Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thực trạng nợ đọng và công tác thu bhxh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.32 KB, 31 trang )

Trường ĐH Lao động Xã hội

MỤC LỤC

Hoàng Thị Quỳnh

1

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
CHƯƠNG I :
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC TRẠNG NỢ ĐỌNG,CÔNG TÁC THU BHXH
CỦA DNNQD
1. Một số khái niệm
1.1.Khái niệm về BHXH
1.2 Khái niệm về DNNQD và thành phần kinh tế của DNNQD
2.Thực trạng nợ đọng BHXH
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI DOANH
NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI BHXH QUẬN BA ĐÌNH GIAI ĐOẠN
20013 – 2016
1. Đặc điểm tình hình thực hiện chính sách BHXH tại BHXH quận Ba Đình
1.1. Khái quát về đơn vị BHXH quận Ba Đình.........................................
1.2.Vị trí, chức năng..............................................................................
1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH quận Ba Đình.............................
1.4.Cơ cấu tổ chức
2.Kết quả thu BHXH của khu vực ngoài quốc doanh tại BHXH Quận
Ba Đình giai đoạn năm 2013 - 2016 và số người tham gia..............
2.2.1. Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH......................................


2.2.2. Số tiền thu.......................................................................................
2.2.3. Tình hình nợ đọng...........................................................................
2.3. Đánh giá chung về công tác thu BHXH bắt buộc của khối
DNNQD
tại BHXH Ba Đình trong giai đoạn 2013 2016.............................
2.3.1. Ưu điểm...........................................................................................
2.3.2. Tồn tại.............................................................................................
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại.................................................................
2.3.3.1. Về phía doanh nghiệp.................................................................
2.3.3.2. Về phía người lao động...............................................................
2.3.3.3. Về phía tổ chức công đoàn..........................................................
2.3.3.4. Về phía nhà nước........................................................................
2.3.3.5. Về phía cơ quan BHXH...............................................................
2.3.3.6. Một số nguyên nhân khác ..........................................................
CHƯƠNG III :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI
DNNQD TẠI BHXH QUẬN BA ĐÌNH
Hoàng Thị Quỳnh
Lớp Đ10 BH03
2
1. Định hướng phát triển công tác thu BHXH bắt buộc trong thời gian


Trường ĐH Lao động Xã hội

CHƯƠNG I :
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC TRẠNG NỢ ĐỌNG,CÔNG TÁC THU
BHXH CỦA DNNQD
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.Khái niệm về BHXH
Trên bình diện quốc tế, khái niệm chung của ILO về ASXH ( trong
Công ước 102, 1952) cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. BHXH có
thể hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh
tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản,
TNLĐ, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
BHXH trước hết là một hình thức bảo hiểm nhưng mang tính chất
xã hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự bảo hộ của nhà nước, chủ yếu nhằm
mục đích đảm bảo thu nhập cho người lao động và an toàn xã hội.
1.2. Khái niệm về DNNQD và thành phần kinh tế của DNNQD
Theo Luật DN Nhà nước được Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 20/04/1995, luật DN sửa đổi được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 12/06/1999 và luật khuyến khích đầu tư trong nước được
Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/06/1994 có quy định :
"Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh".
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các DNNQD là toàn bộ các đơn vị sản xuất kinh doanh tư nhân của
tư nhân đứng ra thành lập, đầu tư kinh doanh và tổ chức quản lý.
Các DNNQD bao gồm:
- DN tư nhân

Hoàng Thị Quỳnh

3


Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
- Các công ty:CTCP, CTTNHH, Công ty hợp danh, DN có vốn
đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tập thể, đoàn thể.
Thu BHXH của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là việc nhà nước
dùng quyền lực của mình bắt buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phải đóng BHXH theo mức phí quy định. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ
tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ
BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH.
2.Thực trạng nợ đọng BHXH
“Điều đáng lo ngại nhất là hiện nay có khoảng 1.400 tỉ đồng nợ BHXH từ
các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, giải thể, phá sản hoặc chủ bỏ trốn.
Số tiền này được theo dõi trên hệ thống sổ sách đã hơn 10 năm. Đây là
dạng “nợ treo” hầu như không thể thu hồi và quyền lợi của người lao động
ở các doanh nghiệp này cũng bị “treo” chưa được giải quyết. Số nợ này đã
làm cho hơn 193 nghìn người lao động bị ảnh hưởng đến quyền lợi”
Đây là thông tin được ông Đào Việt Ánh - Phó Tổng giám đốc BHXH Việt
Nam đưa ra tại buổi Tọa đàm trực tuyến “Gỡ vướng trong khởi kiện, trốn
đóng BHXH”, mặc dù nhiều biện pháp được triển khai nhưng tình trạng nợ
đóng, trốn đóng BHXH diễn ra khá phổ biến. Hiện BHXH Việt Nam đang
quản lý khoảng hơn 235.000 doanh nghiệp, trong khi đó, dữ liệu cơ quan
thuế quản lý khoảng gần 500.000 doanh nghiệp. Như vậy, có khoảng 50%
số doanh nghiệp chưa tham gia BHXH hay gọi là trốn đóng BHXH.
“Tình trạng nợ đóng BHXH tương đối phức tạp. Cuối năm 2015, số nợ
BHXH là gần 10.000 tỉ đồng; cuối năm 2016 là khoảng 7.500 tỉ đồng… Số
nợ trước khi chuyển sang cơ quan công đoàn có giảm nhưng xu hướng gần
đây có gia tăng.

Tình trạng nợ BHXH diễn ra ở tất cả các loại hình kinh tế, nhưng tập trung
vào khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguyên nhân chính là do tính
tuân thủ pháp luật BHXH của chủ sử dụng lao động chưa cao, chưa nhận
thức đầy đủ về trách nhiệm, chưa quan tâm đến quyền lợi BHXH đối với
người lao động”, ông Đào Việt Ánh nói.
Tính đến hết quý I/2017, một số doanh nghiệp nợ BHXH với số tiền lớn,
thời gian nợ kéo dài như: Công ty Cổ phần xe khách Phương Trang
(TP.HCM) 28,7 tỉ đồng; Công ty TNHH Nam Phương (TP.HCM) 20,9 tỷ
đồng; Công ty Cổ phần Lilama 3 (Hà Nội) 25,4 tỉ đồng; Công ty TNHH
May mặc xuất khẩu VIT Garment (Hà Nội) 19 tỉ đồng…
CHƯƠNG II :

Hoàng Thị Quỳnh

4

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI BHXH QUẬN BA
ĐÌNH GIAI ĐOẠN 2013 - 2016
1. Đặc điểm tình hình thực hiện chính sách BHXH tại BHXH quận Ba Đình
1.1 Khái quát về đơn vị BHXH quận Ba Đình.
Cùng với sự ra đời của ngành BHXH từ trung ương đến địa phương
thì BHXH quận Ba Đình được thành lập theo quyết định số 01/QĐ_TCCB
ngày 12/07/1995 của tổng giám đốc BHXH BHXH Việt Nam và chính thức
đi vào hoạt động 08/1995.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH thành phố Hà Nội, của Quận ủy,

