Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.02 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, Năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS Trần Văn Luyện

HÀ NỘI, Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Anh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ.................................................... 7
1.1. Nhận thức về tội chống người thi hành công vụ ........................................ 7
1.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với các tội phạm khác có dấu
hiệu chống người thi hành công vụ ................................................................. 16
1.3. Tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 ................................................................................................................. 18
CHƢƠNG 2. ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................. 23
2.1. Định tội danh tội chống người thi hành công vụ ..................................... 23
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ ............. 30
2.3. Đánh giá, nhận xét.................................................................................... 43
CHƢƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CHỐNG
NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ .................................................................. 49
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về
tội chống người thi hành công vụ.................................................................... 49
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về
tội chống người thi hành công vụ.................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

PLHS

: Pháp luật hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TP

: Thành phố

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước
đã đạt được những thành tựu to lớn, tình hình an ninh trật tự - an toàn xã hội
được giữ vững. Tuy nhiên, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, nhiều
vụ án xảy ra với tính chất, mức độ, hậu quả nghiêm trọng, trong đó tội phạm
chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn
mức độ. Nếu như những năm trước đây, tình hình tội phạm nói chung, tội
chống người thi hành công vụ nói riêng chỉ xảy ra ở những thành phố lớn,
tập trung đông dân cư, nhiều thành phần lao động và chỉ xảy ra ở một số lĩnh
vực nhất định thì hiện nay loại tội phạm này xảy ra ở hầu hết các địa phương,
xâm hại đến người thi hành công vụ trên nhiều lĩnh vực, gây hoang mang
trong dư luận và để lại hậu quả nghiêm trọng.
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển, nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung bộ,
thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Với tổng diện tích đất tự nhiên là

5.136,88 km2, dân số trung bình là 1,28 triệu người, chiếm 1,6% dân số của cả
nước. Quảng Ngãi có bờ biển dài khoảng 129 km, đảo Lý Sơn và các đảo
nhỏ; có 01 thành phố trực thuộc tỉnh và 13 huyện. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng
Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Đông
giáp biển Đông.
Từ năm 2012 đến năm 2016, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi xảy ra 2.840
vụ phạm pháp hình sự, trong đó tội chống người thi hành công vụ 38 vụ, chiếm
1,34%. Tuy số vụ chống người thi hành công vụ xảy ra với số lượng không
nhiều nhưng đang cho thấy loại tội phạm này ngày càng diễn ra nhiều hơn với
tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Hành vi chống người thi hành
công vụ diễn ra ngày càng nghiêm trọng, nhiều vụ ngang nhiên, công khai,
trắng trợn. Trong nhiều vụ thể hiện sụ liều lĩnh, thách thức pháp luật, sẵn sàng
giải cứu đồng bọn, chống trả lại lực lượng thi hành pháp luật để tẩu thoát.
1


Trước thực trạng trên, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tỉnh Quảng
Ngãi tăng cường áp dụng PLHS để giải quyết các vụ án chống người thi hành
công vụ giữ vững kỷ cương pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự. Bên cạnh
những mặt tích cực, việc áp dụng PLHS để giải quyết các vụ án chống người
thi hành công vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tỉnh Quảng Ngãi
vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót, nhất là trong định tội danh và quyết định
hình phạt. Nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ cũng đã có một số
công trình nghiên cứu nhưng ở phạm vi cả nước hoặc ở các vùng, miền, địa
phương khác. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tội chống người thi
hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Điều đó đòi hỏi cần phải nghiên
cứu một cách hệ thống, khách quan, toàn diện những vấn đề lý luận, quy định
của PLHS về tội chống người thi hành công vụ và thực tiễn áp dụng trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi nhằm tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả công
tác điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này cũng như nâng cao công tác

phòng ngừa loại tội phạm này.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tội chống người thi hành công
vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để làm
Luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có khá nhiều các bài viết và các
công trình nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ dưới góc độ luật
hình sự:
- Luận án tiến sĩ “Phòng ngừa tội chống người thi hành công vụ ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Ngọc Đường, năm 2016;
- Luận văn thạc sĩ “Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong luật
hình sự Việt Nam” của tác giả của tác giả Nguyễn Anh Thu, năm 2012;
- Đề tài “Tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Phan Thiết Kế;
- Bài viết “Trao đổi về bài viết Nguyễn Từ H. và đồng bọn phạm tội
2


