Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thuế và vai trò của thuế trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.65 KB, 30 trang )

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách thuế là đòn bẩy quan trọng để tăng trưởng kinh tế và có
mục đích chính là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong tình hình
nền kinh tế Việt Nam cần thiết phải tăng trưởng nhanh nhằm nâng cao đời
sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định chính trị, quốc
phòng và giảm bớt nguy cơ tụt hậu về kinh tế với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Từ năm 1987 đến nay, Việt Nam đã không ngừng toàn diện và hiện
đại hoá hệ thống thuế. Tuy nhiên, mặc dù đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung hệ
thống thuế của nước ta vẫn còn nhiều nhược điểm mà vấn đề trầm trọng nhất
hiện nay là hầu hết các luật thuế đều quá phức tạp làm cho việc quản lý thu
thuế trở nên tốn kém và thất thu thuế do các đối tượng nộp thuế tìm mọi
cách để trốn thuế. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế là cần
thiết cho việc phát triển kinh tế xã hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta.
Cũng với yêu cầu hoàn thiện chính sách thuế ở nước ta, hiện nay
đang có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này với nhiều phương hướng và
biện pháp được đặt nhằm góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá
trình lập và thực hiện các luật thuế. Không nằm ngoài mục đích đó, đề án
môn học “Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ” này cũng mong muốn đi tìm lời giải
cho yêu cầu hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam từ chính vai trò và thực
trạng hệ thống thuế hiện nay. Với đề tài “Thuế và vai trò của thuế trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, em mong rằng bài
viết này có thể giải đáp dược phần nào những yêu cầu trong quá trình tìm
hiểu vai trò và thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay. Do việc nghiên
cứu và nhận thức còn hạn chế nên đề án không thể không có những thiếu sót
vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và bạn đọc để em


có thể có nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này.
Cuối cùng, cho phép em gửi lời cảm ơn tới cô Nguyễn Thị Minh Huệ
giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề án này.

1


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

PHẦN A . LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THUẾ.
I/ Một số vấn đề cơ bản về thuế.
1. Khái niệm.
Thuế là khoản nộp bắt buộc mà các pháp nhân và thể nhân có nghĩa
vụ phải nộp cho nhà nước, phát sinh trên cơ sở văn bản pháp luật do quốc hội,
uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp.
Khi nghiên cứu về thuế cần nhận thức được các dấu hiệu của thuế:
- Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với phạm trù nhà nước và pháp luật.
- Thuế do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định.
- Thuế là nghĩa vụ thanh toán của các pháp nhân và thể nhân đối với nhà nước
không mang tính đối giá, tính hoàn trả trực tiếp,
- Về bản chất kinh tế, thuế phản ánh quan hệ phân phối của cải dưới hình thức
giá trị giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
2. Phân loại.
Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính thì thuế được chia làm thuế
trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu: Là loại thuế mà nhà nước thu thuế trực tiếp vào phần thu
nhập của người chịu thuế. Tính trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế đồng

thời là người chịu thuế.Thuộc loại thuế nàygồm các thứ thuế như thuế lợi tức,
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,…
- Thuế gián thu: Là loại thuế mà nhà nước sử dụng nhằm động viên một bộ
phận thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ thông qua việc thu thuế
đối với người sản xuất kinh doanh dịch vụ. Tính gián thu thể hiện ở chỗ người
nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất do số thuế được cộng vào giá và
là một bộ phận cấu thành của giá cả hàng hoá dịch vụ. Thuộc loại thuế này
gồm có thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
Căn cứ vào đối tượng đánh thuế:
- Thuế đánh vào thu nhập. (Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân,..)
- Thuế đánh vào tài sản. (Thuế nhà, đất,..)
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài nguyên, tài sản. (Thuế
tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, …)
3. Các yếu tố cấu thành một luật thuế.
3.1Những quy định chung.
- Đối tượng nộp thuế: Là các pháp nhân và thể nhân có nghĩa vụ phải nộp thuế
cho nhà nước theo các điều kiện được dự liệu trong luật- Đối tượng không

2


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

thuộc diện chịu thuế: là trường hợp các pháp nhân và thể nhân có các hoạt
động tương tự các điều kiện được dự liệu nhưng đạo luật quy định không
thuộc phạm vi đều chỉnh thì các hoạt động đó không thuộc diện chịu thuế theo
quy định trong luật.

- Nguyên tắc thu, nộp thuế: được quy định trong luật thể hiện một cách tổnh
quát quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn của
các cơ quan thuế.
3.2 Căn cứ tính thuế.
Trong các luật thuế đều có các quy phạm quy định thứ thuế được tính
trên căn cứ nào. Tuỳ thuộc nội dung, tính chất của từng thứ thuế mà căn cứ
tính thuế được quy định cụ thể. Các căn cứ tính thuế bao gồm các yếu tố cơ
bản là đối tượng tính thuế và thuế suất. Ngoài ra, trong một số thứ thuế, căn
cứ tính thuế còn được quy định bao gồm một số yếu tố khác như số lượng
hàng hoá, giá tính thuế.
- Đối tượng tính thuế là căn cứ quan trọng nhất để tính thuế, phản ánh nội
dung kinh tế- xã hội, nguồn gốc của bộ phận của cải được tập trung vào quỹ
ngân sách nhà nước, thể hiện tính chất độc lập của một thứ thuế trong hệ
thống thuế.
- Thuế suất là mức thuế phải thu, được xác định bằng số tương đối theo tỷ lệ
phần trăm của đối tượng tính thuế hoặc số tuyệt đối theo các bậc của đối
tượng tính thuế. Hình thức thuế suất mà mức thuế phải thu được xác định
bằng số tuyệt đối theo các bậc của đối tượng tính thuế gọi là thuế suất cố định.
Hình thức thuế suất mà mức thuế phải thu được xác định theo tỷ lệ phần trăm
của đối tượng tính thuế gọi là thuế suất theo tỷ lệ.
- Biểu thuế là bảng tập hợp các thuế suất quy định được áp dụng để thu thuế
đối với từng thứ thuế cụ thể.
Biểu thuế bao gồm các hình thức: Biểu thuế thông thường, biểu thuế
luỹ tiến, biểu thuế luỹ thoái.
Biểu thuế thông thường bao gồm các thuế suất áp dụng ổn định và thống nhất
cho toàn bộ đối tượng tính thuế.
Biểu thuế luỹ thoái bao gồm các thuế suất áp dụng giảm dần tương ứng với sự
tăng lên của đối tượng tính thuế ở các bậc.
Biểu thuế luỹ tiến bao gồm các thuế suất nhưng thuế suất áp dụng tăng lên
theo quy mô đối tượng tính thuế. Biểu thuế luỹ tiến có hai hình thức: Biểu

thuế luỹ tiến toàn phần và biểu thuế luỹ tiến từng phần.
Biểu thuế luỹ tiến toàn phần bao gồm các thuế suất nhưng thuế suất nhưng
thuế suất áp dụng thay đổi theo mức cao hơn đối với toàn bộ đối tượng tính
thuế thuộc bậc quy định.

3


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Biểu thuế luỹ tiến từng phần bao gồm các thuế suất áp dụng thay đổi theo
mức cao hơn đối với từng phần của đối tượng tính thuế nếu đối tượng tính
thuế thuộc bậc quy định.
3.3 Chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế.
Chế độ kê khai: Quy định trong luật thuế thể hiện các quyền và nghĩa vụ của
đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá
đơn và cung cấp tài liệu, sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn liên quan đến việc
tính và thu thuế. Tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc tính thuế đối với từng thứ
thuế mà luật thuế và các văn bản pháp luật có liên quan quy định nội dung
nghĩa vụ kê khai của đối tượng nộp thuế.
Chế độ thu, nộp thuế bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ của đối
tượng nộp thuế và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thu, nộp thuế và
phương thức thu nộp, thời hạn nộp thuế.
Thu thuế là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong luật thuế
có những quy định về trách nhiệm quyền hạn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc thực hiện hoạt động thu thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải
quan, kho bạc nhà nước. Ngoài ra trong luật còn quy định trách nhiệm quyền
hạn của chính quyền nhà nước các cấp trong quá trình thực hiện một số thứ

thuế hoặc trách nhiệm quyền hạn của các tổ chức và cá nhân thực hiện uỷ
nhiệm thu thuế.
Thời hạn nộp thuế quy định trong các luật thuế và các văn bản pháp luật
được xác định phù hợp với nội dung, tính chất của từng thứ thuế.
3.4 Chế độ giảm thuế, miễn thuế.
Chế độ giảm thuế, miễn thuế thường được quy định thành một chương
riêng trong các luật thuế nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của
nhà nước. Chế độ giảm thuế, miễn thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể
nhân là đối tường nộp thuế nhưng có các dấu hiệu và sự kiện được dự liệu
trong luật được giảm một phần số thuế phải nộp hoặc được miễn trừ nghĩa vụ
nộp thuế theo thời hạn nhất định.
3.5 Chế độ xử lý vi phạm và khen thưởng.
Để đảm bảo sự tuân thủ nghiêm minh luật thuế, tập trung đúng, đủ,
kịp thời nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước, các đạo luật thuế quy
định các biện pháp cưỡng chế đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm luật, khen
thưởng đối với các tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ thu thuế và đối
với người có công phát hiện các vụ vi phạm luật thuế.
Luật thuế cũng quy định cụ thể cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hành chính, giải quyết các khiếu nại, tố cáo về việc áp dụng các
luật thuế.
II/ Vai trò của các luật thuế trong nền kinh tế.