HĐND, UBND quận Ba Đình, tập thể cán bộ công nhân viên chức của
BHXH quận Ba Đình luôn đoàn kết, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ quyết tâm
phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao ngay từ những tháng đầu quý năm
2010. Ban Giám đốc đã xem xét đặc điểm của từng loại hình đơn vị để giao
kế hoạch thu BHXH cho mỗi cán bộ phụ trách số đơn vị phù hợp với khả
năng của từng người, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoàn thành chỉ tiêu
thu được giao. Tập thể cán bộ viên chức BHXH quận đã cùng nhau đoàn
kết thi đua hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần đảm bảo
ASXH, giữ vững an ninh chính trị xã hội ở địa phương.
1.2. Vị trí, chức năng:
BHXH quận Ba Đình đặt tại 71 Quán Thánh - Ba Đình - Hà Nội có
chức năng giúp Giám đốc BHXH Thành phố Hà Nội tổ chức thực hiện chế
độ, chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn quận theo phân cấp quản lý của
BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật.
BHXH quận Ba Đình có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng.
BHXH quận Ba Đình chịu sự quản lý trực tiếp và toàn diện của
BHXH thành phố Hà Nội; chịu sự quản lý hành chính nhà nước của UBND
quận Ba Đình.
1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH quận Ba Đình:
- Xây dựng trương trình kế hoạch trình Giám Đốc BHXH thành phố
duyệt và tổ chức thực hiện.
- Tiếp nhận việc đăng ký ban đầu của đối tượng tham gia BHXH trên
địa bàn quận.
- Theo dõi các đơn vị thuộc diện đóng BHXH theo đúng qui định,
hướng dẫn các đơn vị lập danh sách người lao động, đôn đốc kết hợp các
Hoàng Thị Quỳnh

5

Lớp Đ10 BH03



Trường ĐH Lao động Xã hội
hình thức phạt tiền để các đơn vị đóng BHXH một cách đầy đủ và đúng
thời gian qui định. Hàng tháng BHXH quận phải nắm được danh sách
người lao động tham gia BHXH.
- Tiếp nhận ban đầu đơn yêu cầu hưởng BHXH, đăng ký thu chi và
tiếp nhận đơn yêu cầu.
- Tiếp nhận người đến đăng ký BHXH làm thủ tục di chuyển sang
nơi khác theo qui định của BHXH.
- Quản lý, lưu trữ, khai thác danh sách đóng, hồ sơ hưởng BHXH.
- Lập dự toán, quyết toán thu chi theo qui định của cấp trên và gửi
lên BHXH thành phố.
- Điều chỉnh lương, trợ cấp theo qui định của pháp luật.
- Thực hiện chi trả BHXH cho các đối tượng hưởng do địa bàn quản
lý đó là chi cho các chế độ: trả lương hưu trí, trợ cấp ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất theo qui định.
- Tổ chức xét duyệt, chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, chi nghỉ dưỡng
sức ở những đơn vị do BHXH thành phố ủy quyền chi trả.
- Thực hiện chi trả các chế độ hàng tháng cho đối tượng hưởng lương
hưu, trợ cấp BHXH trên địa bàn quản lý.
- Lập xét duyệt dự toán chi BHXH.
- Quản lý và tổ chức chi trả cho đối tượng hưởng lương hưu và trợ
cấp hưởng BHXH hàng tháng.
- Tổ chức chi trả đối tượng hưởng trợ cấp BHXH 1 lần
- Thực hiện chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe.
- Định kỳ hoặc đột xuất BHXH quận có trách nhiệm kiểm tra,việc
chi trả BHXH ở đơn vị sử dụng lao động.
- Thực hiện công tác BHXH tự nguyện.
GIÁM ĐỐC

1.4. Cơ cấu tổ chức
Hình 1: Sơ đồ Cơ cấu tổ chức tại BHXH quận Ba Đình

P.GIÁMĐỐC

Hoàng
Thị Quỳnh
Bộ phận
quản lý thu

P.GIÁMĐỐC

Bộ phận
chính sách
quản lý hồ sơ

6

Bộ phận kế
toán tài vụ

Lớp Đ10
BH03
Bộ phận
giám định


Trường ĐH Lao động Xã hội

Nguồn : BHXH quận Ba Đình

Trong đó có :
- 1 Giám đốc: quản lý và điều hành
- 2 Phó giám đốc: quản lý và điều hành
- 5 Cán bộ chính sách - lưu trữ hồ sơ: Giải thích những thắc mắc của
các đối tượng, giải thích về các chế độ cho NLĐ là hưu trí, thai sản, tử tuất,
lưu trữ hồ sơ, rút trả hồ sơ cho NLĐ khi giải quyết chế độ tử tuất.
- 17 Cán bộ quản lý thu và cấp sổ BHXH: theo dõi ghi chép kết quả
đóng BHXH, hướng dẫn đơn vị kê khai để cấp sổ BHXH cho người LĐ sau
đó cập nhật vào hồ sơ gốc. Cấp sổ BHXH cho các đơn vị tới đăng ký
BHXH, trực tiếp làm việc với các đơn vị sử dụng lao động.
- 3 Cán bộ phụ trách BHYT: Cấp phát thẻ, sửa đổi thẻ BHYT cho các
đối tượng tham gia.
- 2 Cán bộ phụ trách BHXH tự nguyện: Hướng dẫn cho người tham
gia BHXH tự nguyện về các thủ tục, mức đóng, mức hưởng.
- 7 Cán bộ kế toán tài vụ: Tính lương hưu, tiền trợ cấp cho các đối
tượng hưởng, thực hiện chi trả hàng tháng, cuối tháng phải lập lại báo cáo
các kết quả thu chi trong tháng.
- 1 Cán bộ Giám định: Xác nhận sự hợp lệ của thẻ BHYT của người
khám, giám định chi phí khám chữa bệnh.
Hình 2 : Biểu đồ cơ cấu cán bộ tại BHXH Quận Ba Đình

Hoàng Thị Quỳnh

7

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội


Nguồn : BHXH Quận Ba Đình
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, số lượng cán bộ làm công tác thu BHXH
chiếm đến 45% tổng số cán bộ hiện đang làm việc tại quận Ba Đình. Qua
đó có thể thấy rằng công tác thu là một công tác trọng tâm của cơ quan
BHXH và thu BHXH là một nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động của cơ
quan BHXH.
2.2. Kết quả thu BHXH của khu vực ngoài quốc doanh tại BHXH
Quận Ba Đình giai đoạn năm 2013 - 2016 và số người tham gia.
2.2.1. Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tại Quận Ba Đình, số lượng
DNNQD đều tăng qua mỗi năm. Trong các khối tham gia BHXH tại địa
bàn quận Ba Đình thì khối DNNQD luôn là khối chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Điều này cho thấy khối DNNQD là khối có tiềm năng thu rất lớn, sẽ là một
nguồn thu chủ yếu cho quỹ BHXH. Cần phải tập trung vào phát triển công
tác thu của khối này.
Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của khối DNNQD

Năm

Số
DNNQD
(đơn vị)

2013
2014
2015
2016

1.030
1.335

1541
1.735

Hoàng Thị Quỳnh

Tổng số đơn
vị tham gia
BHXH
(đơn vị)
1.570
1.970
2.139
2.324

Tỷ
trọng
(%)
65,6
67,76
72,04
74,65
8

Lượng
Tốc độ tăng
tăng giảm trưởng liên
tuyệt đối
hoàn
(đơn vị)
(%)