"Cướp tài sản" hay "Chống người thi hành công vụ" của tác giả Đỗ Ngọc
Bình đăng trên Tạp chí Tòa án, Số 5/2014, tr. 37 – 39;
- Bài viết “Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người đang thi hành công vụ
hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” của tác giả Mai Bộ đăng trên Tạp chí
Tòa án, Số 12/2012, tr. 9 – 13;
- Bài viết “Bàn về trách nhiệm hình sự đối với hành vi chống người thi
hành công vụ và xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người
thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” của tác giả Mai Bộ
đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 17/2014, tr. 29 – 36;
- Bài viết “Nguyễn Từ H. và đồng bọn phạm tội "Cướp tài sản" hay
"Chống người thi hành công vụ"? của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân đăng

trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 3/2015, tr. 32 – 34;
- Bài viết “Trao đổi về bài viết: Nguyễn Từ H và đồng bọn phạm tội
"Cướp tài sản" hay "Chống người thi hành công vụ" của tác giả Nguyễn Anh
Chung đăng trên Tạp chí Tòa án, Số 10/2014, tr. 24 – 26;
- Bài viết “Thực trạng, nguyên nhân tội chống người thi hành công vụ và
các biện pháp phòng ngừa” năm 1993 của tác giả Bùi Hữu Hùng –
VKSNDTC;
- Bài viết “Bàn về hành vi chống người thi hành công vụ” của tác giả
Đinh Văn Quế;
- Bài viết “Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật
hình sự để xử lý hành vi chống người thi hành công vụ” của các tác giả Trần
Vi Dân và Đào Anh Tới đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 14/2011, tr. 36 – 39;
- Bài viết “Nguyễn Từ H. và đồng bọn phạm tội "Cướp tài sản" hay
"Chống người thi hành công vụ"? của tác giả Lê Văn Sua đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân. Tòa án, Số 17/2014, tr. 23 – 27.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về tội chống người thi hành
công vụ dưới góc độ tội phạm học và một số luận văn về tội chống người thi
3


hành công vụ nhưng nội dung nghiên cứu hoàn toàn khác. Điều đó cho phép
khẳng định rằng, đề tài này không trùng với bất kỳ công trình nghiên cứu nào
đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của BLHS về tội
chống người thi hành công vụ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi. Luận văn hướng tới việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của
PLHS về tội chống người thi hành công vụ và nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định đó trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, Luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và pháp luật về tội chống người thi hành
công vụ. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm hiểu
những quy định về chống người thi hành công vụ pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành, làm rõ các khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi
hành công vụ...
- Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường
xuyên của Công an, Toà án, Viện kiểm sát, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử
sơ thẩm hình sự từ năm 2012 đến năm 2016 của TAND các cấp trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi đối với tội phạm nói chung và tội chống người thi hành công
vụ nói riêng;
- Tìm, thu thập các bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm tội chống người
thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong khoảng thời gian từ năm
2012 đến năm 2016 và xử lý, phân tích dưới góc độ luật hình sự;
- Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan
Công an, Viện kiểm sát tỉnh và Tòa án tỉnh.
Qua đó, đưa ra yêu cầu áp dụng đúng pháp luật và giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh
4


Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề về lý luận của tội
chống người thi hành công vụ, thực trạng của tội phạm này trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi và thực tiễn áp dụng luật hình sự Việt Nam hiện hành trong việc
xử lý vụ án Chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ được
quy định tại Điều 257 BLHS Việt Nam năm 1999 (Được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự.
- Số liệu được sử dụng làm chất liệu để nghiên cứu đề tài là số liệu
thống kê các vụ án chống người thi hành công vụ đã được xét xử sơ thẩm ở
các TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
- Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp hệ
thống, thống kê, so sánh, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo
để rút ra được những kết luận có tính lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống và tương đối toàn diện
về tội chống người thi hành công vụ theo PLHS Việt Nam. Do vậy, kết quả
5


nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, làm phong phú thêm lý luận
chuyên ngành luật hình sự về một tội danh cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đổi bổ sung
hoàn thiện các quy định của PLHS về tội chống người thi hành công vụ cũng
như nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

nói riêng và phạm vi cả nước nói chung.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu ở các
cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hình sự.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội chống người thi
hành công vụ
Chương 2: Áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội
chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG
NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Nhận thức về tội chống ngƣời thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ
Hoạt động quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý hành chính nói
riêng của cơ quan Nhà nước, các tổ chức được thực hiện thông qua hoạt động
của các nhân viên của các cơ quan, tổ chức đó. Người thi hành công vụ bao
gồm các nhân viên của các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức đang thi hành
nhiệm vụ được các cơ quan, tổ chức giao cho hoặc theo quy định của pháp
luật vì lợi ích chung. Hành vi chống người thi hành công vụ trực tiếp xâm
phạm hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức, làm
giảm hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó.
Để làm sáng tỏ khái niệm tội chống người thi hành công vụ, trước hết

cần làm rõ một số khái niệm có liên quan như “Công vụ”, “Người thi hành
công vụ”, “Chống người thi hành công vụ”.
* Đầu tiên là khái niệm về công vụ:
Công vụ là một khái niệm rộng về phạm vi và quan trọng về ý nghĩa
trong nền hành chính nhà nước. Nói đến công vụ là nói đến hoạt động của nhà
nước, với nhiều yếu tố hợp thành như thể chế công vụ, đội ngũ công chức, các
cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước... Một số giáo trình hoặc tài liệu ở Việt
Nam hiện nay quan niệm công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực
và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính
sách của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã
hội hoặc coi công vụ là một dạng của lao động xã hội chủ yếu do các công
chức thực hiện. Hoạt động công vụ được điều chỉnh bởi ý chí nhà nước nhằm
thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và
gắn với quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước. Ở một số nước trên thế giới
7


cũng có nhiều quan niệm khác nhau về công vụ. Cộng hòa Pháp quan niệm
khi nói về công vụ: “Toàn bộ những người được Nhà nước hoặc cộng đồng
lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong một công sở hay
một công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được thực thụ vào một trong các
ngạch của nền hành chính công" [47]. Theo đó, từ điển Pratique du Francais
1987 định nghĩa: "Công vụ là công việc của công chức" [47]. Các nhà nghiên
cứu của đại học Michigan- Hoa kỳ quan niệm về công vụ là "một khái niệm
chung miêu tả về các nhân viên do Chính phủ tuyển dụng, những người cấu
thành nên công vụ theo chức nghiệp. Các công chức được tuyển dụng trên cơ
sở thực tài (công tích), được đánh giá định kỳ theo kết quả thực thi công tác
của mình, được nâng bậc căn cứ theo tính điểm hiệu quả và được bảo đảm về
công việc" [47].
Nghiên cứu các quan niệm về công vụ nêu trên, có thể thấy ở Việt Nam

và một số nước trên thế giới từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu vẫn thường
quan niệm công vụ như một hoạt động do công chức thực hiện nhân danh
quyền lực nhà nước. Có một giai đoạn khá dài, chúng ta vẫn thường nhắc đến
nhà nước đơn thuần với chức năng quản lý trên cơ sở quyền lực - quyền uy,
mệnh lệnh - phục tùng. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, vai trò, chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước đã có nhiều thay đổi, theo hướng phục vụ nhân
dân, trong đó có nhiệm vụ cung ứng các dịch vụ công phục vụ cho nhân dân.
Do vai trò và tác dụng ngày càng lớn của các dịch vụ công đối với sự phát
triển giàu mạnh, văn minh, hiện đại của từng quốc gia, cho nên các nhà nước
ngày càng quan tâm hơn tới việc phát triển các dịch vụ công (trong cả khu
vực công lập và khu vực ngoài công lập). Với cách nhìn và tư duy như vậy về
sự thay đổi vai trò và chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, cần phải quan niệm
công vụ với một khái niệm "mở hơn", không nên coi công vụ đơn thuần chỉ là
các hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước mà còn bao hàm cả các hoạt
động khác khi được nhà nước uỷ quyền, đảm nhận và thực hiện các nhiệm vụ,
chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
8