4


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

1.Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.

Thông qua việc ban hành và áp dụng các luật thuế, nhà nước tập trung
được một bộ phận của cải xã hội vào ngân sách nhà nước. Xuất phát từ vai
trò và phạm vi hoạt động của mình đòi hỏi nhà nước phải thông qua việc ban
hành và tổ chức thực hiện các luật thuế tập trung tài chính vào ngân sách nhà
nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Hầu hết ở các quốc gia thuế là hình thức
chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách nhà nước. Ở nước ta, trong
các nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của cải cách pháp luật thuế được
Nghị quyết của quốc hội ghi nhận là nhằm động viên tài chính cho ngân sách
nhà nước. Trong thời kì bao cấp, thuế chỉ mới bảo đảm được khoảng 50 % –
60% tổng số thu của ngân sách nhà nước, một phần quan trọng của ngân
sách nhà nước lúc đó còn phải dựa vào viện trợ và vay nợ. Đến nay, nguồn
thu từ nước ngoài nhất là các khoản viện trợ đã giảm nhiều. Quan hệ kinh tế
đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay có trả, có đi có lại và hai bên
cùng có lợi. Do vậy hệ thống thuế phải đảm bảo đến 80%-90% tổng số thu
của ngân sách nhà nước, để vừa đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của Nhà
nước, vừa có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ.
2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và đời
sống xã hội.
Điều tiết nền kinh tế là yêu cầu khách quan đối với hoạt động của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường. Thông qua việc ban hành và thực hiện các
luật thuế nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền
kinh tế. Thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư và hành vi đầu tư của
các doanh nghiệp, nhà kinh doanh. Chính sách thuế được áp dụng thống nhất
sẽ từng bước đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế,
góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, các
địa phương, các vùng, giữa thị trường trong nước và ngoài nước…Tuỳ tình
hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết kinh tế,
bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu dùng và điều chỉnh các thành
phần kinh tế hoạt động theo định hướng phát triển của đất nước, điều chỉnh

các quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua các quy định của
các luật thuế, nhà nước tác động đến cung cầu của nền kinh tế, tác động một
cách hợp lý của nhà nước có thể mang lại sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát, thúc
đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất, hạ
giá thành, tăng hiệu quả kinh tế.
Bằng các chính sách thuế xuất nhập khẩu nhà nước thực hiện bảo hộ
và khuyến khích sản xuất trong nước.

5


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến
suy thoái tài chính ở một số doanh nghiệp trong một số ngành. Đối với
những doanh nghiệp thuộc ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần
khuyến khích phát triển thì ngoài các quy định chung, luật thuế còn có các
quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính,
tạo sự ổn định và phát triển cho các doanh nghiệp này.
Một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và hình thành cơ cấu kinh tế mới là thu nhập. Xét ở góc độ kinh tế, con
đường để tăng thu nhập là phải tăng năng suất lao động. Muốn vậy, điều
quan trọng là phải kích thích lao động, đầu tư, tiết kiệm. Có nhiều công cụ
để kích thích lao động, đầu tư, tiết kiệm trong đó thuế là một công cụ quan
trọng. Cùng với việc tác động trực tiếp vào mục tiêu của quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thuế còn có ảnh hưởng to lớn đến môi trường của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm hình thành những ngành nghề mới và

thay tỷ trọng trong GDP của các ngành kinh tế. Ở một khía cạnh nào đó, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là làm tăng tổng cung, thông qua tác động của
chính sách thuế đến tổng cầu của nền kinh tế, sẽ ảnh hưởng tới tổng cung.
Sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ cung cầu thông qua chính sách thuế
có tác động đến tình hình lạm phát trong nền kinh tế; điều đó cũng có nghĩa
là Nhà nước đã can thiệp vào môi trường của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Vai trò của thuế đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước
hết bắt nguồn từ đòi hỏi của thị trường. Bên cạnh những yếu tố tích cực thị
trường cũng tồn tại nhiều yếu tố hạn chế sự phát triển trong đó có tính tự
phát chạy theo lợi nhuận làm cho sự phát triển kinh tế mất cân đối. Tính tự
phát này đã tạo nên tính tự phát trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm
phương hại đến việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ. Chính
sách thuế được tính toán, cân nhắc thận trọng sẽ có tác dụng định hươngc
đến quá trình hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, hướng về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo những đường lối chiến lược có lợi cho sự phát triển kinh tế.
3. Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập đảm bảo công
bằng xã hội.
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nỗ lực của cả cộng
đồng. Trong hoàn cảnh thu nhập xã hội có sự chênh lệch lớn giữa các tầng
lớp dân cư, Nhà nước cần phải thực hiện yêu cầu điều hoà thu nhập thông
qua chính sách thuế. Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp
hài hoà giữa việc động viên với khả năng và tính chất của hoạt động sản
xuất, kinh doanh, với việc tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các
chế độ biện pháp thu thuế.

6


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Về nguyên tắc, sự bình đẳng và công bằng xã hội trong chính sách
thuế được thể hiện thông qua chính sách động viên cho ngân sách nhà nước,
không phân biệt giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nhưng công bằng xã hội không có nghĩa là đòi hỏi mọi thành viên trong xã
hội phải có thu nhập ngang nhau.Về nguyên tắc người có thu nhập cao phải
nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp, nhưng chính sách thuế phải tạo
điều kiện cho người làm ăn có hiệu quả, có năng suất cao phải có thu nhập
cao, thậm chí cao hơn nhiều so với người làm ăn lười biếng, kém hiệu quả.
Từ đó khuyến khích mọi tổ chức cá nhân cải tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư
chất xám để có thu nhập cao một cách chính đáng.

PHẦN B . HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, VAI TRÒ CỦA
THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
I.Hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay.
1. Thuế giá trị gia tăng.
Ở nước ta, để khắc phục những nhược điểm của mô hình thuế doanh thu
theo quy định của Luật thuế doanh thu, Quốc hội khoá IX tại kỳ họp thứ 11
đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng. Theo quy định của Điều 28, Luật
thuế giá trị gia tăng bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999.
Thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng là thuế tính
trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình
từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Phạm vi áp dụng của thuế giá trị gia tăng được quy định trong điều 2, 3 Luật
thuế giá trị gia tăng bao gồm:
Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng là các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế hoặc nhập khẩu hành hoá dịch vụ
thuộc diện chịu thuế. Hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế theo quy định
của Luật thuế giá trị gia tăng là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh

doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các loại hàng hoá, dịch vụ được quy
định tại Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng như: sản phẩm trộng trọt chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản chưa qua tinh chế, sản xuất muối, …
Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế giá trị gia tăng được quy định cụ thể tại Điều 7 Luật thuế giá trị
gia tăng áp dụng cho từng loại hàng hoá, dịch vụ.
Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam quy định các mức thuế suất là 0%, 5%,
10%, 20% áp dụng cho từng nhóm hàng hoá, dịch vụ.

7


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Được quy định tại Điều 9 Luật thuế giá trị gia tăng bao gồm phương pháp
khấu trừ và phương pháp trực tiếp tính trên giá trị gia tăng.
- Phương pháp khấu trừ thuế.
Theo phương pháp khấu trừ thuế, số thuế phải nộp bằng thuế giá trị gia tăng
đầu ra trừ đi thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trong đó thuế giá trị gia tăng đầu
ra bằng giá tính thuế hàng hoá, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất, thuế giá trị
gia tăng đầu vào bằng tổng số vay đã thanh toán ghi trên hoá đơn giá trị gia
tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hoá
nhập khẩu. Cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương
pháp khấu trừ thuế được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo quy định
cụ thể tại Điều 10 Luật thuế giá trị gia tăng áp dụng theo từng nhóm hàng
hoá dịch vụ.
- Phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng.