305
206
194

29,61
15,43
12,59
Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Có thể thấy, từ năm 2013 đến năm 2016, số lượng DNNQD liên tục
tăng dù tốc độ tăng là giảm dần. Năm 2013, toàn quận mới chỉ có 1.030
đơn vị ngoài quốc doanh, chiếm 65,6% tổng số đơn vị tham gia BHXH của
quận nhưng đến năm 2014, với tốc độ tăng 29,61% tương ứng 305 đơn vị,
con số này đã lên đến 1.335 doanh nghiệp, đạt tỷ trọng 67,76%. Năm 2015,
với tốc độ tăng 15,43% tương ứng 206 đơn vị, số DNNQD đã chiếm đến
72,04% tổng số đơn vị tham gia BHXH tại Ba Đình. Đến năm 2016, nền
kinh tế Việt Nam phải hứng chịu nhiều ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
toàn cầu nhưng số lượng các DNNQD tại Ba Đình vẫn tiếp tục tăng. Toàn
quận có 1.735 DNNQD, chiếm 74,65% tổng số đơn vị tham gia BHXH trên
địa bàn quận. So với năm 2015, số doanh nghiệp đã tăng 12,59% tương
ứng với 194 đơn vị. Mặc dù tốc độ tăng có giảm nhưng tỷ trọng và số
lượng DNNQD vẫn là khá lớn.
Như vậy, số lượng DNNQD tham gia BHXH ngày càng tăng.
Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục tham gia BHXH đã ngày càng được đơn
giản hóa, công tác tuyên truyền về BHXH đến các doanh nghiệp được thực
hiện tốt nên ý thức tham gia BHXH của họ tăng lên. Bên cạnh đó, cơ chế
thành lập doanh nghiệp được mở rộng cũng khiến cho số lượng doanh

nghiệp mới được thành lập ngày càng nhiều góp phần làm tăng số lượng
doanh nghiệp tham gia BHXH tại Quận Ba Đình. Ngoài ra, với vị trí địa lý
thuận lợi, là nơi tập trung đông dân cư, tình hình an ninh trật tự ổn định thì
quận Ba Đình cũng là một địa điểm lý tưởng thu hút các công ty đặt trụ sở
kinh doanh của mình.
2.2.2. Số tiền thu.
Là một trong ba Quận lớn của Thành phố Hà Nội với diện tích rộng
và số lượng doanh nghiệp lớn, hàng năm số thu BHXH bắt buộc của các
DNNQD tại Ba Đình là rất lớn. Từ năm 2013 đến 2016, số thu này liên tục
tăng lên.
Bảng 2 : Số thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2013- 2016 của khối DNNQD
Đơn vị: Đồng
Năm

2013

Hoàng Thị Quỳnh

2014

2015
9

2016
Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
BHXH


75.623.380.83
1

Lượng tăng
giảm tuyệt
đối (đồng)
Tốc độ phát
triển liên
hoàn (%)

130.009.675.98
2
54.386.295.151

71,97

136.674.985.00
141.203.818.365
8
6.665.309.026

5,12

4.348.833.357

3,31

Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Số thu BHXH bắt buộc tăng trong giai đoạn 2013 - 2016 là do:
- Sự điều chỉnh của mức lương tối thiểu của Nhà nước đối với các

DNNQD. Trong vòng 4 năm, Nhà nước ta đã thực hiện 3 lần tăng lương tối
thiểu vùng cho người lao động trong khối ngoài quốc doanh từ mức
620.000 đồng lên mức 1.050.000 đồng. Việc tăng lương này nhằm mục
đích đảm bảo mức sống của người lao động trước các biến động của nền
kinh tế như lạm phát, khủng hoảng kinh tế.... Mà mức thu BHXH dựa trên
mức tiền lương tiền công của người lao động. Do đó, khi mức lương tối
thiểu vùng tăng lên làm mức lương của người lao động tăng lên thì số thu
BHXH bắt buộc cũng tăng lên.
- Sự tăng lên của số lượng DNNQD và số lao động qua từng năm
cũng làm cho số thu BHXH bắt buộc tăng lên. Số người tham gia càng
nhiều thì số tiền nộp BHXH sẽ càng lớn.
- Sự gia tăng của mức đóng theo quy định của Luật BHXH. Trước
năm 2016, người lao động đóng 5% mức tiền lương tiền công hàng tháng,
người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ lương. Nhưng từ năm 2016,
mức đóng của người lao động tăng lên 6% và người sử dụng lao động tăng
lên 16%, mức đóng BHYT tăng từ 3% lên 4,5%. Đây là một trong những
nguyên nhân góp phần làm tăng số thu BHXH bắt buộc.

2.2.3. Tình hình nợ đọng.

Hoàng Thị Quỳnh

10

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội

Bảng 3 : Số liệu nợ đọng của khối DNNQD giai đoạn 2013 - 2016

Đơn vị: Đồng
Năm
BHXH

2013
8.171.903.45
0

Lượng
tăng giảm
tuyệt đối
(đồng)
Tốc độ
phát triển
liên hoàn
(%)

2014

2015

2016

6.894.372.986

4.578.368.098

3.218.001.636

-1.277.530.464 -2.316.004.888 -1.360.366.462


-15,63

-33,59

-29,71

Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Có thể thấy, từ năm 2013 đến năm 2016, số tiền nợ đọng của các
DNNQD ngày càng giảm dần. Năm 2013, tổng số nợ BHXH bắt buộc của
khối là 8.171.903.450 đồng thì năm 2008 đã giảm xuống 15,63%(tương
ứng 1.277.530.464) còn 6.894.372.986 đồng.
Năm 2015, với mức giảm 33,59% so với năm 2014 (tương ứng
2.316.004.888 đồng), số nợ của toàn khối DNNQD tại quận Ba Đình chỉ
còn 4.578.368.098 đồng.

Hoàng Thị Quỳnh

11

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Tính đến hết năm 2016, tổng số nợ BHXH bắt buộc của các DNNQD
chỉ còn 3.218.001.636 đồng, giảm 29,71% so với năm 2013.
Nợ đọng BHXH sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn quỹ BHXH. Nếu các
doanh nghiệp nợ trong thời gian dài, với số tiền lớn thì sẽ làm thâm hụt
quỹ. Điều này sẽ làm giảm khả năng chi trả chế độ cho người lao động của
quỹ BHXH do thu không đủ chi và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người

lao động.
Bên cạnh đó, nguồn thu không đủ làm cho hệ thống BHXH không có
đủ kinh phí để hoạt động, không thể tổ chức được nhiều các hoạt động
nâng cao chất lượng công việc của cả hệ thống BHXH trong đó có cả công
tác thu làm cho số thu sẽ càng ít đi.
Nợ đọng không chỉ ảnh hưởng đến quỹ BHXH, người lao động mà
còn có tác động xấu đến chính bản thân doanh nghiệp.
Trước năm 2013, thì chưa có luật quy định về việc tính lãi số tiền
đóng chậm. Nhưng từ quý 4 năm 2013, cơ quan BHHXH Quận Ba Đình đã
thực hiện tính lãi theo quy định của Nhà nước. Vì vậy mà càng nộp chậm
với số tiền ngày càng nhiều thì số lãi mà doanh nghiệp phải nộp sẽ ngày
càng lớn. Việc này sẽ khiến cho doanh nghiệp mất nhiều chi phí hơn làm
lợi nhuận giảm đi.
* Các trường hợp tính lãi
- Số tiền BHXH chưa đóng, chậm đóng tính theo kỳ hạn đóng theo
định kỳ (đóng hàng tháng hoặc đóng theo quý);
- Số tiền chưa đóng, chậm đóng phải truy đóng do người sử dụng lao
động vi phạm các quy định tại điều 134 Luật BHXH như không đóng, đóng
không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng
không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;
- Số tiền BHXH 2% người sử dụng lao động được giữ lại lớn hơn
số tiền được quyết toán phải đóng vào tháng đầu của quý sau nhưng
không đóng.
- Theo quy định của BHXH Việt Nam số tiền thực đóng BHXH,
BHYT trong kỳ của mỗi đơn vị được phân bổ theo thứ tự sau:
- Tiền nợ BHYT kỳ trước chuyển sang (nếu có).
- Tiền BHYT phải đóng kỳ này.
- Tiền lãi do chậm đóng đến kỳ này (nếu có).
Hoàng Thị Quỳnh