Trên thực tế chưa có cách hiểu thống nhất chung về công vụ nên theo ý
kiến của tác giả thì công vụ được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:
-

Theo nghĩa rộng: Công vụ thuộc khu vực công tương ứng với “Hệ

thống chính trị”, chủ thể trực tiếp hoạt động công vụ là cán bộ, công chức,
viên chức của cả hệ thống này trong thực thi chức năng, nhiệm vụ được cấp
có thẩm quyền quy định.
-


Theo nghĩa hẹp: Công vụ thuộc khu vực của “Nhà nước” tương ứng

với chủ thể công vụ là các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước và cán
bộ, công chức là chủ thể trực tiếp hoạt động công vụ trong các cơ quan nhà
nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) thực thi chức năng, nhiệm vụ công do
cấp có thẩm quyền quy định.
Theo nghĩa hẹp hơn, công vụ được giới hạn trong hoạt động hành pháp
của cán bộ, công chức thuộc khu vực hành chính nhà nước.
Thực chất, khái niệm công vụ nêu trên được thể hiện qua các tiêu chí:
-

Đối tượng công vụ là công việc hay nhiệm vụ thuộc khu vực công,

trong đó nhà nước chịu trách nhiệm đảm nhiệm trước xã hội.
-

Chủ thể công vụ là các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công

chức nhân danh nhà nước thực thi công vụ theo quy định của pháp luật.
-

Hoạt động công vụ do nhà nước đảm bảo ngân sách và các nguồn lực

khác nhằm phục vụ lợi ích chung của nhân dân, cộng đồng, xã hội.
Tiếp cận khái niệm về hoạt động công vụ. chúng ta có thể hiểu đó là hoạt
động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước để thực hiện nhiệm vụ, chức
năng của nhà nước, phục vụ xã hội, công dân, nhà nước.
Trong mỗi một nhà nước khác nhau, tất nhiên bản chất khác nhau nên
hoạt động công vụ của nhà nước đó được thực hiện theo những nguyên tắc
khác nhau. Thậm chí trong cùng một nhà nước, ở những giai đoạn khác

nhau, các hoạt động công vụ cũng được thực hiện theo những nguyên tắc
khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào trước hết bản chất của nhà nước đó, phụ
thuộc vào các điều kiện của sự phát triển kinh tế - xã hội, các yếu tố quốc
9


tế, thậm chí cả sự ảnh hưởng của các yếu tố có tính truyền thống như: lịch
sử dân tộc, đặc điểm về văn hóa, tâm lý dân tộc, tập quán, phong tục, tôn
giáo của xã hội đó.
Để hoạt động công vụ nhà nước được thực hiện một cách đúng đắn, nó
cần tuân theo các nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc của hoạt động công
vụ nhà nước được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, những nguyên lý xuyên
suốt toàn bộ quá trình của hoạt động công vụ nhà nước, chi phối hoạt động
công vụ nhà nước. Những nguyên tắc này vừa có tính khách quan, vừa có tính
chủ quan. Các nguyên tắc của hoạt động công vụ nhà nước mang tính khách
quan, vì nó bắt nguồn hiện thực khách quan, phản ánh hiện thực khách quan,
nó thể hiện vị trí, vai trò của các quy luật khách quan đối với hoạt động công
vụ nhà nước. Tính chủ quan của các nguyên tắc thể hiện ở chỗ chúng được
phản ánh thông qua nhận thức chủ quan của con người, bằng việc phân tích
đặc điểm, bản chất quy luật vận động, các nhân tố chủ quan và khách quan tác
động tới hoạt động công vụ nhà nước và sự giải thích khoa học đối với các
quy luật khách quan của hoạt động công vụ nhà nước. Ở góc độ này, các
nguyên tắc hoạt động công vụ nhà nước như là tri thức khoa học của con
người, do vậy nó mang tính chủ quan.
Hoạt động công vụ nhà nước ở nước ta được thực hiện trên cơ sở bản
chất của Nhà nước, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định về hoạt động công
10