Theo phương pháp này, số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng giá trị gia tăng
của hàng hoá dịch vụ nhân với thuế suất. Phương pháp này chỉ áp dụng với
một số ít trường hợp quy định tại Điều 9 Luật thuế giá trị gia tăng.
Quản lý thu và nộp thuế thuế giá trị gia tăng.
Do đặc điểm của thuế giá trị gia tăng là Nhà nước đánh thuế đối với
phần giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế trong chu
trình kinh tế từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng nên việc thực hiện chế độ
chứng từ hoá đơn là cơ sở hết sức quan trọng đối với việc quản lý thuế. Điều
11 Luật thuế giá trị gia tăng quy định : Việc mua bán hàng hoá, dịch vụ đều
phải có hoá đơn chứng từ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra pháp luật
còn quy định chặt chẽ nghĩa vụ đăng ký và kê khai thuế của đối tượng nộp
thuế. Thuế giá trị gia tăng được nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định:
Cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng đầy đủ đúng hạn vào
ngân sách nhà nước theo thông báo của cơ quan thuế; Cơ sở kinh doanh,
người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế giá trị gia tăng theo từng lần nhập
khẩu.
Điều 16 Luật thuế giá trị gia tăng quy định chế độ hoàn thuế trong các
trường hợp như cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quý nếu số thuế đầu
vào được khấu trừ của các tháng trong quý lớn hơn số thuế đầu ra; Cơ sở sản
xuất, kinh doanh sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản thực hiện quyết toán
thuế mà có số thuế nộp thừa v.v..
Chế độ giảm thuế giá trị gia tăng.
Luật thuế giá trị gia tăng quy định áp dụng chế độ giảm thuế đối với những
cơ sở sản xuất, xây dựng vận tải trong những năm đầu áp dụng thuế giá trị

8


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

gia tăng mà bị lỗ do số thuế giá trị gia tăng phải nộp lớn hơn số thuế tính
theo mức thuế doanh thu. Thời hạn giảm thuế tính hàng năm nhưng tối đa
không quá 3 năm kể từ ngày Luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành.
2.Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế đánh vào sự tiêu dùng của xã hội đối với
một số sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt là quan hệ thu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt giữa Nhà nước với
các tổ chức và cá nhân có sản xuất, nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc quy định hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt là tuỳ thuộc vào thái độ điều tiết của Nhà nước.
Trường hợp cơ sở sản xuất hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng
nguyên liệu đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì sẽ được khấu trừ số thuế tiêu thụ
đặc biệt đã nộp đối với nguyên liệu nếu có chứng từ hợp pháp.
Phạm vi áp dụng :
Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm các tổ chức và cá nhân có sản
xuất, kinh doanh, nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành ở nước ta quy định sáu nhóm mặt
hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm: Thuốc hút; Rượu; Bia các
loại; Các loai pháo; Ôtô nhập khẩu; Xăng.
- Dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt: Kinh doanh vũ trường; mát sa; ka-ra-ôkê; kinh doanh vé đặt cược đua ngựa; đua xe; kinh doanh golf; bán thẻ hội
viên; vé chơi golf v.v…
Hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nếu xuất, nhập khẩu không phải
nộp thuế tiêu thụ đặc biệt trong trường hợp: Hàng viện trợ không hoàn lại;
Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất khẩu v.v…
Căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là số lượng hàng hoá, giá tính thuế, đơn vị
hàng hoá và thuế suất.

Số lượng hàng hoá, giá tính thuế hàng hoá là cơ sở để xác định đối tượng
tính thuế tiêu thụ đặc biệt.
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định như sau:
- Đối với hàng sản xuất là giá do cơ sở sản xuất mặt hàng đó bán ra tại nơi
sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá tính thuế nhập khẩu cộng thuế nhập
khẩu.
Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm các thuế suất áp dụng có tính phân biệt giữa
các nhóm mặt hàng và giữa các mặt hằng trong cùng một nhóm.
Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt:

9


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

STT
1
2
3
4
5
6

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Mặt hàng
Thuốc hút
Rượu
Bia

Pháo (Trừ pháo nổ)
Ôtô nhập khẩu
Xăng

Thuế suất (%)
32-70
15-90
90
75-100
30-100
15

Thời hạn thu, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Thời hạn thu nộp thuế tiêu thụ đặc
biệt được quy định phù hợp với từng loại hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt là hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu.
Chế độ miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt quy
định giảm thuế trong một số trường hợp:
- Cơ sở sản xuất mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó
khăn do thiên tai, địch hoạ, tai nan bất ngờ được xét giảm thuế tiêu thụ đặc
biệt. Mức giảm được tính theo tỷ lệ phần trăm thiệt hại về tài sản, nhưng
không quá 50% số thuế phải nộp và số tiền thuế được giảm không quá 30%
giá trị tài sản bị thiệt hại. Thời gian giảm thuế không quá 3 tháng kể từ sau
thời điểm xảy ra thiệt hại và có xuất hàng.
- Cơ sở sản xuất mới thành lập hoặc cơ sở mở rộng sản xuất, áp dụng công
nghệ sản xuất mới nếu nộp đủ thuế tiêu thụ đặc biệt mà bị lỗ được xét giảm
thuế theo từng năm. Mức giảm thuế tương ứng với só lỗ của từng năm
nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm đó. Thời gian được xét
giảm thuế không quá hai năm.
Đối với những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ nếu khả năng không nộp đủ được
theo mức quy định thì Bộ Tài Chính căn cứ vào tình hình thực tế quyết định

mức và thời gian miễn thuế cho từng trường hợp cụ thể.
3.Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế đánh vào thu nhập của các tổ chức cá
nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Theo quy định tại Điều 33 Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp, thì Luật thuế TNDN có hiệu lực thi hành và
thay thế Luật thuế lợi tức từ ngày 01/01/1999. Thuế TNDN là thuế trực thu.
Pham vi áp dụng:
Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 1 Luật
thuế TNDN là tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu
nhập.
Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN được quy định tại Điều 2 của
Luật thuế TNDN gồm: Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác v.v…

10


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất.
- Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và thu nhập khác như thu nhập thu được từ hoạt động kinh doanh ở
nước ngoài của đối tượng nộp thuế. Thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý có
liên quan đến thu nhập chịu thuế.
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 10 Luật thuế
TNDN là thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho các nhóm đối tượng cụ thể.
Thời hạn thu, nộp thuế TNDN được quy định trong luật có tính đến quy mô
và tính chất kinh doanh của các hoạt động kinh doanh có thu nhập thuộc

diện chịu thuế. Điều 13 Luật thuế TNDN quy định cụ thể thời hạn nộp thuế
đối với từng loại đối tượng. Chế độ quyết toán thuế tính theo năm dương
lịch hoặc theo năm tài chính do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Ngoài các quy định về thời hạn và nội dung thực hiện chế độ quyết toán
thuế, Luật thuế TNDN còn có các quy định về quyết toán thuế trong trường
hợp cơ sở kinh doanh sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản.
Chế độ miễn, giảm thuế: Luật thuế thuế thu nhập doanh nghiệp có các quy
định miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng theo từng nhóm
đối tượng được miễn, giảm thuế (Điều 17, 18, 19, 20, 21).
4. Thuế xuất, nhập khẩu.
Thuế xuất nhập khẩu là thuế thu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu qua cửa
khẩu, biên giới nước mình. Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành được quốc
hội thông qua ngày 26/12/1991 và sửa đổi bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật thuế xuất nhập khẩu được quốc hội thông qua ngày
5/7/1993.
Đối tượng điều chỉnh của thuế xuất nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất
nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép
xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu , biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ
thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị
trường trong nước. Theo qui định của luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành
thuế xuất nhập khẩu là thuế gián thu.
Phạm vi áp dụng của thuế xuất nhập khẩu :
Đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu là các tổ chức và cá nhân có hàng hoá
được phép xuất, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế. Đối tượng nộp thuế xuất
nhập khẩu có thể là tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh
tế và cũng có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Hàng hoá thuộc diện chịu thuế xuất nhập khẩu phải là hàng hoá được phép
xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ thị