12

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
- Tiền nợ BHXH kỳ trước chuyển sang (nếu có).
- Tiền BHXH phải đóng kỳ này.
* Luật BHXH quy định đơn vị sử dụng lao động giữ lại 2% để trả
kịp thời chế độ ốm đau, thai sản… cho người lao động; Do đó, nếu đơn vị
đã chọn phương án nộp đủ BHXH, BHYT thì phải có phiếu đăng ký
“không giữ lại 2%” nộp cho Cơ quan BHXH trước ngày đầu quý (trường
hợp đơn vị không nộp phiếu đăng ký xem như chọn phương án giữ lại 2%),
khi có quyết toán các chế độ ốm đau, thai sản… cơ quan BHXH sẽ chuyển
đủ số tiền cho đơn vị theo quyết toán được duyệt; Nếu đơn vị đã đăng ký
“không giữ lại 2%” nhưng không thực hiện đúng; số tiền nộp thiếu (2%) sẽ
bị tính lãi chậm nộp theo quy định.
Khi quỹ BHXH không đủ để chi trả cho các chế độ của người lao động
tức là quyền lợi của người lao động không được đảm bảo thì người lao động
sẽ không thể tập trung làm việc. Mất quyền lợi hưởng các chế độ sẽ làm họ lo
lắng cho mình nếu những rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, hàng tháng, tiền lương
họ đều bị doanh nghiệp trích nộp BHXH nhưng thực tế doanh nghiệp lại
không đóng số tiền đó mà sử dụng vào mục đích khác làm cho người lao động
cảm thấy bất công. Do đó họ không thể tập trung làm việc và không muốn
làm việc hết mình khi quyền lợi của họ không được bảo đảm. Việc này dẫn
đến giảm năng suất lao động, tác động trực tiếp lên công việc sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và làm giảm lợi nhuận.
Như vậy, số liệu qua các năm thể hiện tình hình nợ đọng của các
DNNQD tại Quận Ba Đình ngày càng được cải thiện song vẫn chưa hoàn
toàn triệt để.

Hiện nay, thực hiện chỉ thị của BHXH thành phố Hà Nội, BHXH
quận Ba Đình đang tiếp tục hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đưa ra tòa một số
đơn vị nợ tiền BHXH trong thời gian dài với số tiền lớn. Đây là một trong
những biện pháp nhằm răn đe các đơn vị có nợ đọng, cố tình chây ỳ không
đóng BHXH. Năm 2016, BHXH quận Ba Đình mới chỉ khởi kiện được 1
đơn vị và sau khi bị kiện thì đơn vị mới chỉ đóng lại 2/3 số tiền nợ đọng.
Như vậy, mặc dù đây là một biện pháp hữu hiệu song do thủ tục thực hiện
còn phức tạp nên chưa thể phát huy hết hiệu quả của biện pháp này.
2.3. Đánh giá chung về công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD
tại BHXH Ba Đình trong giai đoạn 2013 - 2016.
2.3.1. Ưu điểm.
Hoàng Thị Quỳnh

13

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Trong giai đoạn 2013-2016, cùng với ngành BHXH, BHXH Quận
Ba Đình đã có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao
đặc biệt là trong công tác thu đã đạt được những ưu điểm sau:
- Mức thu luôn đạt và vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đặt ra. Mỗi năm,
trên cơ sở của mức thu năm trước và theo yêu cầu của BHXH thành phố,
BHXH Ba Đình luôn đề ra một mục tiêu phấn đấu cho mình. Với sự nỗ lực
cố gắng của cán bộ nhân viên BHXH, dưới sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh
đạo, BHXH Quận Ba Đình luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ thu mà BHXH
thành phố giao cho thậm chí còn vượt mức chỉ tiêu.
- Số lượng người tham gia BHXH của các DNNQD cũng như số đơn
vị tham gia BHXH ngày càng tăng. Do công tác tuyên truyền được thực

hiện ngày càng tốt hơn nên ý thức tham gia của các DNNQD được cải
thiện. Bên cạnh đó, nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo sự gia tăng
của số doanh nghiệp cũng như số lao động cũng làm cho số đối tượng tham
gia tăng lên. Ngoài ra, việc đơn giản hóa thủ tục tham gia cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp tham gia BHXH ngày một
nhiều hơn. Trước đây, khi hồ sơ thủ tục quá phức tạp khiến cho doanh
nghiệp rất ngại khi phải tham gia, thêm vào đó là ý thức chưa được nâng
cao nên số lượng doanh nghiệp trốn đóng là rất nhiều. Vì vậy, khi các thủ
tục hành chính được đơn giản hóa, hợp lý hóa thì các doanh nghiệp tự giác
tham gia nhiều hơn.
- Số nợ đọng đã giảm đáng kể. Từ năm 2013 đến năm 2016, số nợ
này giảm từ 8.171.903.450 đồng xuống còn 3.218.001.636 đồng. Nguyên
nhân cũng xuất phát từ việc tuyên truyền tốt chính sách BHXH đến người
lao động và người sử dụng lao động giúp nâng cao tinh thần tự giác tham gia
và đóng BHXH. Từ năm 2013, quy định tính lãi số tiền chậm nộp cũng làm
cho các doanh nghiệp tự giác nộp BHXH đầy đủ hơn để tránh việc phải chi
thêm một khoản chi phí là tiền lãi chậm nộp. Tiền nợ càng lâu và càng nhiều
thì lãi phải nộp sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, trong năm 2016, BHXH quận Ba
Đình đã thực hiện kiện ra toàn một số đơn vị nợ đọng trong thời gian dài với
số tiền lớn. Việc này đã răn đe được các doanh nghiệp đang còn nợ vì vậy
cũng thúc đẩy được các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đầy đủ làm giảm số
nợ của toàn khối tại Ba Đình.
- Công tác thu được thực hiện nhanh chóng, chuyên nghiệp, tạo
thuận lợi cho các đơn vị tham gia giao dịch và cán bộ nhân viên trong cơ
Hoàng Thị Quỳnh