vụ của cán bộ, công chức, theo đó thì hoạt động công vụ “là việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và
các quy định khác có liên quan”. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động
công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền
hạn được giao.
Từ những phân tích trên, tác giả rút ra khái niệm: Hoạt động công vụ là
việc thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước, gắn với quyền lực nhà
nước, nhân danh nhà nước và được điều chỉnh bởi ý chí nhà nước nhằm phục
vụ lợi ích của nhân dân và xã hội do những người có thẩm quyền thực hiện
theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
* Khái niệm về người thi hành công vụ:
Khái niệm về người thi hành công vụ được quy định tại một số văn bản
pháp luật, cụ thể:
Tại khoản 1, Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009
quy định “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển
dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện
nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt
động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”.
Nghị định số 208/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về các biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công
vụ, tại khoản 1, Điều 3 đã giải thích về người thi hành công vụ như sau:

“Người thi hành công vụ là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan, hạ sĩ
quan, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân
dân và xã hội” [13].
Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29 tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao quy định về khái niệm người thi hành công vụ, theo đó
11


thì: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình và
cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra,
canh gác, bảo vệ…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi
ích chung của nhà nước, của xã hội” [24].
Theo chúng tôi để xác định như thế nào là người thi hành công vụ thì
phải xét ở ba khía cạnh sau:
Về địa vị pháp lý: Người thi hành công vụ phải là cán bộ, công chức,
viên chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội hoặc cũng có thể là
một công dân bất kỳ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ.
Về phạm vi thực hiện nhiệm vụ: Một người chỉ có thể coi là thi hành
công vụ khi công việc mà họ làm là do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
các tổ chức giao cho, nhằm phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội.
Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp,
mọi thủ tục, trình tự thi hành nhiệm vụ phải bảo đảm đúng pháp luật.
Về quá trình thực hiện nhiệm vụ: Người được coi là đang thi hành
công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc nhiệm vụ
đó. Nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm phạm thì
không thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ, mà tùy trường

hợp cụ thể để xác định một tội phạm khác có tình tiết vì lý do công vụ của
nạn nhân. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp những đối tượng sai phạm
không có hành động, lời lẽ, thái độ chống đối lực lượng đang thi hành công
vụ, nhưng sau khi những người công vụ kết thúc nhiệm vụ hoặc trở về với
cuộc sống thường ngày thì những đối tượng này lại có những hành vi xâm hại
đến họ. Những hành vi đó cần phải xử lý nghiêm minh, bởi suy cho cùng
đó là sự gián tiếp thể hiện thái độ phản kháng, tư thù đối với người thi hành
công vụ.
Đồng thời chúng ta cũng phải xác định rằng, nếu người đang thi hành
12


công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ một cách trái pháp luật mà bị cản trở, xâm
phạm thì người cản trở, xâm phạm không bị truy cứu TNHS về tội chống
người thi hành công vụ.
* Khái niệm về chống người thi hành công vụ:
Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi xâm phạm đến hoạt
động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm giảm hiệu lực quản lý của
các cơ quan, tổ chức đó và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của chính những người thi hành công vụ.
Tại khoản 2, Điều 3 Nghị định số 208/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã
giải thích như sau:
“Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành
công vụ hoặc có hành vi khắc nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện
nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện
nhiệm vụ được giao” [13].
Theo quy định tại Điều 257 BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) thì hành vi chống người thi hành công vụ là “dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực

hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật”.
Từ những cơ sở phân tích nêu trên, căn cứ vào Điều 8, Điều 257 BLHS,
chúng ta có thể rút ra khái niệm về tội chống người thi hành công vụ: “Tội
chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ
hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, được quy định trong BLHS, do
người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp
xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm tội chống
người thi hành công vụ
Xét về mặt cấu trúc, tội chống người thi hành công vụ cũng như những
13


