối tiếp nhau. Loài người chúng ta đã và đang trải qua 5 hình thái kinh
tế. M i hình thái kinh tế gắn liền với một phương thức sản xuất và vai trò
quyết định của nhân tố con người. Trong nền kinh tế săn bắn và hái lượm,
kinh tế nông nghiệp, thủ công hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên nên
vấn đề phát triển nguồn nhân lực không đựơc xem là quan trọng. Trong nền
kinh tế tri thức, nhất là trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững vấn đề
phát triển nguồn nhân lực được đặt ra một cách cấp thiết và tất yếu.
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX với quan niệm mới về vai trò và giá trị
con người trong phát triển thì khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” được
hình thành như một khái niệm khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều quan điểm
khác nhau về phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể: phát triển nguồn nhân lực,
theo quan điểm coi con người là nguồn vốn thì phát triển nguồn vốn nhân lực,
tức là phát triển các yếu tố học vấn, kinh nghiệm, sức khỏe…
Theo G.S Phạm Minh Hạc đã chỉ rõ: “Phát triển nguồn nhân lực các mặt
như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực…, làm cho con người trở thành
những người lao động có những năng lực và phẩm chất mới và cao, đáp ứng
được những yêu cầu to lớn về cơ bản là tăng giá trị cho con người, trên của sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” [ 19, tr.285].
Phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển vì con người. Thực tế phát
triển không có mục đích tự thân, suy cho c ng mục đích cuối c ng của mọi



×