14

Lớp Đ10 BH03



Trường ĐH Lao động Xã hội
quan BHXH quận. Với đội ngũ cán bộ 100% có trình độ đại học, nắm rõ
được chuyên môn nghiệp vụ thì mọi công việc được thực hiện nhanh
gọn, đúng luật giúp tiết kiệm thời gian cho cả cơ quan BHXH và đơn vị
tham gia.
2.3.2. Tồn tại
Bên cạnh những mặt tích cực thì công tác thu BHXH của các
DNNQD tại quận Ba Đình vẫn còn những tồn tại:
- Cơ quan BHXH cũng như các ban ngành chức năng có liên quan
vẫn chưa nắm được hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của
doanh nghiệp. Có nhưng DNNQD có đăng kí thành lập nhưng không có trụ
sở giao dịch và hoạt động trong một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng
lao động... Cũng không cơ quan nào quản lý, theo dõi và nắm bắt được
thông tin về những doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh, có mã số thuế
nhưng không có trụ sở làm việc, thực chất có hoạt động hay không, còn
kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi phạm vi hoạt động. Nguyên nhân
dẫn của việc này là do cơ quan BHXH chưa có sự phối hợp tốt với các cơ
quan hữu quan như Sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Lao động - Thương binh và
Xã hội....Đồng thời do không có đủ số lượng cán bộ để đi thanh kiểm tra về
tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
- Công tác phổ biến, hướng dẫn của cơ quan BHXH đến các doanh
nghiệp về những thay đổi trong quy trình thu, thủ tục thu chưa kịp thời
khiến doanh nghiệp không nắm được nghiệp vụ, gây tốn thời gian và công
sức cho cả 2 bên. Chẳng hạn, khi cơ quan BHXH thay đổi biểu mẫu thì
ngành BHXH nói chung, BHXH Ba Đình nói riêng chưa kịp thời gửi công
văn đến đơn vị nên đơn vị chưa biết và phải đi lại nhiều lần. Nguyên nhân
là do cán bộ thu có quá nhiều công việc phải giải quyết nên không có đủ
thời gian để thông báo đến các đơn vị khi có những sự thay đổi về thủ tục.
Bên cạnh đó, mặc dù BHXH Hà Nội đã có trang web riêng để đăng tải

những thông tin cần thiết song các đơn vị rất ít khi truy cập vào để cập nhật
thông tin, do vậy không nắm được những thay đổi một cách kịp thời.
- Tình trạng trốn, nợ, chậm đóng BHXH vẫn xảy ra làm cho công tác
thu không đạt hiệu quả cao. Trong giai đoạn 2013 - 2016, dù số nợ đọng có
giảm xuống nhưng không hoàn toàn được khắc phục triệt để. Vẫn còn tồn

Hoàng Thị Quỳnh

15

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
tại những doanh nghiệp nợ BHXH với số tiền lớn và thời gian dài mà
BHXH Ba Đình không thể truy thu được. Chẳng hạn như Công ty TNHH
Con cáo vàng nợ BHXH từ tháng 3 năm 2014 đến nay với số tiền tính cả
lãi lên tới 753 triệu đồng.
- Cơ quan BHXH Ba Đình liên tục cập nhật sự thay đổi của mức
lương tối thiểu vùng của DNNQD. Song do doanh nghiệp cố tình không
muốn tăng lương do tăng lương sẽ phải tăng chi phí khi nhiều đơn vị khi
lên làm giao dịch thì vẫn để mức lương trả cho người lao động thấp hơn
mức lương tối thiểu vùng. Do vậy các cán bộ thu yêu cầu đơn vị phải về
làm lại bảng lương, quyết định nâng lương cho người lao động. Việc này
gây mất thời gian, làm giảm hiệu quả của công tác thu.
- Tại BHXH Ba Đình, do quá nhiều DNNQD tham gia trong khi số
lượng cán bộ thu chỉ có hạn 17 người nên một cán bộ thu phải quản lý rất
nhiều đơn vị. Vì vậy, việc phải giải quyết một khối lượng công việc lớn
trong cùng một thời gian sẽ làm chậm tiến độ công việc, ảnh hưởng đến
công tác thu BHXH.

- Phần mềm BHXH mà các cán bộ thu hiện nay đang sử dụng có một
số hạn chế. Chưa đảm bảo được tính quản lý đầy đủ, mà chỉ mang tính chất
thống kê, ví dụ như: nếu mang tính quản lý cần đòi hỏi cả phần giải quyết
nghiệp vụ, theo dõi và cảnh báo, vì hiện nay các trường hợp nghỉ thai sản
hết thời gian, phàn mềm này chưa cảnh báo được, hay một số nghiệp vụ
khác nữa, khiến cán bộ thu bị thụ động khi phát hiện ra nếu như đơn vị
không báo cáo. Hay trong phần nguyên nhân giảm lao động của doanh
nghiệp, tất cả các lao động giảm do chuyển nơi làm việc, nghỉ hưu… tất cả
đều được ký hiệu GH( giảm hẳn). Việc này làm cho cán bộ thu không phân
biệt được nguyên nhân nghỉ việc khi tìm bằng phần mềm gây khó khăn khi
gặp vướng mắc cần phải kiểm tra.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý BHXH
-BHYT
- BHTN ở toàn ngành BHXH nói chung và BHXH Ba đình nói riêng
cũng đã được áp dụng. Số lượng máy tính được trang cấp đầy đủ đến từng
cá nhân song việc sử dụng chưa được hiệu quả và đồng bộ nên ảnh hưởng
rất lớn đến công tác thu. Điển hình là việc lao động chuyển nơi làm việc
song do doanh nghiệp báo giảm không kịp thời dẫn đến tình trạng đóng ở

Hoàng Thị Quỳnh

16

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
hai nơi. Nguyên nhân là do mạng BHXH dù đã xây dựng được mạng LAN
trong cơ quan song chua liên kết được giữa các quận, huyện, thành phố trên
cả nước với nhau. Vì vậy khi có trường hợp trùng hay những sai sót trong

công tác quản lý giữa các quận thì các cán bộ thu rất khó nắm được dẫn đến
có nhiều sai lầm trong công tác thu. Ngoài ra việc người lao động chuyển
địa điểm làm việc sang nơi khác thì mặc dù ở cơ quan BHXH cũ mà trước
đây họ đã tham gia cán bộ đã phải nhập quá trình công tác nhưng sang địa
bàn mới thì cán bộ thu vẫn phải nhập lại quá trình này tốn rất nhiều thời
gian. Trong khi đó, nếu có sự liên kết giữa các cơ quan BHXH với nhau thì
chỉ cần chuyển qua mạng quá trình đó thì cán bộ thu sẽ không phải nhập lại
quá trình công tác của người lao động.
- Công tác thanh kiểm tra, đốc thu BHXH đã được thực hiện nhưng
chưa thường xuyên. Hàng tháng, các cán bộ thu sẽ xuống đơn vị còn đang
nợ đọng, chậm nộp BHXH của mình để kiểm tra tình tình thực hiện chế độ
BHXH và đốc nợ. Nhưng hiện nay, do một cán bộ quản lý quá nhiều đơn vị
và khối lượng công việc phải giải quyết quá lớn nên việc đi kiểm tra, đốc
nợ không thể thực hiện được thường xuyên và ở tất cả các đơn vị nợ, chậm
đóng. Hầu như việc đốc thu mới chỉ dừng lại ở việc gửi công văn đốc thu
về các đơn vị. Điều này làm cho các đơn vị chây ỳ, không muốn nộp
BHXH gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác thu.