11



Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

trường trong nước đưa vào khu chế xuất hoặc từ khu chế xuất đưa ra thị
trường trong nước.
Đối với các hàng hoá xuất, nhập khẩu trái phép, hàng hoá cấm xuất, nhập
khẩu không thuộc phạm vi áp dụng luật thuế xuất nhập khẩu mà xử lý bằng
các biện pháp cưỡng chế hành chính, tư pháp theo qui định của pháp luật.
Căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu.
Theo điều 6 Luật thuế xuất nhập khẩu căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu
bao gồm: Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất, nhập khẩu;
Giá tính thuế; Thuế suất của mặt hàng chịu thuế quy định trong biểu thuế.
Giá tính thuế xuất nhập khẩu được áp dụng theo từng trường hợp hàng xuất,
nhập khẩu theo những phương thức khác nhau.
Biểu thuế xuất nhập khẩu bao gồm các thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho từng
mặt hàng xuất, nhập khẩu. Thuế suất áp dụng để tính thuế đối với hàng xuất,
nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi.
- Thuế suất thông thường là thuế suất được quy định tại biểu thuế.
- Thuế suất ưu đãi được quy định bằng 70% thuế suất thông thường được áp
dụng đối với hàng xuất, nhập khẩu với những nước có ký kết điều khoả ưu
đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam hoặc trong những trường hợp do
chính phủ quyết định.
Thời hạn thu, nộp thuế xuất, nhập khẩu.
Điều 17 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định cụ thể thời hạn đối tượng nộp
thuế có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế, riêng đối với hàng thuế xuất nhập
khẩu phi mậu dịch và tiểu ngạch biên giới đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ
nộp thuế xuất nhập khẩu ngay khi xuất khẩu hàng ra nước ngoài hoặc nhập

hàng vào Việt Nam.
Chế độ miễn, giảm, hoàn lại thuế xuất nhập khẩu.
Hàng xuất, nhập khẩu được miễn thuế xuất nhập khẩu trong các
trường hợp quy định trong Điều 10 Luật thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra Điều
11 Luật thuế xuất nhập khẩu còn quy định các trường hợp được xét miễn
thuế đối với một số hàng hoá ví dụ như hàng nhập khẩu chuyên dùng cho
an ninh quốc phòng, nghiên cứ khoa học và giáo dục, đào tạo v.v..
Điều 12 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định được xét giảm thuế trong trường
hợp hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát có lý
do xác đángđược cơ quan giám định Nhà nước về hàng xuất, nhập khẩu
chứng nhận.
Trong các trường hợp như hàng đã nộp thuế nhưng thực tế không
xuất, nhập khẩu vào Việt Nam hoặc trong các trường hợp được pháp luật
quy định thì đối tượng nộp thuế được trả lại một phần hoặc toàn bộ số thuế
xuất nhập khẩu đã nộp.

12


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

5. Một số Luật thuế cơ bản khác.
5.1 Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào thu nhập của người có thu
nhập cao.Thu nhập chịu thuế là đối tượng tính thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao. Thu nhập chịu thuế được quy định làm thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên. Thuế suất áp dụng để thu thuế thu
nhập cá nhân là thuế suất tỷ lệ (%). Biểu thuế được quy định phân biệt theo

hai loại thu nhập và theo hai nhóm đối tượng nộp thuế: công dân Việt Nam,
cá nhân định cư tại Việt Nam và đối tượng là người nước ngoài cư trú tại
Việt Nam, công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài.
5.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Ngày 10/7/1993 Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 3 ban hành Luật Thuế
sử dụng đất nông nghiệp. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất
nông nghiệp là quan hệ thu nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp giữa nhà nước
với các cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp hoặc các tổ chức cá nhân
được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp. Căn cứ tính thuế sử dụng đất
nông nghiệp là diện tích, hạng đất và định thuế suất một năm (kg thóc/ha) –
thuế suất.
5.3 Một số Luật thuế khác.
-Thuế tài nguyên: Là thuế đánh lên hoạt động khai thác tài nguyên thuộc chủ
quyền của Việt Nam của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
-Thuế môn bài:Là khoản thu của ngân sách nhà nước áp dụng đối với
tất cả các pháp nhân và thể nhân kinh doanh.
-Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là thuế đánh lên thu nhập phát sinh
từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất trong xã hội.
II.Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam.
1. Vai trò của hệ thống thuế ở nước ta hiện nay.
Từ khi ra đời đến nay, hệ thống thuế ở Việt Nam đã có nhiều sửa đổi bổ
xung nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất kinh doanh
và đời sống xã hội. Các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích xuất khẩu,
bảo hộ sản xuất trong nước. Nổi bật nhất là chính sách thuế đối với hoạt
động xuất khẩu: thuế xuất thuế giá trị gia tăng bằng 0% và hàng nhập khẩu
được hoàn thuế thuế giá trị gia tăng đã nộp, đây thực chất là hình thức trợ
giá của Nhà nước đối với hàng xuất khẩu. Thuế suất hàng xuất khẩu đối với
gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ rừng trồng, bàn ghế, sản phẩm chế biền từ kim
loại cũng được giảm nhẹ.
Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là

25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu trên 30% tổng giá trị hàng
hoá và có thể được miễn thuế TNDN bổ sung nếu có giá trị hàng xuất khẩu

13


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

trên 50%. Các ưu đãi về thuế trên đã thiết thực giúp các doanh nghiệp giảm
được giá vốn hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong việc cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Đồng thời với việc giảm thuế quan theo chương trình của CEPT, Chính phủ
đã diều chỉnh nâng thuế suất thuế nhập khẩu đối với 132 mặt hàng, chủ yếu
là hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được nhằm thực hiện chính sách
bảo hộ sản xuất nội địa một cách hợp lý.
Các Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh. Thuế giá trị gia tăng được căn cứ vào giá trị mới tăng thêm
của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình lưu thông đến tiêu dùng.
Chính việc xác định đối tượng chịu thuế chỉ là giá trị mới tăng thêm qua
từng khâu của quá trình sản xuất lưu thông nên đã khắc phục được tính trùng
lặp của luật thuế doanh thu. Trong lúc đầu chuyển đổi từ thuế doanh thu có
11 mức thuế suất sang thuế giá trị gia tăng có 4 mức thuế suất, một số doanh
nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu nên gặp nhiều
khó khăn do chưa có điều kiện sắp xếp lại tổ chức hoạt động, quản lý phù
hợp với cơ chế mới. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các Bộ đã tăng
cường chỉ đạo, bám sát tình hình, kịp thời đề ra nhiều biện pháp tháo gỡ khó
khăn mang tính chất tình thế. Hơn 10 nhóm ngành hàng, dịch vụ được bổ
xung vào danh mục thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng; giảm

50% mức thuế cho 18 ngành hàng dịch vụ; mở rộng diện được khấu trừ thuế
giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ ấn định, đặc biệt với mặt hàng nông lâm
thuỷ sản, đối với mặt hàng tồn kho theo chủ trương của chính quyền địa
phương; giảm thuế đối với mọi ngành nghề phải nộp thuế giá trị gia tăng cao
hơn thuế doanh thu mà bị lỗ; giảm thuế suất nhập khẩu cho 559 mặt hàng là
vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước. Các công trình đầu tư, xây
dựng cơ bản cũng được nhiều ưu đãi về thuế. Các doanh nghiệp mua sắm tài
sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc được hoàn đủ
thuế đã nộp. Mặt khác, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dung
nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản
cố định theo dự án thì không thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng. Các dự án
xây dựng cơ bản sử dụng nguồn vốn ODA cũng không phải nộp thuế giá trị
gia tăng. Với việc thực hiện nghị định 78-NĐ/CP giảm 50% mức thuế giá trị
gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, sau khi được khấu trừ thuế đầu
vào, các doanh nghiệp xây dựng còn phải nộp thuế trung bình khoảng 1- 2%
giá trị công trình, thậm chí còn được hoàn thuế.
Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu
cho các doanh nghiệp sản xuất, vận tải, xây dựng mới thành lập và giảm
50% thuế phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp thành lập ở