tội phạm khác, được hợp thành bởi bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan,
mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm. Mỗi yêu tố đều có dấu hiệu pháp lý
đặc trưng.
- Trước tiên là khách thể của tội chống người thi hành công vụ: Khách
thể của tội phạm chống người thi hành công vụ là hoạt động quản lý xã hội
nói chung, hoạt động quản lý hành chính nói riêng của các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức được thực hiện thông qua hoạt động của các nhân viên các cơ
quan, tổ chức đó.
Hành vi chống người thi hành công vụ trực tiếp xâm phạm hoạt động
bình thường, đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, làm giảm
hiệu lực quản lý của các cơ quan, tổ chức đó. Tội phạm này được quy định
nhằm phòng, chống các hành vi chống người thi hành công vụ, giữ gìn trật tự
công cộng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe của người đang thi hành công vụ [29, tr.700].
Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ.
Người thi hành công vụ là người được nhà nước hoặc xã hội giao cho những

nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong quản lý lĩnh vực hành chính Nhà nước
nhất định (cán bộ thuế vụ, cảnh sát giao thông, bộ đội biên phòng...).
Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp
pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người
thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi
của người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành
công vụ.
- Thứ hai là mặt khách quan: Mặt khách quan của tội phạm chống người
thi hành công vụ thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các
thủ đoạn khác cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện những hành vi trái
pháp luật hoặc không cho họ thực thi chức trách, nhiệm vụ của mình. Dùng
vũ lực được hiểu là sự tác động bằng sức mạnh vật chất lên thân thể người
đang thi hành công vụ như trói, đấm, đá gây thương tích nhẹ, bắt nhốt, không
14


cho người đó thực thi nhiệm vụ của mình.
Đe dọa dùng vũ lực là dọa sẽ dùng sức mạnh vật chất để chống lại nếu
người thi hành công vụ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình. Hành vi đe dọa
dùng vũ lực phải mang tính chất hiện thực tức là phải có cơ sở để người thi
hành công vụ tin rằng nó sẽ được thực hiện ngay tức khắc nếu không thực
hiện các hành vi trái pháp luật theo yêu cầu của người phạm tội.
Các thủ đoạn khác cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện hành vi
trái pháp luật có thể là đe dọa sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho
người thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe dọa gây thương
tích, hủy hoại tài sản của họ.
Để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 257 BLHS cần xác định các
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác của người phạm
tội không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 93 (Tội giết người) và Điều
104 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác)

của BLHS. Nếu hành vi chống người thi hành công vụ gây thương tích hoặc làm
chết người đang thi hành công vụ thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo điểm d, khoản 1, Điều 93 hoặc điểm k, khoản 2, Điều 104 của BLHS và
cũng có thể chịu các tội khác nếu như nó cấu thành một tội độc lập.
Hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm
chống người thi hành công vụ. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm
người phạm tội có hành vi kháng cự hay cưỡng ép người thi hành công vụ có
thực hiện hay không thực hiện các hành vi theo sự cưỡng ép của người phạm
tội không ảnh hưởng đến việc định tội danh đối với hành vi phạm tội.
- Thứ ba là mặt chủ quan: mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý
bên trong của người phạm tội với ba dấu hiệu bao gồm: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tội.
Tội chống người thi hành công vụ được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội nhận thức và biết rõ được hành vi của mình là cản trở người
thi hành công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện những hành vi trái pháp luật. Tội
15


chống người thi hành công vụ là tội phạm có cấu thành hình thức, chính vì
vậy yếu tố hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội
chống người thi hành công vụ. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm
tội bắt đầu thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các
thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ
hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm nhưng việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc quyết định hình phạt.
Mục đích phạm tội là để cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ
của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi khác trái pháp luật, làm cho người thi
hành công vụ không thể thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình.