2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại.
Những tồn tại trên đều xuất phát từ một số những nguyên nhân
khách quan và chủ quan sau:
2.3.3.1 Về phía doanh nghiệp
DNNQD là loại hình doanh nghiệp không có sự tham gia của Nhà
nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ hầu như chỉ tập trung vào
việc sản xuất kinh doanh mà chưa quan tâm đến việc đóng BHXH. Hơn
nữa Người sử dụng lao động luôn muốn trốn đóng, nợ BHXH vì họ cho
rằng tham gia BHXH họ sẽ mất thêm một khoản chi phí đồng nghĩa với
việc lợi nhuận giảm đi.Như vậy, ý thức và sự hiểu biết của người sử dụng
lao động về BHXH là chưa cao dẫn đến tình tráng trốn đóng, nợ đọng.


Hoàng Thị Quỳnh

17

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Ngoài ra, việc khó khăn trong sản xuất kinh doanh cũng làm một
nguyên nhân khiến các doanh nghiệp đôi khi không thể nộp được BHXH.
Nhiều DNNQD có phương pháp kinh doanh không ổn định, cộng với sự
biến động tiêu cực của thị trường sẽ bị đẩy vào tình trạng phá sản, làm cho
người lao động dễ mất việc.
2.3.3.2 Về phía người lao động
Sự hiểu biết của người lao động về quyền được tham gia BHXH là
chưa nhiều nên đôi lúc họ vẫn cùng với người sử dụng lao động vi phạm
Luật BHXH ( thỏa thuận giảm mức lương ghi trong hợp đồng để giảm tiền
đóng BHXH); hay quyền lợi của họ bị ảnh hưởng nhưng họ cũng không hề
hay biết để có những biện pháp yêu cầu người sử dụng lao động đảm bảo
quyền lợi cho mình.
Hơn nữa, do chịu sức ép về việc làm và tiền lương nên người lao
động nhiều khi biết doanh nghiệp có vi phạm song không dám lên tiếng
đấu tranh đòi quyền lợi..
2.3.3.3. Về phía tổ chức công đoàn
Công đoàn là tổ chức đại diện hợp pháp đứng ra bảo vệ quyền lợi
của người lao động. Tuy nhiên ở đa số các doanh nghiệp hiện nay, tổ chức
công đoàn chưa thể hiện được hết vai trò của mình, tiếng nói của công đoàn
chưa có trọng lượng, chưa đủ sức để lên tiếng bảo vệ cho người lao động,
buộc doanh nghiệp phải thực hiện đúng luật. Vì ở các doanh nghiệp, cán
bộ công đoàn đều là kiêm nhiệm, do người sử dụng lao động chỉ định.

Họ cũng như những người lao động khác trong doanh nghiệp, là
người làm công ăn lương, lệ thuộc việc làm và thu nhập vào chủ doanh
nghiệp. Nếu không thực hiện theo sự chỉ đạo của chủ doanh nghiệp thì sẽ
bị điều chuyển, ảnh hưởng tới công việc và thu nhập. Do vậy tổ chức
công đoàn chưa thể phát huy hết tác dụng của mình trong việc bảo vệ
người lao động.
Ở nhiều doanh nghiệp dù đã hoạt động lâu song vẫn chưa thành lập
tổ chức công đoàn và phải đến khi thanh tra lao động hoặc cơ quan BHXH
yêu cầu gắt gao thì họ mới thành lập. Vì vậy người lao động không có tổ
chức đứng ra đại diện cho mình.
2.3.3.4. Về phía Nhà nước.
Hoàng Thị Quỳnh

18

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Chính sách BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, các chế độ, quy
định, luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Nhưng các
cơ quan Nhà nước lại không có những hướng dẫn kịp thời, cụ thể trong
việc triển khai. Do vậy, người lao động, người sử dụng lao động cũng như
cán bộ làm công tác thu khó nắm vững nhiều chính sách làm cho việc triển
khai thực hiện không đúng quy định. Và đôi khi các quy định không chặt
chẽ khiến cho các doanh nghiệp dễ dàng lách luật.
Tình trạng nợ đọng, chậm đóng, trốn đóng vẫn diễn ra vì pháp luật
chưa có các chế tài xử lý thích đáng đối với các trường hợp vi phạm. Hiện
nay, chế tài xử phạt với các doanh nghiệp vi phạm là chưa đủ sức răn đe.
Mức phạt đối với các doanh nghiệp trốn đóng hiện nay là 30 triệu đồng

( Nghị định 86/2010/NĐ-CP). Thực tế nhiều doanh nghiệp khi bị thanh tra
đã sẵn sàng nộp phạt, vì thà chịu mức phạt 30 triệu đồng còn hơn là phải
đóng BHXH tới cả chục tỷ đồng.
Cơ chế xử lý vi phạm hiện nay là không kịp thời. Cơ quan BHXH
nắm chắc nguồn thu nộp BHXH của đơn vị nhưng không có thẩm quyền xử
lý vi phạm vì đây chỉ là cơ quan sự nghiệp. Việc xử lý này lại do chủ tịch
UBND quận huyện, tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra Lao
động - Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Sở Lao động Thương binh
và Xã hội, Chánh thanh tra Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện.
Để có thể xử phạt được thì những người này phải chờ báo cáo từ BHXH,
kiểm tra và làm thủ tục xử phạt. Việc này rất mất thời gian, khiến cho việc
xử lý vi phạm không kịp thời và nhanh chóng, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp kéo dài thời gian trốn đóng, nợ đọng.
2.3.3.5. Về phía cơ quan BHXH
- Hiện nay, cơ quan BHXH quận Ba Đình có 38 cán bộ trong đó có
17 cán bộ thu quản lý gần 2000 doanh nghiệp, thêm việc chi trả lương hưu
và làm thẻ y tế tự nguyện của 14 phường. Như vậy, mỗi cán bộ phải đảm
đương nhiều công việc vì thế việc sai sót, chậm trễ trong việc thực hiện
công tác thu là hoàn toàn có thể xảy ra.
- Điều kiện làm việc chưa đầy đủ, hiện tại cơ quan BHXH chỉ có một
máy photo nhưng đã bị hỏng, máy in do sử dụng lâu ngày nên đã cũ. Vì
vậy, việc in ấn các giấy tờ,thủ tục mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến
tiến độ làm việc.
Hoàng Thị Quỳnh