14


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

vùng có khó khăn thì được kéo dài thời gian miễn và giảm thuế trong 2 năm
nữa. Riêng đối với doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề,
vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất thấp hơn so

với các dự án bình thường; ngoài ra còn được miễn thuế trong thời gian 4
năm đầu kể từ khi hoạt động có thu nhập tính thuế và giảm 50% thuế trong 9
năm tiếp theo. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn quy định miễn giảm
thuế đối với các trường hợp đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở
rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao
năng lực sản xuất, di chuyển cơ sở kinh doanh.
Các Luật thuế mới đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra,
giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc thực
hiện Luật thuế giá trị gia tăng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường
hạch toán kinh tế và thực hiện nghiêm ngặt chế độ mua bán phải có hoá đơn,
chứng từ nhằm xây dựng môi trường trong sạch trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế thị trường. Trường hợp doanh nghiệp nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế, muốn được khấu trừ thuế giá trị gia tăng ở
khâu đầu vào thì khi mua vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm đòi hỏi cơ sở
phải sử dụng và ghi chép đúng quy định trên hoá đơn thuế giá trị gia tăng.
Với việc quy định mức thuế suất của luật thuế giá trị gia tăng so với thuế
doanh thu đã tạo cho chính sách thuế đơn giản và dễ thực hiện hơn.
2.Những tồn tại và hạn chế trong hệ thống thuế ở Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trên chặng đường hội nhập hệ
thống thuế Việt Nam vẫn gặp phải một số vướng mắc, tồn tại cần đổi mới và
hoàn thiện. Các luật thuế vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế của đất nước mà biểu hiện rõ nhất là các đạo luật thường
xuyên phải sửa đổi bổ sung.Các sắc thuế còn quá phức tạp, chưa bao quát
hết các nguồn thu, phạm vi điều tiết vĩ mô của thuế còn hẹp, còn nhiều đối
tượng, nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa chịu sự điều phối và quản
lý của thuế và do vậy các đối tượng này trở thành rào cản làm hạn chế tác
dụng và loại trừ tác động của công cụ thuế.
Hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn
nhau giữa các sắc thuế, việc sử dụng các sắc thuế còn tách rời nhau. Đặc biệt

là việc xây dựng các mức thuế suất còn chưa sát với tình hình thực tế, rõ
ràng nhất là khi áp dụng các mức thuế suất của thuế giá trị gia tăng thì một
số doanh nghiệp đã gặp khó khăn trong việc hạch toán kinh tế. Việc phải đi
vay ngân hàng để nộp thuế giá trị gia tăng đang là mối lo ngại lớn của các
doanh nghiệp.Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính không ổn định, không
công bằng, chưa thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Luật thuế

15


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

giá trị gia tăng khi thực hiện vẫn có nhiều vướng mắc, phải sửa đổi bổ sung
nhiều lần làm cho các doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời. Mặt khác việc
thường xuyên thay đổi thuế suất của thuế nhập khẩu hiện nay tuy phù hợp
với thay đổi trước mắt của nền kinh tế nhưng lại phản ánh chính sách thuế
nhập khẩu của Việt Nam mang tính tình thế đối phó ngắn hạn, gây khó khăn
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc hạch toán kinh tế. Trong chủ
chương xây dựng chiến lược lâu dài, thuế thu nhập doanh nghiệp mặc dù
thống nhất áp dụng ở mức thuế suất 32% nhưng chỉ áp dụng đối với các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nưóc còn các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật đầu tư nước ngoài vẫn hưởng thuế suất ưu đãi (25%) và phải
nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Như vậy có thể nói rằng việc tạo
ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp nước ngoài trong cơ chế cạnh tranh của chính sách thuế vẫn chưa
thực hiện được.
Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay được sử dụng như một công cụ
phục vụ quá nhiều chính sách xã hội điều này làm mất đi tính trung lập của

thuế. Ví dụ như chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện nay đang áp dụng quá
nhiều mức thuế suất do phải phục vụ quá nhiều mục tiêu. Cùng với việc theo
đuổi các mục tiêu xã hội là việc quy định chế độ miễn giảm thuế quá rộng
rãi với nhiều mức thuế suất khác nhau đã làm cho chính sách thuế thêm phức
tạp, thiếu minh bạch, thiếu hiệu quả và đôi khi tạo kẽ hở cho một số mặt
hàng núp bóng các đối tượng thuộc diện được miễn giảm thuế để trốn thuế
lậu thuế
Đặc biệt hệ thống thuế Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều mặt chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo tương thích tương đồng với các
chính sách thuế trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu thuế suất của biểu
thuế nhập khẩu hiện hành gồm 12 mức thuế suất dàn trải từ 0% đến 100%
cùng với quy định thuế suất theo tỷ lệ nội địa hoá làm cho biểu thuế nhập
khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối phức tạp và
đây còn là vấn đề rất khó khăn trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức
0%-5% khi Việt Nam thực hiện cam kết theo chương trình ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung với thời hạn cuối cùng là năm 2006. Về giá tính thuế, hiện
nay chúng ta đang áp dụng chế độ tính giá tối thiểu và nằm trong dang mục
Nhà nước quản lý. Quy định này trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện
nay là tương đối phù hợp tuy nhiên khi Việt Nam tham gia WTO thì việc áp
dụng giá tính thuế tối thiểu sẽ vi phạm quy định về xác định trị giá tính thuế
theo giá giao dịch thực của GATT/WTO. Bên cạnh đó việc bảo hộ còn dàn
trải, thiếu sự chọn lọc, chưa tính đến lợi thế so sánh của nền kinh tế, sử dụng
nhừng biện pháp bảo hộ đối với những ngành sản xuất mà thực tế còn thiếu

16


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.


tiềm năng. Do đó các ngành được bảo hộ không những không lớn mạnh mà
còn trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời chúng ta còn
chưa tính đến việc bảo hộ một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp
sản xuất trong nước không chịu vươn lên đổi mới trang thiết bị, công nghệ
sản xuất và quản lý để tăng sức cạnh tranh của hành Việt Nam, mở rộng thị
trường tiêu thụ ra bên ngoài, mặt khác làm cho việc phân bổ nguồn lực kém
hiệu quả, chưa phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam trong
quá trình phân công lao động quốc tế khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức
tài chính quốc tế và khu vực.
Đối với thuế giá trị gia tăng, tồn tại nổi lên là nhiều ngành nghề gặp
khó khăn do phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu. Việc giảm
50% thuế giá trị gia tăng phải nộp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao, một cách tràn lan, thiếu căn cứ đã
tạo nên tâm lý chờ đợi của nhiều doanh nghiệp, có quá nhiều khiếu nại kêu
ca, khiến cho cơ quan chức năng lúng túng bị động.Ưu điểm nổi bật của thuế
giá trị gia tăng là khắc phục được việc thu thuế trùng lặp. Thế nhưng trên
thực tế việc không cho khấu trừ thuế đầu vào (hoặc cho khấu trừ khoán theo
tỷ lệ cố định là 3%) đối với trường hợp chỉ có hoá đơn bình thường mà thực
chất là hàng đã được nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp, là
còn duy trì chế độ thuế trùng lắp cao hơn thuế doanh thu vì thuế suất thuế
giá trị gia tăng cao. Ngược lại việc khấu trừ khống đối với nông, lâm, thuỷ
sản mua của cơ sở sản xuất, khai thác trực tiếp đã tạo nên nhiều sơ hở để cơ
sở kinh doanh lợi dụng thông đồng trốn lậu thuế ( kể cả đối với hàng tiêu thụ
nội địa và hàng xuất khẩu), không tạo được lợi ích cho nông dân, ngư dân.
Từ việc quy định có nhiều trường hợp dược giảm thuế và nhiều tỷ lệ khấu
trừ khác nhau luật thuế đã bị xói mòn với nhiều mức thuế suất mới, thêm
nhiều phức tạp khó khăn cho công tác quản lý. Hàng hoá thuộc diện đánh
thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị gia tăng cũng gây trở ngại
cho việc khấu trừ đầu vào ở khâu lưu thông. Thuế giá trị gia tăng được sửa

đổi bổ sung qua nhiều văn bản cũng gây khó khăn cho việc tra cứu của cán
bộ thuế và nhà doanh nghiệp khi xác định thuế suất. chế độ hoá đơn chưa
được thi hành nghiêm chỉnh với nhiều thủ đoạn trốn lậu tuế tinh vi từ hoá
đơn giả đến hoá đơn “đen”, ghi doanh thu trên liên hoá đơn lưu tại cơ sở và
trên liên giao cho khách chênh lệch đến hàng chục hàng trăm lần… đang trở
thành con dao hai lưỡi trong công tác quản lý thu thuế. Theo tài liệu thống
kê sơ bộ 9/1999 đến 9/2000 chỉ riêng ở 15 tỉnh, thành phố đã kiểm tra phát
hiện 1.278 tờ hoá đơn giả các loại có tổng số tiền hàng ghi hoá đơn trên 22,5
tỷ đồng với số thuế gian lậu là 82,9 triệu đồng.