Trong mặt chủ quan của tội chống người thi hành công vụ thì yếu tố lỗi
và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Tuy nhiên chúng ta cũng
cần phải xem xét đánh giá lỗi và mục đích phạm tội trong mối quan hệ với động
cơ phạm tội để nhận định đúng về thái độ chủ quan của người phạm tội.
- Thứ tư là chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có đủ
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có độ tuổi chịu TNHS
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều 12 của BLHS năm 1999, chủ thể
của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Theo quy định về
khung hình phạt của tội chống người thi hành công vụ thì tội chống người thi
hành công vụ có thể là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
nên chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực TNHS.
1.2. Phân biệt tội chống ngƣời thi hành công vụ với các tội phạm
khác có dấu hiệu chống ngƣời thi hành công vụ
Bên cạnh Điều 257 BLHS năm 1999 quy định về tội chống người thi
hành công vụ thì trong BLHS hiện hành còn quy định một số tội phạm khác
có yếu tố công vụ, cụ thể:
- Tội giết người nếu “giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do
16


công vụ của nạn nhân” (điểm d, khoản 1, Điều 93);
- Tội đe dọa giết người nếu “đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì
lí do công vụ của nạn nhân” (điểm b, khoản 2, Điều 103);
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nếu cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “để
cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” (điểm k,
khoản 1,2,3,4 Điều 104);
- Tội lây truyền HIV cho người khác nếu lây truyền HIV “đối với người thi
hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân” (điểm d, khoản 2, Điều 117);
- Tội cố ý truyền HIV cho người khác nếu cố ý truyền HIV “đối với

người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân” (điểm d,
khoản 2, Điều 118);
- Tội làm nhục người khác nếu làm nhục “đối với người thi hành công
vụ” (điểm d, khoản 2, Điều 121);
- Tội vu khống nếu vu khống “đối với người thi hành công vụ” (điểm đ,
khoản 2, Điều 122);
- Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nếu bắt, giữ hoặc giam “đối
với người thi hành công vụ” (điểm c, khoản 2, Điều 123);
- Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nếu hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản “vì lí do công vụ của người bị hại” (điểm đ, khoản 2, Điều 143)
Phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm của những trường hợp phạm tội
nêu trên, ta thấy mặc dù được quy định tại những điều luật khác nhau, là
những tội phạm khác nhau và xếp vào những chương khác nhau trong BLHS,
tuy nhiên những trường hợp phạm tội nêu trên đều có những đặc điểm chung,
cụ thể:
- Đối tượng bị xâm hại trong những trường hợp phạm tội này đều là
những người thi hành công vụ.
- Động cơ của những tội phạm nêu trên đều có yếu tố chống người thi
hành công vụ. Tính chống đối người thi hành công vụ của những người phạm
17


tội không chỉ thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực cản trở người
thi hành công vụ hoặc ép họ thực hiện hành vi trái pháp luật trong thời điểm mà
người thi hành công vụ đang thực hiện nhiệm vụ, mà tính chống đối còn thể
hiện ở những thời điểm trước hoặc sau khi người thi hành công vụ thực hiện
nhiệm vụ, đó là hành vi dằn mặt, trả thù vì yếu tố công vụ của nạn nhân.
Tuy nhiên, giữa tội chống người thi hành công vụ và các trường hợp
phạm tội nêu trên đều có sự khác nhau cơ bản, cụ thể:
- Xét về mặt thời điểm những người thi hành công vụ bị xâm hại thì

những trường hợp phạm tội nêu trên có thể trước, trong hoặc sau khi người thi
hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách đúng pháp luật, vì lợi
ích chung của xã hội, của nhân dân. Riêng đối với tội chống người thi hành
công vụ thì bắt buộc thời điểm xảy ra hành vi phạm tội là khi người bị hại
đang thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Xét về mặt hành vi khách quan thì những trường hợp phạm tội nêu trên
đều có dấu hiệu chống người thi hành công vụ, tuy nhiên hành vi cụ thể của
người phạm tội nếu thõa mãn các trường hợp được quy định tại điểm d, khoản
1, Điều 93; điểm b, khoản 2, Điều 103; điểm k, khoản 1,2,3,4 Điều 104; điểm
d, khoản 2, Điều 117; điểm d, khoản 2, Điều 118; điểm d, khoản 2, Điều 121;
điểm đ, khoản 2, Điều 122; điểm c, khoản 2, Điều 123; điểm đ, khoản 2, Điều
143 thì sẽ bị truy cứu TNHS theo điều luật tương ứng. Ví dụ: Trong khi Trần
Văn A đang thực thi một nhiệm vụ đúng quy định của pháp luật, thì Trần Văn
B có hành vi chống người thi hành công vụ, cụ thể B dùng chân tay đấm, đá
vào phần đầu, mặt của A làm A bị chết thì Trần Văn B sẽ bị truy cứu TNHS
về tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS
hoặc tội “Giết người” được quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 93 chứ không
bị truy cứu về tội chống người thi hành công vụ.
1.3. Tội chống ngƣời thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999
Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 257, thuộc
18