19

Lớp Đ10 BH03



Trường ĐH Lao động Xã hội
2.3.3.6 Một số nguyên nhân khác
- BHXH Việt Nam chưa xây dựng được một hệ thống mạng liên kết
toàn ngành, giữa BHXH các quận huyên, thành phố với nhau.
- Việc thiết kế các phần mềm chuyên ngành còn một số lỗi khiến cho
phần mềm mà các cán bộ sử dụng hiện nay có những hạn chế gây ảnh
hưởng đến công tác kiểm tra thông tin.
CHƯƠNG III :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI DNNQD
TẠI BHXH QUẬN BA ĐÌNH
1. Định hướng phát triển công tác thu BHXH bắt buộc trong thời gian
tới tại BHXH quận Ba Đình
Trong thời gian tới, Quận Ba Đình tiếp tục xác định khối DNNQD là
một khối có tiềm năng thu lớn. Vì vậy, việc phát triển công tác thu của khối
này là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. BHXH Ba Đình sẽ tiếp tục mở
rộng số lượng người tham gia cũng như số đơn vị ngoài quốc doanh tham
gia BHXH tối đa để có thể khai thác hết tiềm năng thu của khối này.
Bên cạnh đó, sẽ nâng cao công tác quản lý mức tiền lương, tiền công
là cơ sở xác định mức đóng BHXH của người lao động. Việc xác định
chính xác mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng sẽ giúp cho công tác
thu được thực hiện dễ dàng, thu đúng, thu đủ. Quản lý tốt quỹ tiền lương,
tiền công, luôn năm rõ, cập nhật thời điểm tăng tiền lương, tiền công của
người tham gia, không làm thất thu BHXH. Ngoài ra, một nhiệm vụ trọng
tâm nữa được BHXH quận Ba Đình chú tâm đó là nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ công chức về mặt chuyên môn, nghiệp vụ để đảm bảo thực hiện
tốt chất lượng công việc. Với một khối lượng công việc lớn tại BHXH quận
Ba Đình thì cán bộ thu đòi hỏi phải có đủ trình độ nghiệp vụ chuyên
nghiệp, có khả năng chịu được áp lực công việc tốt thì mới có thể làm tốt
được nhiệm vụ được giao.


Hoàng Thị Quỳnh

20

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Về nhiệm vụ chung, trong thời gian tới BHXH quận Ba Đình tiếp tục
định hướng:
* Công tác thu
- Tập trung đôn đốc các cơ quan đơn vị đảm bảo hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch thành phố giao từ 1% so với kế hoạch.
- Tiếp tục chốt, cấp sổ BHXH cho số đối tượng đã tham gia BHXH.
* Tiếp tục triển khai thực hiện Luật BHYT trên địa bàn quận theo
đúng quy định của Nhà nước.
* Phối hợp với UBND các phường tổ chức chi trả lương hưu tại
phường. Phấn đấu hoàn thành tốt công tác chi trả với số tiền ước khoảng
1.150 tỷ đồng.
* Thực hiện tích cực các phong trào thi đua do ngành và địa phương
phát động.
* Xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh
* Phấn đấu năm 2017 đạt cờ thi đua của UBND thành phố.
2. Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện tốt công tác thu
BHXH của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại BHXH Quận
Ba Đình.
2.1. Tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH.
Công tác tuyên truyền về BHXH, BHYT, BHTN nhằm mục đích làm
cho người sừ dụng lao động, người lao động hiểu rõ về ý nghĩa, mục đích

của chính sách BHXH và hiểu quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia
BHXH để từ đó có ý thức chấp hành cao hơn theo quy định của pháp luật
về BHXH. Tuy nhiên, với ý nghĩa khi tham gia là khác nhau, mặt khác
nhận thức của mỗi người là khác nhau nên hình thức và nội dung tuyên
truyền cho người sử dụng lao động và người lao động là khác nhau và phải
phù hợp với những đặc điểm đó.
Đối với người lao động, cần đi sâu vào tuyên truyền về quyền lợi của
các chế độ BHXH mà họ sẽ được hưởng cũng như những điều kiện cần có
để được hưởng các chế độ đó. Từ đó sẽ giúp họ hiểu được lợi ích của
BHXH đối với bản thân và gia đình khi họ gặp phải các rủi ro xã hội. Như
vậy họ sẽ có ý thức hơn trong việc tham gia và yêu cầu doanh nghiệp tham
gia đầy đủ BHXH cho họ.
Hoàng Thị Quỳnh

21

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
Đối với người sử dụng lao động, cần phải để họ thấy rõ được khi
tham gia BHXH họ sẽ có được những lợi ích gì cho doanh nghiệp mình.
Khi khỏe mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử
dụng lao động trả tiền lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản,
TNLĐ, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH trợ cấp thay thế
nguồn thu nhập bị giảm hoặc bị mất, nhờ đó đời sống của bản thân và gia
đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Qua đó, BHXH giúp người lao động
luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với doanh nghiệp, tích cực lao
động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế đem lại
nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nhờ có BHXH, những chi

phí của người sử dụng lao động cho những rủi ro trong sử dụng lao động
cũng được ổn định, có thể dự liệu, hạch toán được. Điều đó giúp cho doanh
nghiệp yên tâm tính toán để phát triển sản xuất không bị phá sản kể cả khi
có những rủi ro lớn xảy ra.
Chúng ta có thể sử dụng đa dạng hóa các hình thức và biện pháp
tuyên truyền để tuyên truyền về BHXH đến người lao động và người sử
dụng lao động.
Có thể sử dụng các phương tiện báo chí, truyền thông như:
- Báo hình: liên kết, phối hợp với các đài truyền hình để làm và trình
chiếu các đoạn quảng cáo tuyên truyền, phát các cuộc thi tìm hiểu, cuộc thi
văn nghệ về BHXH trên các kênh truyền hình. Ngày nay, ti vi là một vật
dụng phổ biến mà bất cứ gia đình, cơ quan nào cũng có. Do vậy đây là một
hình thức tuyên truyền hiệu quả, mọi người đều có thể dễ dàng tiếp cận.
- Báo viết : đăng tải các bài viết, những chính sách mới của Nhà
nước về BHXH và các cuộc thi tìm hiểu trên các báo để bạn đọc có thể dễ
dàng tìm hiểu và nắm được thông tin về những hoạt động, những thay đổi
của pháp luật về BHXH.
- Báo nói: có thể cùng với các đài phát thanh làm các chương trình như
hỏi đáp về Luật BHXH và những vấn đề có liên quan, phát động những cuộc
thi tìm hiểu Luật BHXH. Với hình thức này, bạn nghe đài có thể gọi điện trực
tiếp và được các nhà tư vấn trả lời ngay các khúc mắc về BHXH. Đây cũng là
một phương pháp tuyên truyền khá hiệu quả, giúp cho mọi người có được
những hiểu biết về BHXH một cách nhanh chóng và thuận tiện.
- Mạng Internet: thành lập các trang web riêng của BHXH để đăng
tải các thông tin hoạt động, chế độ chính sách, văn bản chuyên ngành liên
quan đến BHXH. Bên cạnh đó, cần có thêm mục giải đáp để mọi người khi
có thắc mắc có thể truy cập đặt câu hỏi. Đây là hình thức tuyên truyền rất
Hoàng Thị Quỳnh

22


Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
hiệu quả vì ngày nay, internet được mọi người sử dụng rất phổ biến và
không thể thiếu trong mỗi gia đính, cơ quan, doanh nghiệp. Mọi người đều
có thể truy cập internet ở bất cứ đâu bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì
vậy, internet là một công cụ đắc lực trong công tác tuyên truyền về BHXH.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ truyền thông, cần mở các lớp tập
huấn cho cán bộ làm chính sách BHXH để họ có thể nắm được và hiểu rõ
những quy định đã ban hành cũng như những điểm mới trong chính sách
BHXH. Qua đó nâng cao được chuyên môn nghiệp vụ, làm việc hiệu quả,
chính xác hơn.
Có thể kết hợp các buổi sinh hoạt công đoàn hay các buổi gặp gỡ cán
bộ tuyên truyền với người lao động của doanh nghiệp để tiến hành trao đổi,
minh họa bằng những ví dụ thực tế, gần gũi xung quanh, giải đáp thắc mắc
của người lao động về BHXH, BHYT, BHTN
Sử dụng hình thức phát tờ rơi với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, có
hình ảnh minh họa cụ thể đến người lao động.
Tổ chức các cuộc thi viết, tìm hiểu về Luật BHXH.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu thông qua hình thức biểu diễn, ca
nhạc, có nội dung, ý nghĩa về BHXH. Nên tổ chức để người lao động tại
các doanh nghiệp trực tiếp tham gia biểu diễn để họ có ý thức tự giác học
hỏi những vấn đề liên quan đến BHXH.
Để làm được điều này, trước hết chúng ta cần có kinh phí để thực
hiện. Ngoài ra, cần chọn được cán bộ năng nổ, có khả năng tuyên truyền,
có trình độ để có thể tuyên truyền một cách chính xác. Việc tập huấn cho
cán bộ tuyên truyền về phương pháp tuyên truyền cũng rất cần thiết để họ
có cách làm khoa học, hiệu quả.