17


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, vướng mắc từ lâu vẫn tồn tại là
khái niệm về chi phí hợp lý được trừ đi khi xác định thu nhập tính thuế –
một yếu tố quan trọng trong thuế thu nhập doanh nghiệp. Do chưa có quy
địng rõ ràng thoả đáng nên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và phải hiệp
thương giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế, còn nhiều sơ hở cho việc vận
dùng tuỳ tiện tiêu cực. Nhiều khoản chi cần thiết chưa được công nhận là chi
phí kinh doanh trong đó có trang bị đồng phục đối với một số doanh nghiệp
đặc thù cũng là vấn đề vướng mắc của một số doanh nghiệp. Việc tính thuế
một lần trên toàn bộ số tiền khách hàng tạm ứng thuê tài sản dài hạn (5- 10
năm) cũng có phần chưa hợp lý. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong nhiều
ngành không thể hạch toán riêng lỗ lãi để áp dụng thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp khác nhau (32% hoặc tạm thời áp dụng thuế suất 25%) phải
chịu thuế suất cao nhất (32%) cũng đã tạo nên những khó khăn nhất điịng

cho cơ sở sản xuất. Về nguyên tắc thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
được áp dụng phổ biến 32% thu nhập tính thuế, nhưng do còn nhiều khoản
chi phí không được trừ hoặc không được trừ đủ, thực thị trườngế có nhiều
doanh nghiệp bị động viên đến 40 – 50% thu nhập kinh doanh. Vấn đề khá
nổi cộm là thuế thu nhập doanh nghiệp bỏ sung 25% đối với doanh nghiệp
có thu nhập còn lại cao hơn 12% giá trị vốn hiện có tại thời điểm quyết toán
thuế năm do lợi thế khách hàng mang lại như địa điểm kinh doanh thuận lợi,
ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh…mà đó lại là những tiêu chí rất trừu
tượng, mơ hồ, cán bộ thuế muốn vận dụng giải thích thế nào cũng đều đúng.
Quy định như trên đã phần nào làm nhụt vươn lên khắc phục khó khăn của
doanh nghiệp, kìm hãm sản xuất của các thành phần kinh tế trong nước.
Chính ssách thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất quá trênh lệch ( giữa
32% với 25% thậm chí cả 10%, 15%, 20% được áp dụng trong thời gian dài
và thuế suất bổ xung) trên thực tế đã làm giảm một động lực quan trọng đối
với doanh nghiệp Nhà nước, đang phải cạnh trang gay gắt trong quấ trình
hội nhập mà thời gian chuẩn bị cạnh tranh không còn dài. Thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với kinh tế trang trại đã từng nổi lên như một vấn đề thời
sự nóng bỏng hiện cũng cần được giải quyết một cách thoả đáng rõ ràng.
PHẦN C . XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ
BIỆN PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ
Ở VIỆT NAM.
I. Xu hướng cải cách thuế trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX.
Có thể nói rằng hệ thống thuế trên thế giới vào những năm cuối thập
kỷ 90 đã có những điểm rất khác biệt so với hệ thống thuế của những năm

18


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

80. Cải cách thuế trong những năm cuối của thế kỷ XX không chỉ đơn giản
là sự cân nhắc tối ưu giữa mục tiêu hiệu quả và công bằng trong điều kiện
của một nền kinh tế “đóng” mà còn bị chi phối mạnh mẽ bởi những nhân tố
mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của nước ta
nói riêng và tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng trên
thế giới. Những khác biệt này một mặt phản ánh sự chuyển hướng chính
sách trong cải cách thuế nhằm đạt tới sự tối ưu trong điều kiện nền kinh tế
“mở” mặt khác lại hàm ý nhiều vấn đề cần giải quyết đối với cải cách thuế
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những xu hướng nổi bật trong cải cách thuế trên thế giới vào những
năm cuối của thế kỷ XX có thể nhận thấy qua xu hướng ngày càng tăng về
tỷ lệ động viên thông qua thuế so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Bất
chấp những cố gắng của nhiều chính phủ trên thế giới trong việc cắt giảm
gánh nặng thuế, tỷ lệ động viên thông qua thuế vẫn có xu hướng tăng lên.
Trong số trên 20 nước thuộc khối các nước phát triển OECD, chỉ có hai
nước là HàLan và Na Uy là có tỷ lệ động viên từ thuế so với GDP giảm vào
giữa những năm 1980-1995, những nước còn lại thì tỷ lệ này so với GDP
tăng đáng kể. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1995, gánh nặng thuế
trong khối các nước OECD đã liên tục tăng từ khoảng 27% GDP lên tới gần
40% GDP, tỷ lệ này đặc biệt cao ở một số nước như Bỉ, Đan Mạch, Thuỵ
Điển, Phần Lan ( trên 45% GDP ).
Thuế suất biên đối với thuế thu nhập cá nhân tiếp tục giảm thấp. Do
những thành tựu nghiên cứu của những năm 80 cả về mặt lý thuyết lẫn thực
tiễn, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng tỷ lệ thuế suất biên càng cao sẽ
gây méo mó càng lớn đối với nền kinh tế. Tỷ lệ thuế cao sẽ không khuyến
khích lao động và tiết kiệm nhưng đồng thời lại kích thích việc lợi dụng
những kẽ hở thuế. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến trào lưu cắt giảm thuế
suất biên trung bình khoảng trên 10% vào những năm cuối của thập kỷ 80 và

xu thế vẫn được duy trì và đi vài ổn định trong những năm 90.
Cơ sở đánh thuế thu nhập được mở rộng để bù đắp số thuế giảm do
việc cắt giảm thuế suất. Ở đa số các nước thực hiện việc cắt giảm thuế suất
biên đối với thuế thu nhập cá nhân, nguồn tài chính thiếu hụt được bù đắp
bằng việc mở rộng cơ sở đánh thuế, việc này được thực hiện bằng hai cách.
Cách thứ nhất là tăng cường đánh thuếvào những khoản thu nhỏ, lãi thấp mà
trươcs đây chưa đưa vào diện chịu thuế. Cách thứ hai là loại bỏ hoặc hạn chế
những khoản ưu đãi, miễn giảm, khấu trừ không cần thiết. Đa số các nước
phát triển áp dụng biện pháp thứ hai ở những mức độ khác nhau. Như ở Mỹ
năm 1986, đã tiến hành loại bỏ một loạt các khoản khấu trừ và một số ưu
đãi. Nhưng ưu đãi trong hệ thống thuế của nước Mỹ lúc bấy giờ được coi là

19


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

quá phức tạp gây ra những méo mó nghiêm trọng đối với tiêu dùng tiết kiệm
và đầu tư. Nếu so sánh những chương trình chi tiêu, trợ cấp của chính phủ
hoặc các biện pháp khác thì những ưu đãi, miễn giảm thông qua thuế tỏ ra
không minh bạch và không phát huy được tác dụng theo ý đồ thiết lập thuế.
Vì lý do đó, một loạt các nước đã tiến hành tính toán và theo dõi tài khoản
“chi phí thuế” là tài khoản theo dõi tổng số thuế bị mất đi của chính phủ do
thực hiện các biện pháp miễn, giảm, khấu trừ thuế. Sự tính toán, theo dõi
này là một trong những biện pháp làm minh bạch và hạn chế hệ thống miễn
giảm khấu trừ trong các sắc thuế ở một mức độ được coi là hợp lý và trên cơ
sở đó mở rộng cơ sở đánh thuế của các chính phủ. Việc mở rộng cơ sở đánh
thuế đã cơ bản bù đắp sự thiếu hụt nguồn thu do việc cắt giảm thuế suất gây

nên, tuy nhiên vẫn không bù đắp được hoàn toàn. Do không bù đắp được
hoàn toàn nhu cầu tài chính nên nhiều nước đã lại đặt gánh nặng thuế nhiều
hơn lên tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Một lần nữa, vấn đề này lại gây ra
một mối quan tâm chung về tính công bằng và vai trò phân phối thu nhập
của hệ thống thuế.
Thuế thu nhập cá nhân được đơn giản hoá theo hướng giảm bới số
lượng thuế suất làm cho chúng “bằng phẳng” hơn. Hệ thống thuế thu nhập
cá nhân trước những năm 80 trở nên quá phức tạp với nhiều bậc thuế suất
cùng với những quy định khấu trừ, ưu đãi, miễn giảm làm chi phí hành chính
trở nên quá lớn. Thực tại này đã được cải thiện đáng kể thông qua việc gọt
giũa hệ thống thuế thu nhập cá nhân theo hướng đơn giản hoá. Các nhà cải
cách đã lập luận rằng ít số lượng thuế suất hơn không có nghĩa là làm cho hệ
thống thuế ít luỹ tiến hơn. Trong thập kỷ gần đây, ngoại trừ Thuỵ Sĩ và Thổ
Nhĩ Kỳ, tất cả các nước còn lại trong khối OECD đều thực hiện việc cắt
giảm số lượng thuế suất thuế thu nhập cá nhân. số lượng thuế suất bình quân
đã giảm từ 10 bâc xuống còn 6 bậc tính từ năm 1986 đến 1997. Xu hướng
giảm số lượng thuế suất cùng với việc hạ thuế suất biên cao nhất trong thập
kỷ 80 và 90 đã làm cho hệ thống thuế thu nhập cá nhân trở nên bằng phẳng
hơn với số lượng thuế suất ít hơn và sự khác biệt giữa các bậc thuế suất nhỏ
hơn.
Thuế thu nhập công ty cũng được cải các theo xu hướng cắt giảm thuế
xuất và mở rộng diện đánh thuế. Đối với thuế thu nhập công ty một loạt các
ưu đãi, miễn giảm trước đây đã bị xoá bỏ hoặc hạn chế. Khuynh hướng này
được thể hiện rõ nét tại một số nước như Đức, Mỹ, Phần Lan, Ailen… Trong
khi đó thuế suất thuế thu nhập công ty trong khối các nước OECD bình quân
giảm khoảng 10% nếu so sánh mức của những năm 1997 với mức của năm
1986. Khi nền kinh tế ngày càng có tính chất quốc tế hóa, những yếu tố của
quá trình sản xuất ngày càng trở nên linh hoạt hơn và có thể dễ dàng di