Chương XX, Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, Bộ luật hình sự
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (Được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) với nội dung như sau:
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác
cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ
thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03

năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a, Có tổ chức;
b, Phạm tội nhiều lần;
c, Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d, Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ, Tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, theo cấu thành tội phạm cơ bản ở khoản 1, Điều 257 BLHS và
những phân tích ở mục 1.1.2 thì người nào có đủ năng lực TNHS, có độ tuổi
từ 16 tuổi trở lên, có hành vi dùng vũ lực như: đánh, đá, chém, đâm…đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc dùng thủ đoạn khác như: bôi nhọ, vu khống,
dọa sẽ nêu những thông tin bất lợi cho người thi hành công vụ nhằm cản trở
người thi hành công vụ thực thi nhiệm vụ của họ hoặc ép họ thực hiện hành vi
trái pháp luật thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội chống người thi hành công vụ.
Những tình tiết tăng nặng định khung của tội chống người thi hành công
vụ được quy định tại khoản 2, Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999:
Tình tiết tăng nặng định khung là tình tiết làm thay đổi mức độ nguy
hiểm của hành vi, là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng chuyển khung
hình phạt cao hơn đối với người phạm tội, chuyển từ cấu thành cơ bản sang
cấu thành tăng nặng. Việc đề ra các tình tiết tăng nặng định khung đối với các
tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS thể hiện sự công bằng và nghiêm
minh của pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
19


Theo quy định tại Điều 257 BLHS năm 1999, Tội chống người thi hành
công vụ có 05 tình tiết định khung tăng nặng với khung hình phạt từ hai năm
đến bảy năm bao gồm:
- Phạm tội có tổ chức: Tại khoản 3, Điều 20 BLHS năm 1999 quy định:

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Nghĩa là có từ hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm (đồng phạm). Tình tiết phạm tội có tổ chức đối
với Tội chống nguời thi hành công vụ cũng có hình thức như trên. Nghĩa là
trước khi thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ các đối tượng (từ
hai người trở lên) đã có sự bàn bạc thống nhất, cấu kết, phân công vai trò cụ
thể của từng người... tạo điều kiện thực hiện tốt hơn những hành vi của mình,
cản trở triệt để việc thi hành công vụ của người đang thi hành công vụ.
- Phạm tội nhiều lần: Phạm tội nhiều lần là người phạm tội phạm từ hai
tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật, hoặc tại cùng
một khoản của điều luật tương ứng trong phần riêng của BLHS, đồng thời đối
với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội vẫn chưa
bị xét xử. Phạm tội nhiều lần đối với tội chống người thi hành công vụ cũng
được hiểu như trên, nghĩa là người phạm tội đã thực hiện hành vi chống người
thi hành công vụ từ hai lần trở lên, mỗi lần thực hiện hành vi đều thõa mãn
những dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng chưa bị xét xử.
- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội: Trong trường hợp
này người phạm tội đã có những hành vi xúi giục, kích động khiến người
khác phạm tội, những người phạm tội do thiếu hiểu biết, ý thức chấp hành
pháp luật còn kém, cũng có thể là do nóng nảy, bức xúc, do sỹ diện... nên khi
bị người khác xúi giục, kích động, lôi kéo đã nảy sinh hành vi chống lại cán
bộ và nhân viên thi hành nhiệm vụ. Sự xúi giục này được thực hiện bằng
nhiều thủ đoạn như lôi kéo, kích động, cưỡng ép, lừa dối, nghĩ ra việc phạm
tội, thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người khác nhằm
thực hiện ý định phạm tội đã có.

20



×