2.2. Quản lý tốt đối tượng tham gia BHXH của khối DNNQD
Giải pháp này nhằm mục đích giúp cho cơ quan BHXH có thể nắm
rõ và kiểm soát được số lượng doanh nghiệp trên địa bàn thuộc diện tham
gia BHXH và số lao động làm việc thực tế trong mỗi doanh nghiệp để có
thể thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng. Cơ quan BHXH có thể quản lý đối
tượng tham gia thông qua việc phối hợp với các cơ quan sau:
- Cơ quan BHXH có thể phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư để
nắm được số lượng các doanh nghiệp thành lập và hoạt động trên địa bàn
quận. Vì Sở Kế hoạch và Đầu tư là nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp khi muốn hoạt động kinh doanh trên địa bàn nào đó
Hoàng Thị Quỳnh

23

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
đều phải đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi đó. Do đó Sở
Kế hoạch Đầu tư sẽ nắm được số liệu chính xác về số doanh nghiệp hoạt
động trên địa bàn. Phối hợp với họ thì BHXH sẽ có được nguồn số liệu
chuẩn về số lượng doanh nghiệp cần phải tham gia BHXH trên địa bàn
quận mình. Đồng thời có thể đánh giá được tình hình tham gia BHXH tại
quận mình đã tốt hay chưa, số lượng các doanh nghiệp trốn đóng để có
các kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để xử lý, yêu cầu các doanh
nghiệp tham gia đầy đủ.
- Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội để có thể nắm
được số lượng lao động thực tế tại doanh nghiệp, thang bảng lương thực tế
của doanh nghiệp. Vì doanh nghiệp khi đi vào hoạt động sẽ phải đăng ký số
lượng lao động làm việc trong doanh nghiệp và đăng ký bảng lương với Sở

Lao động Thương binh và Xã hội, mức lương của từng chức danh, nhóm
chức danh trong doanh nghiệp. Vì vậy việc kết hợp với Sở Lao động
Thương binh và Xã hội sẽ giúp cơ quan BHXH nắm được mức lương chính
xác mà người sử dụng lao động trả cho người lao động có phù hợp với
chức danh, vị trí và tính chất lao động của người lao động hay không.
Tăng cười công tác điều tra nắm đói tượng tham gia BHXH. Hiện
nay, UBND các phường là nơi nắm rõ nhất tình hình biến động và sử dụng
lao động ở các doanh nghiệp. Cơ quan BHXH cần phối hợp với các
UBND phường có chương trình, kế hoạch cụ thể để thường xuyên phối
hợp làm tốt công tác điều tra, nắm tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp trên địa bàn.
Cần phối hợp với cơ quan thuế để nắm được bảng lương thực tế mà
doanh nghiệp sử dụng.
Ngoài ra, thanh kiểm tra số lao động thực tế tại các doanh nghiệp
thông qua các cuộc thanh tra xuống đơn vị.
2.3. Hoàn thiện và hiện đại hóa công nghệ thông tin trong công tác
thu BHXH
Cán bộ thu cần được trang bị đầy đủ trang thiết bị tin học hiện đại
như máy tính, máy in, máy photocopy, internet. Ngoài ra, hệ thống máy
tính cũng cần phải được cài đặt những phần mềm mới nhất do BHXH Việt
Nam cung cấp và quy định sử dụng. Việc thiết lập một hệ thống liên kết
Hoàng Thị Quỳnh

24

Lớp Đ10 BH03


Trường ĐH Lao động Xã hội
toàn ngành là hết sức cần thiết. Việc này sẽ giúp cho các cán bộ thu ở các

cơ quan BHXH có thể trao đổi thông tin cần thiết, tránh được tình trạng
cùng một thông tin phải nhập đi nhập lại nhiều lần mỗi khi người lao động
chuyển địa bàn đóng BHXH.
Để có những trang thiết bị hiện đại thì cần có một khoản kinh phí
nhất định. Ban lãnh đạo BHXH Ba Đình cần yêu cầu BHXH thành phố Hà
Nội cung cấp các thiết bị mới và hiện đại. Vì cơ quan BHXH không được
tự trang bị cơ sở vật chất mà phải do BHXH thành phố cấp xuống. Hơn
nữa, khi đã có công nghệ tin học thì đòi hỏi cán bộ thu phải có trình độ tin
học để có thể sử dụng thành thạo và hiệu quả những thiết bị đó. Việc này
đòi hỏi các cán bộ thu phải có tính thần tự giác học hỏi vì điều kiện thời
gian và kinh phí không cho phép cơ quan BHXH có thể mở các lớp đào tạo
tin học cho tất cả các cán bộ nhân viên trong cơ quan. Để có thể sử dụng
thành thạo và hiệu quả những thiết bị này phục vụ cho công việc thì các cán
bộ phải tự tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao kỹ năng sử dụng.
2.4. Tăng cường công tác thanh kiểm tra việc thực hiện chế độ BHXH,
đốc nợ tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; xử lý nghiêm đối
tượng vi phạm.
Thanh kiểm tra sẽ giúp cho cơ quan BHXH nắm được tình hình thực
hiện chính sách BHXH tại doanh nghiệp, phát hiện được các vi phạm về
BHXH để từ đó có những hình thức xử lý hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm
quyền xử lý vi phạm.
Đốc nợ các doanh nghiệp để họ biết được hiện nay mình còn nợ bao
nhiêu tiền BHXH với thời gian bao lâu để tránh được tình trạng họ cố tình
lờ đi không đóng vì không thấy cơ quan BHXH thông báo, yêu cầu đóng.
Cơ quan BHXH cùng với các cơ quan hữu quan có thể tổ chức các
cuộc thanh tra xuống tận doanh nghiệp để kiểm tra tình hình thực hiện chế
độ chính sách BHXH tại doanh nghiệp thực tế diễn ra như thế nào; bằng
các biện pháp nghiệp vụ kiểm tra số lượng lao động thực tế làm việc tại
doanh nghiệp xem có phù hợp với số liệu báo cáo lên cơ quan BHXH hay
không; đốc thúc doanh nghiệp đóng đầy đủ BHXH.

Việc đốc nợ các doanh nghiệp nợ đọng, chậm đóng hiện nay mới
chỉ dừng lại ở mức gửi công văn đốc nợ. Phương pháp này thực sự chưa
có hiệu quả vì các doanh nghiệp khi đã cố tình trốn đóng thì họ có thể lờ
Hoàng Thị Quỳnh

25

Lớp Đ10 BH03


×