20



Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

chuyển qua giới hạn quốc gia của một số nước, việc duy trì một mức thuế
suất thuế thu nhập công ty cao sẽ trở nên bất lợi cho chính bản thân quốc gia
đó bởi nguy cơ “biến mất” của đối tượng nộp thuế. Vì vậy trào lưu cắt giảm
thuế suất thuế thu nhập công ty nhanh chóng trở thành một hiện tượng
đômino giữa các nước phát triển và theo sau là các nước đang phát triển.
Sự lan truyền nhanh chóng của xu hướng áp dụng thuế giá trị gia tăng
thay cho thuế doanh thu trên phạm vi toàn cầu theo thống kê của IMF đến
nay đã có hơn 120 nước trên thế giới áp dụng thuế giá trị gia tăng. Song
song với việc phổ cập áp dụng thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia
tăng cũng có xu hướng điều chỉnh theo hướng nâng cao làm cho thuế giá trị
gia tăng ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng. Theo số liệu thống kê,
trong khối các nước OECD, thuế suất trung bình khi các nước mới áp dụng
thuế giá trị gia tăng là 12,5%. Mức thuế suất thuế giá trị gia tăng trung bình
đã đạt vào khoảng 17,5% vào năm 1998.
Cấu trúc thuế đã có sự thay đổi theo hướng giảm dần thuế trực thu,
tăng tỷ lệ thuế gián thu đối với các nước phát triển, trong khi đó đối với các
nước đang phát triển thì có sự thay đổi theo hướng ngược lại. Do cảm nhận
được tính không quyến khích tiết kiệm của thuế thu nhập cá nhân và thuế
thu nhập công ty, đa số các nước phát triển thực hiện việc cắt giảm thuế trực
thu và chuyển sang loại hình thuế tiêu dùng như thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt…Mặc dù vậy, thuế trực thu vẫn chiếm tỷ lệ đa số và là chỗ
dựa chủ yếu của ngân sách các nước đang phát triển. Theo số liệu thống kê,
trong giai đoạn 1980 đến 1995, tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập công ty có chiều hướng giảm trong khi đó thuế tiêu dùng có xu hướng

tăng. Sự gia tăng của thuế gián thu đặc biệt là thuế tiêu dùng chung là xu
hướng phù hợp với việc phổ cập áp dụng thuế giá trị gia tăng tên toàn thế
giới. Trong khi đó, xu hướng thay đổi cấu trúc thuế suất ở các nước đang
phát triển trong một vài thập kỷ qua lại diễn ra theo chiều ngược lại. Tuy
nhiên, sự trái ngược này không có gì mâu thuẫn. Một đặc trưng của các nước
đang phát triển là thu nhập thấp, nên muốn có nguồn chi tiêu chính phủ của
các nước này phải dựa chủ yếu vào các loại thuế gián thu do dễ thu và dễ
quản lý lại vừa ổn định. Khi thu nhập được nâng cao theo quá trình phát
triển kinh tế khả năng của chính phủ có được nguồn thu từ thuế thu nhập dồi
dào hơn. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự thay thế hoàn toàn thuế gián thu bằng
thuế trực thu hoặc ngược lại là điều không thể có. Một cơ cấu thuế hợp lý là
một cơ cấu mà ở đó giới hạn luỹ thoái của thuế gián thu bị hạn chế bởi phạm
vi luỹ tiến của thuế trực thu. Bởi vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực thu
và thuế gián thu là rất quan trọng cả về mặt lý thuyết và thực tiễn không chỉ
ở những nước phát triển mà còn cả ở những nưóc đang phát triển. Trong đó,

21


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

một quy luật chung có tính phổ biến là các nước phát triển dựa chủ yếu vào
thuế trực thu còn các nước đang phát triển thì dựa chủ yếu vào thuế gián thu.
Tính phức tạp trong hệ thống thuế của các nước vẫn còn là vấn đề lớn,
và do đố mục tiêu làm đơn giản hệ thống thuế được đặt ra như một yêu cầu
cấp thiết trong cải cách thuế trên thế giới. Sự phức tạp của hệ thống thuế làm
người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành còn cơ quan thu
thuế thì lại khó quản lý thu nộp. Sự phức tạp của hệ thống thuế đã tạo cơ hội

trốn và tránh thuế đồng thời làm tăng chi phí thu thuế và chi phí tuân thủ luật
của các đối tượng nộp thuế.
Tóm lại, tất cả những xu hướng cải cách thuế trên thế giới chứng tỏ trong
thời đại ngày nay việc hoạch định chính sách thuế không chỉ là vấn đề đánh
thuế của chính phủ nữa, Những nhân tố của toàn cầu hoá đã nhanh chóng trở
thành những lực lượng khách quan chi phối xu hướng cải cách thuế trên thế
giới trong thế kỷ XXI thế kỷ của toàn cầu hoá được đặc trưng bằng nền kinh
tế tri thức.
II. Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế
ở Việt Nam .
1. Biện pháp.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của hệ thống thuế hiện hàng tiến
tới hoàn thiện và xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp với xu thế
hội nhập hiện nay đòi hỏi chúng ta cần cải tiến hệ thống thuế theo hướng xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế mang tính dài hạn trên cơ sở đó xây dựng
hệ thống chính sách thuế không chỉ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
xã hội trong nước mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, kinh tế khu vực
cũng như kinh tế thế giới, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính
sách thuế. Cần hạn chế sự lồng ghép các mục tiêu xã hội vào các chính sách
thuế, mặt khác thu hẹp đối tượng miễn giảm thuế để tránh tình trạng lợi
dụng cơ chế miễn giảm thuế để trốn, lậu thuế.
Cần mở rộng diện đánh thuế với các mức thuế suất để vừa đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa tăng cường quản lý và mở rộng
phạm vi tác động của công cụ thuế vào nền kinh tế quốc dân, thực hiện vai
trò quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua chính sách thuế tạo sân
chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài vừa đảm bảo lợi ích kinh tế
của doanh nghiệp trong nước và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho
các doanh nghiệp.
Cần xây dựng biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ
hiệu quả nền kinh tế, bảo vệ lợi ích quốc gia và phù hợp với điều kiện hội

nhập. Để thiết kế được biểu thuế này, song song với việc xác định mức bảo
hộ hiệu quả cho từng ngành kinh tế theo từng cấp độ bảo hộ, cần sắp xếp lại

22


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

các mức thuế suất theo hướng thu hẹp số lượng mức thuế suất và phân loại
hàng hoá theo biểu thuế cần phải tuân theo quy định trong danh mục mô tả
hàng hoá của tổ chức hải quan thế giới.
Phải xây dựng được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với điều kiện
Việt Nam. Nước ta tham gia hội nhập ở xuất phát thấp so với các nước khác
trong khu vực, hầu hết các doanh nghiệp trong nước còn non trẻ do đó duy
trì bảo hộ trong những năm trước mắt là cần thiết. Tuy nhiên, cần xác phải
đặc biệt quan tâm và quản lý vấn đề bảo hộ này. Cần xác định ngành nào cần
bảo hộ, mức độ, thời gian và điều kiện bảo hộ, không nên bảo hộ một cách
tràn lan. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay việc xác định mức bảo
hộ cần phải tuân theo nguyên tắc giảm dần vì chúng ta chỉ có hai mốc thời
gian để chấm dứt bảo hộ. Đó là năm 2006 sản xuất trong nước sẽ không còn
được bảo hộ trước hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN và năm 2020 sẽ
không còn bảo hộ trước hàng của APEC, WTO do đó có thể coi năm 2020 là
mốc chấm dứt hoàn toàn bảo hộ. Thêm vào đó, cần khẩn trương xây dựng và
công bố công khai rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam đánh gía đúng những cơ hội và thách thức từ đó có
những chương trình thích ứng kịp thời và tận dụng những cơ hội có được.
Xét về nội dung của từng sắc thuế cũng cần có những thay đổi cho
phù hợp với hoàn cảnh của nền kinh tế hiện nay. Đối với thuế giá trị gia

tăng, cần khẳng định đây là một luật thuế tiến bộ nhưng việc vận dụng ở Việt
Nam chưa mấy thành công vì còn nhiều điểm chưa phù hợp như mức thuế
xây dựng còn quá cao, còn nhiều trường hợp còn trùng lặp. Phương pháp xử
lý giảm 50% thuế cho hàng loạt đối tượng không thể coi là cách xử lý tối ưu
để tháo gỡ khó khăn cho các nhà doanh nghiệp nhất là trong hoàn cảnh thực
hiện các luật thuế ở nước ta vốn đã lỏng lẻo. Qua thực tiễn, vấn đề cần được
xem xét điều chỉnh thuế suất từ luật định mức thuế mang tính khả thi phổ
biến trước mắt là 5% hoặc 10% tiến tới xây dựng một mức thuế suất đơn
nhất để việc vận dụng được thuận lợi. Phải giải quyết thoả đáng việc khấu
trừ đầu vào đảm bảo tính ưu việt của thuế giá trị gia tăng là không đánh
chồng chéo. Chế độ thu thuế khoán chỉ nên áp dụng với hộ kinh doanh cá
thể trực tiếp bán lẻ cho người tiêu dùng, với mức thuế suất sát với thực tế
kinh doanh, hạn chế diện nộp thuế qua khoán.
Về thuế tiêu thụ đặc biệt cần nghiên cứu xây dựng hệ thống thuế suất
đơn giản không qua chỉnh lý phù hợp với trình độ quản lý của cơ quan thuế.
Khắc phục ngay tình trạng xây dựng thuế suất quá cao nhưng do không có
điều kiện quản lý chặt chẽ nên đại bộ phận hàng hoá kê khai đều chỉ nộp
theo thuế suất thấp nhất.

23


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Về thuế thu nhập doanh nghiệp cần quy định rõ hơn các chi phí hợp lý
được trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế đảm bảo thực hiện thống nhất
giữa các địa phương. Giảm thuế suất và bỏ thuế thu nhập bổ sung nhằm tạo
điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp.

Đối với thuế thu nhập cá nhân cần thay thế thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao bằng thuế đánh lên thu nhập cá nhân từ mọi nguồn
như tiền lương; kinh doanh công, thương nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, từ
hoạt động cho vay, nhượng bán cổ phiếu, trái phiếu và từ những nguồn khác
như thừa kế, quà biếu, trúng thưởng xổ số v.v..trên mức khởi điểm tính thuế.
Cân nhắc giữa hai phương án nâng mức khởi điểm tính thuế hiện nay đối với
người Việt Nam hay vẫn giữ mức khởi điểm khoảng 2 triệu đồng nhưng
điều chỉnh thuế suất xuống mức thấp nhất. Theo phương án giảm mức thuế
suất, số người nộp thuế được mở rộng, với mức thuế phải nộp thấp nhưng
Nhà nước vẫn có được một nguồn thu khá lớn.
Về thuế xuất nhập khẩu cần điều chỉnh thuế suất phù hợp với thông lệ
quốc tế và quy trình hội nhập AFTA, CEFT, WTO, …
Ban hành thuế sử dụng đất thay thế thuế sử dụng đất nông nghiệp và
thuế nhà đất để đơn giản hệ thống chính sách thuế và đảm bảo mối tương
quan về mối tương quan về mức độ động viên giữa các đối tượng sử dụng
đất khác nhau. Thuế sử dụng đất cần tính trên giá trị đất khác nhau, phù hợp
với biến động phức tạp của thị trường đất nhằm phát huy tác dụng điều tiết
vĩ mô với từng loại đất. Thuế suất chỉ cần quy định một mức thống nhất, tính
trên giá đất ổn định khác nhau. Trong nông nghiệp cần có ưu đãi, miễn giảm
thuế sử dụng đất đối với những vùng được quy hoạch phát triển theo hướng
chuyên canh sản xuất lương thực và nông sản là nguyên liệu chế biến hàng
xuất khẩu, vùng chuyên canh cung cấp cho các khu công nghiệp, đô thị. Đất
trong vùng chuyên canh sử dụng không đúng mục đích sẽ phải chịu nộp thuế
cao. Cần chiếu cố đối với vùng sâu vùng xa để khuyến khích định canh định
cư, phát triển sản xuất nông nghiệp phù hợp với thế mạnh của từng vùng.
Ban hành thuế trước bạ thay thế lệ phí trước bạ, đảm bảo tính pháp lý
cao đối với khoản thu này - một khoản thu về các loại tài sản Nhà nước cần
quản lý, động viên đóng góp. Thuế trước bạ áp dụng đối với cả trường hợp
chuyển quyền sử dụng đất nên có thể bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất nằm
trong giá chuyển nhượng. Trong luật thuế cần có quy định chặt chẽ về thời

hạn đăng ký sau khi phát sinh quyền sở hữu, quyền sử dụng hay chuyển
nhượng tài sản. Khắc phục tình trạng buôn bán tài sản chỉ làm chứng từ viết
tay, thoả thuận riêng với nhau để trốn thuế. Mặt khác cần xem xét xây dựng
các mức thuế suất thích hợp với từng loại tài sản, với một số trường hợp
chuyển nhượng đặc biệt để việc đánh thuế được hợp lý.

24


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ban hành thuế kinh doanh thay thế thuế môn bài. Tính chất của thuế
môn bài đến nay không còn phù hợp với tên gọi nữa. Thuế kinh doanh vẫn
giữ mục đích của thuế môn bài là phục vụ yêu cầu kiểm kê, kiểm soát mọi
cơ sở kinh doanh vào đầu mỗi năm hoặc khi cơ sở bắt đầu khai hoạt động.
Về thuế tài nguyên, thực chất không phải là thuế mà mang nội dung
chuyển nhượng tài sản quốc gia cho người khai thác khoáng sản, lâm sản và
thuỷ sản do đó nên chuyển thuế tài nguyên thành khoản ‘thu về chuyển
nhượng tài nguyên quốc gia”, vừa đúng tính chất, vừa có căn cứ xác định
đúng đắn giá chuyển nhượng. Đồng thời giải quyết tình trạng cùng một tài
nguyên lại phải nộp hai loại thuế: Thuế giá trị gia tăng và thuế tài nguyên.
Nội dung thuế cần mở rộng theo hướng mở rộng diện đánh thuế với mọi tài
nguyên khai thác, có sự điều chỉnh thuế suất tăng lên gắn với bảo vệ môi
trường.
2. Kiến nghị.
Cần xem xét, sắp xếp, mở rộng diện thu trong từng sắc thuế, hạn chế
đến mức tối đa các trường hợp miễn giảm thuế với những điều kiện, thủ tục
thẩm quyền rõ ràng. Đồng thời, phải có những quy định đầy đủ, cụ thể về

đối tượng đánh thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, thuế suất, chế độ
khai báo, nộp thuế nhằm khắc phục cách hiểu, cách làm tuỳ tiện. Cơ quan
thuế cần hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tự kiểm tra, tính thuế, nộp
thuế, tự kê khai và nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cán bộ thuế chỉ quản lý
kiểm tra tính thuế của doanh nghiệp và xử lý khi có sai phạm. Chính sách
động viên về thuế cần có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc lâu dài
cho ngân sách nhà nước. Cơ cấu thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao
mà cần tính toán kỹ lưỡng, phù hợp khả năng đóng góp của các đối tượng
nộp thuế đảm bảo tính khả thi của các luật thuế. Hệ thống thuế suất ở nhiều
nước cho thấy, nếu ở mức vừa phải thì số thu được nhiều hơn là để ở mức
cao. Thuế càng nặng thì người nộp thuế càng tìm cách trốn lậu thuế, kể cả
thông đồng với người cán bộ thuế. Khi tình trạng trốn lậu thuế trở thành phổ
biến, việc đối phó thường tốn kém, ít hiệu quả.
Kinh nghiệm thực tế của nhiều nước cho thấy, tính hiệu quả của hệ
thống thuế cần phải được tính toán cụ thể, dựa trên sự so sánh giữa số thuế
thu được với toàn bộ chi phí bỏ ra để thu thuế, kể từ việc tổ chức tuyên
truyền, giải thích, quản lý, tổ chức kê khai, đến bộ máy hành thu của thuế,
kiểm tra, ngăn chặn trốn lậu thuế. Qua nghiên cứu chính sách thuế ở nhiều
nước, kết luận được khẳng định là thuế suất đơn giản được quy định cụ thể
rõ ràng, với mức vừa phải là yếu tố quyết định hiệu quả của chính sách thuế.
Tất nhiên, cũng không thể bỏ qua các yếu tố khác góp phần quan trọng vào
hiệu quả thu thuế, như trình độ dân trí về thực hiện nghĩa vụ khai báo , nộp

25


×